Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

TRÌNH BÀY NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CƠ BẢN CỦA CÔNG CUỘC HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.65 KB, 7 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI
---------------
BÀI THI HẾT MÔN
TRÌNH BÀY NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN CƠ BẢN
CỦA CÔNG CUỘC HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ
KỶ XX
Giáo viên hướng dân : GV Lan Hương
Người thực hiện : Nguyễn Hồng Phong
LỚP : ĐẠI HỌC BIÊN ĐẠO I
Hà Nội -2007
BÀI LÀM
Trong cuộc sống ngày nay hai khái niệm hiện đại và hiện đại hoá là
những mục tiêu và tôn chỉ để xây dựng đất nước văn minh giàu đẹp. Tuy
nhiên đó là khái niệm chung còn nếu tách riêng hai khái niệm này đặt
trong lĩnh vực văn học (Văn học Việt Nam thế kỷ XX) thì chúng ta cần và
nên hiểu ra sao?
Văn học Việt Nam hiện đại được tình từ năm 1930 trở đi. Khái niệm
“hiện đại” và “hiện đại hoá” trong văn học được giải thích như sau:
Hai chữ “Hiện đại” gắn liền với phương Tây, làm theo mô hình
phương Tây và học tập cách làm văn hoá, văn học của phương Tây.
“Vấn đề Âu hoá của người Việt Nam cũng là hiện đại hoá” (Đặng
Thai Mai). Vì vậy, văn học Việt Nam là một kiểu lựa chọn theo mẫu hình
và mô hình của phương Tây.
Yếu tố hiện đại được thể hiện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX:
Trong cả nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đã hình thành một môi
trường văn học thống nhất gồm công nghệ in ấn hiện đại, hệ thống phát
hành các văn bản và có công chúng đọc báo chí và văn hoạ. Và đương
nhiên có người viết báo, viết văn và người đọc báo, đọc văn.
Hình thành những nhà văn và người viết báo chuyên nghiệp sống
bằng ngòi bút của mình.
Vai trò chỉ đạo của những nguyên tắc và thủ pháp văn học hoàn toàn


khác trước.
Như vậy, khái niệm “hiện đại” trong nghiên cứu văn học thường
dành để chỉ văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Trong vòng thế kỷ XX, một nền văn học hiện đại chính là một nền
văn học xây dựng theo mẫu hình phương Tây. Tuy nhiên, mỗi dân tộc sẽ
2
xây dựng mô hình văn học theo tính cách, bản sắc dân tộc của mình và
theo sự lựa chọn riêng.
Quá trình hiện đại thường đồng thời là quá trình mà trong đó xu thế
dân tộc hoá và dân chủ hoá đóng vai trò các định hướng liên tục và ổn
định. Vì vậy, so với văn học trung đại, nền văn học hiện đại thế kỷ XX trở
thành nền văn học dân tộc với toàn bộ ý nghĩa đầy đủ của từ này và thực
sự văn học Việt Nam hiện đại thế kỷ XX đã hoàn thiện tinh thần dân chủ
sẵn có trong văn học truyền thống một cách hoàn thiện. Đứng trên nhìn
góc cạnh để nhìn nhận và phản ánh vào tác phẩm văn học và dần đàn có
sự hiện đại hoá trong văn học.
Có thể nói văn học Việt Nam từ thế kỷ XX đến nay đã và đang bước
vào quá trình hiện đại hoá
Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng Tám năm
1945 có một vị trí rất quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử văn
hoá Việt Nam. Ở thời kỳ này, Văn hoá Việt Nam có nhiều thay đổi lớn
dần đến những biến đổi sâu sắc trong ý thức và tâm lí con người. Mặt
khác nền văn hoá và tâm hồn người Việt đến thời kỳ này có điều kiện
vượt dần ra ngoài giới hạn của khu vực ảnh hưởng văn hoá Trung hoa để
tiếp xúc với thế giới hiện đại. Và riêng về thơ thì phong trào thơ Mới khởi
lên từ 1932 đã đóng vai trò quyết định trong công cuộc hiện đại hoá thơ
ca ở Việt Nam. Cá tính sáng tạo được giải phóng, hàng loạt tiếng thơ trẻ
trung và tài năng ra đời với màu sắc, giọng điệu khác nhau: Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan
Viên...

Đặc biệt nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận là 2 khuôn mặt lớn của
dòng thơ lãng mạn thời kỳ này. Những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của
hai tác giả này cũng tiêu biểu cho những cống hiến của dòng văn học lãng
mạn trong nền văn hoá hiện đại.
Thơ Xuân Diệu, Huy Cận trước hết thể hiện tình yêu thiên nhiên say
đắm, nồng nàn. Bằng cảm hứng láng mạn, các nhà thơ đó đã hoa lên
3
những bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc và đường nét độc đáo. Quê
hương Việt Nam hiện lên tỏng thơ họ thật là mỹ lệ. Và bài “Đây Thôn vĩ
Dạ” của Hàn Mặc Tử, “Tràng Giang” của Huy Cận là một minh chứng cụ
thể.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chờ đến?” (Hàn Mặc Tử)
Cảm xúc dào dạt trên đầu ngòi bút, lời tránh nhỏ nhẹ êm ái, thiết tha
vì lời thơ đã hoá thành thơ. Âm thanh, màu sắc hình ảnh như đã sẵn trong
hồn thi nhân, chỉ cân gợi lại là hiện lên sấy động làm nao lòng người.
“Nhìn mấy hàng cau nắng mới lên”
Nắng sớm nhuộm vàng trên những đọt cau trong khi vườn tươi còn
mát đẫm sương đêm là một cảnh gây ấn tượng sâu sắc đến với những ai đã
đến Vĩ Dạ. Cảnh vật tươi sáng rực rỡ tinh khiết trinh nguyên dưới năng
mang đang vận động đang lên; “Mới lên”.
Sang khổ thơ thứ hai không gian được mở ra với sự chuyển động
của gió mây, với sóng trăng huyền ảo.
“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”.
Không gian mở ra chiều rộng mà tình lắng vào chiều sâu. Dòng

Hương Giang như tấm gương trong phản chiếu cả nỗi buổn của thi nhân,
của tình nhân. Và một chút lay động nhẹ của “hoa bắp” khiến cho cảnh
thêm sao xuyến, hay lòng người xao xuyến? Nhưng thi nhân không chìm
trong nỗi buồn mà say với mộng mơ:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”.
4
Dòng sông mênh mông chỉ có một con thuyền “đậu”. May thay con
thuyền không đậu một bến bờ nào mà đậu bến bờ của hư ảo, của huyền ảo
“bến sông trăng” chính tinh thần lãng mạn ấy đã làm cho sự cô đơn đến
tận cùng rồi, buồn đến tận cùng rồi mà lại thành mộng mơ.
Giai điệu của đoạn cuối lại tha thiết, dục giã như giai điệu của đoạn
thơ đầu.
“Mơ khách đường xa khác đường xa.
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mở nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà“.
Tình của thi nhân với giai nhân thật là tha thiết mà hình ảnh thì
mộng mị “Áo em trắng quá nhìn không ra“ không màu, lạnh, tinh anh mà
nhạt nhoà. Cái nhạt nhoà dễ khiến người tình không thể không hoài nghi.
“Ở đây sương khói mở nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà“.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ dạ“ của Hàn Mặc Từ gợi lên một hình ảnh thơ
mộng của thiên nhiên xứ Huế, của con người xứ Huế và mối tình lãng
mạn giữa thi sĩ với giai nhân. Bằng ngôn ngữ thơ tráng lệ, nhà thơ đã biểu
hiện tình yêu say đắm, nồng nàn đối với cảnh và người xứ Huế khao khát
một vẻ đẹp thánh thiện, một tình yêu như mộng như mơ.
Còn “Tràng Giang„ của Huy Cận lại bắt nguồn từ cảm xúc trước
sông nước Hồng hà mênh mông. Hình ảnh của thiên nhiên được ghi lại
trong hồn thơ Huy Cận thật là đẹp, thật là xao động nhưng hơi buồn.

5

×