TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ- ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
BẤT BÌNH ĐẲNG VỪA LÀ HỆ QUẢ CẦN THIẾT
VỪA LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA QUÁ TRÌNH TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................................4
1
1.1 Những vấn đề về tăng trưởng kinh tế...................................................................................................5
1.1.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế...................................................................................................5
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế........................................................................................................5
1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.............................................................................6
1.1.3.1 Nhân tố kinh tế............................................................................................................................6
1.1.3.2 Nhân tố phi kinh tế......................................................................................................................6
1.2 Những vấn đề về bất bình đẳng............................................................................................................7
1.2.1 Khái niệm.......................................................................................................................................7
1.2.2 Phân loại bất bình đẳng..................................................................................................................7
1.2.2.1 Bất bình đẳng xã hội...................................................................................................................7
1.2.2.2 Bất bình đẳng kinh tế..................................................................................................................8
1.2.2.2.1 Khái niệm bất bình đẳng kinh tế..............................................................................................8
1.2.2.2.2 Nguyên nhân của bất bình đẳng kinh tế...............................................................................9
1.2.2.2.2.1 Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản............................................................9
1.2.2.2.2.2 Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động.................................................10
Chương 2 : MỐI QUAN HỆ GIỮA BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.........................10
2.1 Các lí thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng và bất bình đẳng.......................................................10
2.1.1 Lí thuyết chữ U ngược của Simon Kuznets (1955)......................................................................11
2.1.2 Mơ hình tăng trưởng trước bình đẳng sau của A.Lewis...............................................................12
2.1.3 Mơ hình tăng trưởng đi đơi với bình đẳng của H. Oshima...........................................................12
2.1.4 Mơ hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế của ngân hàng thế giới WB.......................13
2.2 Bất bình đẳng là hệ quả cần thiết của tăng trưởng kinh tế.................................................................13
2.3 Bất bình đẳng là nguyên nhân của quá trình tăng trưởng kinh tế......................................................15
2.4 Tác động của bất bình đẳng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam.........................................................17
2.4.1 Tác động gián tiếp của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng.......................................18
2.4.2 Tác động trực tiếp của Bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng......................................19
2.5 Thực tiễn mối quan hệ giữa bất bình đẳng và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam..................................19
2.6 Một số kiến nghị để gải quyết vấn đề bất bình đẳng và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay....24
KẾT LUẬN..................................................................................................................................................26
2
LỜI MỞ ĐẦU
Một xã hội phát triển toàn diện địi hỏi khơng chỉ tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà cịn cần tới
sự phân phối cơng bằng hơn. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là những vấn đề lớn mà bất
cứ xã hội nào cũng đều phải quan tâm đến. Tăng trưởng nhanh và thực hiện phân phối công bằng
là những mục tiêu mà nhiều quốc gia đều mong muốn đạt được. Giữa tăng trưởng kinh tế và phân
phối thu nhập có sự liên quan mật thiết với nhau. Tuy nhiên, cũng tồn tại nhiều cách nhìn nhận
khác nhau đối với mối liên hệ này. Do đó, cho đến nay chưa có một quốc gia nào xây dựng được
một mơ hình giải quyết hồn hảo mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Việt Nam là một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ
tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Qua hơn 20 năm đổi mới theo nền kinh tế thị
trường, mở cửa và hội nhập vào khu vực và thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất ấn
tượng. Đó là tăng trưởng kinh tế cao so với một số nước trong khu vực và thế giới, trong khi tỷ lệ đói
nghèo ngày càng giảm. Việt Nam ngày càng được biết đến như một nền kinh tế năng động hàng đầu
trong các nước đang phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế thị trường sẽ tạo ra sự
chênh lệch về trình độ và phát triển từ đó dẫn đến sự bất bình đẳng và nếu vượt quá một giới hạn nào
đó sẽ là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự mất ổn định. Và Việt Nam cũng khơng bị loại trừ khỏi
quy luật đó, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, nhiều vấn đề của xã hội ngày càng trở nên bức
xúc: khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày càng lớn, phân hố giàu nghèo ngày càng
gay gắt… Chính vì vậy, yêu cầu của sự phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn đòi hỏi bức thiết
trong việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, đặc biệt là cơng bằng trong phân phối thu nhập. Do
đó việc nghiên cứu lý luận tăng trưởng kinh tế, phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường và
vận dụng vào Việt Nam là hết sức cần thiết, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực
tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tơi quyết định chọn đề tài: “Bất bình đẳng vừa
là hệ quả cần thiết vừa là nguyên nhân của quá trình tăng trưởng kinh tế. ”
Với đề tài này tôi chỉ tập trung nghiên cứu những lý thuyết về tăng trưởng, bất bình đẳng và
những tác động của tăng trưởng kinh tế đối với phân phối thu nhập, từ đó liên hệ thực tiễn
Việt Nam. Tôi hi vọng khi nắm vững được những cơ sở lý thuyết này, có thể áp dụng vào nền kinh
tế Việt Nam giúp các nhà quản lý đưa ra các chính sách thích hợp để đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam.
3
Chương1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Những vấn đề về tăng trưởng kinh tế
1.1.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về quy mô sản lượng quốc gia hoặc quy mô sản lượng quốc gia
tính bình qn trên đầu người qua một thời gian nhất định.
Có thể nói bản chất của tăng trưởng kinh tế là sự đảm bảo sự gia tăng cả quy mô sản lượng và sản
lượng bình quân đầu người.
1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Do đó nhìn
chung tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của mức sản lượng quốc dân.
t Yt Yt 1
g t 1 100%
Y
Trong đó:
gt là tốc độ tăng trưởng của thời kỳ t.
Yt là GDP thực tế của thời kỳ t.
GDP là thước đo được chấp nhận rộng rãi về mức sản lượng của một nền kinh tế. GDP
được nói đến ở đây là GDP thực tế chứ khơng phải GDP danh nghĩa, tức là đã loại bỏ sự biến động
của giá cả theo thời gian.
Thước đo trên có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số tăng rất nhanh trong khi GDP thực tế lại
tăng trưởng chậm. Một định nghĩa khác có thể thích hợp hơn về tăng trưởng kinh tế tính theo mức
sản lượng bình qn đầu người được tính bằng tổng sản lượng hàng hố và dịch vụ được tạo ra
trong năm chia cho dân số. Chính vì vậy chỉ tiêu ý nghĩa hơn về tăng trưởng kinh tế được tính
bằng phần trăm thay đổi của GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ nghiên cứu so với thời
kỳ trước - thơng thường tính cho một năm.
t yt yt 1
g pc t 1 100%
y
Trong đó:
gpct là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ t.
y là GDP thực tế bình quân đầu người.
4
Khi các nhà kinh tế nghiên cứu tăng trưởng kinh tế, họ quan tâm đến tăng trưởng của sản
lượng thực tế (hay sản lượng trên mỗi đầu người) trong một thời kì dài để có thể xác định được
các yếu tố làm tăng GDP thực tế tại mức tự nhiên trong dài hạn.
1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
1.1.3.1 Nhân tố kinh tế
Đây là những nhân tố tác động trực tiếp đến các biến đầu vào và đầu ra của nền kinh tế.
- Vốn: là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế. Ở các nước đang phát triển sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng trưởng
kinh tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Lao động: là yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây chỉ quan niệm lao động là
yếu tố vật chất đầu vào, được xác định bằng số lượng dân số nguồn lao động mỗi quốc
gia. Những mơ hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi
vật chất của lao động gọi là vồn nhân lực, đó là các lao động có kĩ năng sản xuất, có sáng
kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế.
- Tài nguyên thiên nhiên : là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển. Tài
nguyên thiên nhiên có vai trị quan trọng để phát triển kinh tế. Nó tạo điều kiện thuận lợi
cho các nước được thiên nhiên ưu đãi có được những lợi thế so sánh. Từ đó phát triển các
mặt hàng là thế mạnh của nước mình.
- Công nghệ : Công nghệ sản xuất cho phép q trình sản xuất có hiệu quả hơn.
Cơng nghệ phát triển ngày càng nhanh chóng và ngày nay cơng nghệ thông tin, công nghệ
sinh học, công nghệ vật liệu mới… có những bước tiến như vũ bão góp hần gia tăng hiệu
quả của sản xuất.
1.1.3.2 Nhân tố phi kinh tế
Khác với các yếu tố kinh tế, các nhân tố phi kinh tế có tính chất và nội dung tác động khác. Ảnh
hưởng của chúng là gián tiếp khơng thể lượng hóa cụ thể được mức độ tác động của nó đến tăng
trưởng kinh tế. Các nhân tố phi kinh tế không tác động một cách riêng rẽ mà mang tính tổng hợp, đan
xen, tất cả chồng vào nhau tạo nên tính chất đồng thuận trong q trình tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
- Đặc điểm văn hóa xã hội: đây là nhân tố quan trọng có tác động nhiều đến q trình phát triển.
Trình độ văn hóa mỗi dân tộc là nhân tố cơ bản để tạo ra các yếu tố cơ bản về chất lượng lao động,
của kỹ thuât, của trình độ quản lý kinh tế - xã hội.
- Nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội: Các nhân tố thể chế chính trị - kinh tế - xã hội được
thừa nhận tác động đến q trình phát triển đất nước theo khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý và
môi trường xã hội cho các nhà đầu tư.
5
Ngồi ra cịn một số nhân tố như cơ cấu dân tộc, tôn giáo,… cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng
kinh tế tùy thuộc vào chính sách của chính phủ.
1.2 Những vấn đề về bất bình đẳng
1.2.1 Khái niệm
Trước hết, bất bình đẳng là một vấn đề trung tâm của xã hội học, nó là cơ sở tạo nên sự phân tầng
xã hội. Bất bình đẳng không phải là hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân mà nó
xuất hiện khi có một nhóm xã hội kiểm sốt và khai thác các nhóm xã hội khác.
Khái niệm bất bình đẳng: bất bình đẳng là sự khơng ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối
với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhóm.
1.2.2 Phân loại bất bình đẳng
1.2.2.1 Bất bình đẳng xã hội
Bất bình đẳng không phải là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá nhân trong
xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã hội kiểm sốt và khai thác các nhóm xã hội khác,
qua những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống bất bình đẳng khác nhau.
Vậy bất bình đẳng xã hội là sự khơng ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối với những
cá nhân khác nhau trong nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội.
- Những yếu tố chủ yếu của bất bình đẳng xã hội là văn hóa và cơ cấu xã hội
- Cơ sở tạo nên bất bình đẳng xã hội: Trong xã hội khác nhau bất bình đẳng cũng có nhứng nét
khác biệt. Ở xã hội quy mơ lớn và hồn thiện hơn thì bất bình đẳng gay gắt hơn so với trong các xã
hội giản đơn. Bất bình đẳng thường xuyên tồn tại với những nguyên nhân và hệ quả cụ thể liên quan
đến giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tơn giáo, lãnh thổ…
- Có ba cơ sở chính dẫn đến nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội :
Cơ hội trong đời sống: Ví như những điều kiện vật chất thuận lợi tạo ra điều kiện để cải thiện
cuộc sống (tài sản, thu nhập, sự chăm sóc sức khỏe, cơng việc ổn định và an tồn…)
Địa vị xã hội: Được các thành viên khác trong xã hội trọng vọng, có uy tín và vị trí cao trong
xã hội.
Ảnh hưởng chính trị: Là khả năng của một nhóm xã hội khác nhau, có ảnh hưởng mạnh mẽ
trong việc ra quy định và thu được lợi từ các quyết định đó.
Tóm lại có thể nhận thấy rằng bất bình đẳng có thể dựa trên một trong sự ưu thế. Gốc rễ của sự
bất bình đẳng có thể nằm trong các mối quan hệ thống trị về chính trị.
6
1.2.2.2 Bất bình đẳng kinh tế
1.2.2.2.1 Khái niệm bất bình đẳng kinh tế
Trong các nền kinh tế đang phát triển, do vai trò quyết định nổi bật của kinh tế đối với sự tồn tại
và phát triển của các cá nhân và xã hội, cho nên nội dung quan trọng nhất của bình đẳng xã hội trước
tiên và chủ yếu là bình đẳng về kinh tế.
Theo quan điểm của Marx, bình đẳng kinh tế (cịn gọi là cơng bằng xã hội) là sự ngang bằng nhau
giữa người với người về một phương diện hoàn tồn xác định, đó là phương diện quan hệ giữa nghĩa
vụ với quyền lợi, giữa cống hiến với hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến lao động ngang nhau thì
được hưởng ngang nhau.
Trước hết, nói đến bình đẳng kinh tế về cơ bản gắn với bình đẳng về phân phối thu nhập. Bình
đẳng trong phân phối thu nhập bao gồm bình đẳng về thu nhập, về phúc lợi xã hội, về điều kiện sống
nhìn về khía cạnh sinh hoạt – tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình, của nhóm người. Như vậy, nói theo
ngơn ngữ hiện đại, bình đẳng thu nhập chính là hàm nghĩa một sự “ngang nhau ” nào đó về mức độ
thỏa dụng trong tiêu dùng của các cá nhân.
Bình đẳng thu nhập hồn tồn khơng đồng nghĩa với chủ nghĩa bình quân. Lịch sử nhiều nước đã
từng có giai đoạn phát triển mang nặng tính bình qn chủ nghĩa, đề cao sự phân phối chia đều cho
mọi người (thực chất là nỗ lực trao cho người nghèo và những người thuộc nhóm yếu thế quyền được
nhận sự phân phối ngang với nhóm người giàu và những người khơng bị kém thế). Nói như vậy có
nghĩa là bình đẳng thu nhập không phải là sự đánh đồng tuyệt đối cũng không phải là sự chia đều
phúc lợi theo kiểu công bằng cho tất cả mọi người.
Mặt khác, hiểu theo nghĩa rộng hơn, nói đến bất bình đẳng kinh tế cũng phải nói đến bất bình
đẳng về cơ hội phát triển của mỗi thành viên trong xã hội. Trên thực tế, mối chủ thể xã hội khác nhau,
với những “cơ hội phát triển” khác nhau, ví dụ như cơ sở nguồn lực phát triển mà họ sở hữu khác
nhau hay những cá nhân có điều kiện xuất phát và điều kiện sống (tự nhiên, xã hội, gia đình, sức
khỏe, trí tuệ bẩm sinh…) khác nhau, họ sẽ có “cơ hội ” kiếm thu nhập khác nhau. Ở các nước đang
phát triển, điều này càng thể hiện rõ nét hơn. Nếu so sánh một người sống ở thành thị với một người
sống ở nông thôn, một người sống ở miền xuôi với một người sống ở miền núi, so sánh nam với
nữ, ... thì rõ ràng cơ hội phát triển của họ có sự khác biệt rất lớn. Còn những hiện tượng xuất hiện sự
khác biệt về cơ hội phát triển khác nữa không chỉ xảy ra ở các nước đang phát triển mà cả các nước
phát triển như : giữa người khỏe và người yếu, giữa người có gia đình và khơng có gia đình, người có
gia đình nhưng nhiều con và ít con, … Tất cả những trường hợp nói trên, chính là những nền tảng, cơ
sở tự nhiên, xã hội để xuất hiện sự bất cơng bằng trong phân phối thu nhập. Vì vậy, nguồn gốc của
bình đẳng thu nhập chính là sự công bằng trong cơ hội phát triển.
Như vậy, trong tư duy phát triển hiện tại, nội hàm giữa bình đẳng về kinh tế hay cơng bằng xã hội
phải bao gồm cả bình đẳng thu nhập và bình đẳng trong cơ hội phát triển, trong đó bình đẳng trong cơ
7
hội phát triển là yếu tố chi phối. Một cá nhân hay bất kì chủ thể phát triển nào khác (tập thể, doanh
nghiệp, hay cả quốc gia) có được cơ hội phát triển bình đẳng với các chủ thể khác có nghĩa là anh ta
có cơ sở để đạt được và duy trì vững chắc sự bình đẳng thu nhập và hưởng thụ các khu vực tiêu dùng
với đời sống xã hội. Tuy vậy, bình đẳng thu nhập chính là việc đối xử (phân phối) ngang nhau đối với
các chủ thể có cơ hội phát triển như nhau (cơng bằng ngang). Phấn đấu cho sự bình đẳng kinh tế một
cách lâu dài và vững chắc, điều quan trọng nhất là phải phấn đấu cho sự bình đẳng về cơ hội phát
triển cho mọi chủ thể. Trong trường hợp, khi còn tồn tại các cơ sở tự nhiên, xã hội, gia đình và cá
nhân của sự bất bình đẳng trong cơ hội phát triển, thì Chính phủ bằng chính sách của mình, có vai trị
quyết định trong sự giảm bớt bất cơng bằng thu nhập. Điều đó có nghĩa là, chính phủ cần có chính
sách “đối xử” (phân phối) khác nhau đối với các chủ thể khác nhau về cơ hội phát triển (công bằng
dọc).
Trên thế giới cũng như trong từng quốc gia, hiện nay vẫn đang tồn tại bất bình đẳng thu nhập khá
phổ biến và hình như sự phân hóa xã hội theo thu nhập ngày càng rõ nét hơn kể cả khi so sánh giữa
các nước phát triển với các nước đang phát triển và so sánh trong nội bộ từng nước. Việc nghiên cứu
tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở các nước đang phát triển chính là một nội dung rất quan trọng,
nhằm mục tiêu xác định các mơ hình hợp lý kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện sự lan
tỏa tích cực của tăng trưởng đến mọi tầng lớp dân cư trong xã hội để hướng đến một xã hội công bằng
hơn.
1.2.2.2.2 Nguyên nhân của bất bình đẳng kinh tế
1.2.2.2.2.1 Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản
Trong nền kinh tế thị trường,một bộ phận thu nhập của các cá nhân được phân phối
theo sở hữu các nguồn lực.Tuỳ theo các yếu tố sản xuất mà mỗi người có được cũng như việc định
giá các yếu tố đó trên thị trường cạnh tranh mà chúng có ảnh hưởng đến mức thu nhập của mỗi cá
nhân.Cách phân phối như vậy gọi là phân phối theo sở hữu các nguồn lực hay còn gọi là phân phối
thu nhập từ tài sản.Tài sản của mỗi cá nhân có được là do nhiều nguồn hình thành khác nhau.
Thứ nhất, bất bình đẳng thu nhập do được thừa kế tài sản. Nhiều cá nhân sinh ra đã là người
giàu vì họ được thừa kế một tài sản lớn. Sự bất công về thu nhập do của cải thừa kế tập trung vào
tay một số ít người đã gây nhiều sự phản đối và một cách được Chính phủ áp dụng để hạn chế sự
bất bình đẳng này là đánh thuế cao vào tài sản thừa kế và quà tặng.
Thứ hai, bất bình đẳng thu nhập do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm khác nhau của các cá nhân
ảnh hưởng lớn đến sự khác nhau về của cải tích luỹ được. Có những người tiết kiệm nhiều để tích
lũy một lượng của cải khi về hưu, tức là thu nhập của họ sẽ tăng trong tương lai so với những
người sẵn sàng tiêu dùng hết trong hiện tại.
Thứ ba, bất bình đẳng thu nhập do kết quả kinh doanh. Thực tế cho thấy nhiều người giàu có
vốn lớn, họ giám chấp nhận rủi ro, mạnh dạn đầu tư kinh doanh vào những lĩnh vực lợi nhuận cao
đồng thời rủi ro cũng cao như đầu tư chứng khốn, bất động sản, … thì họ càng giàu hơn và tạo ra
sự bất bình đẳng thu nhập với những người nghèo khơng có vốn làm ăn.
1.2.2.2.2.2 Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động
8
Lao động là điều kiện cơ bản tạo ra thu nhập.Tuy nhiên với kỹ năng lao động, điều kiện lao
động và tính chất nghề nghiệp khác nhau sẽ dẫn đến thu nhập khác nhau.Một số nguyên nhân dẫn
đến bất bình đẳng thu nhập từ lao động như:
Khỏc nhau về khả năng và kỹ năng lao động dẫn đến khác nhau về thu nhập: Xu hướng
chung là những người có thể lực khỏe mạnh, có trình độ học vấn cao và có kỹ năng lao động giỏi
thì nhận được mức thu nhập cao hơn, những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp
nên ít cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên
quan đến đầu tư, kinh doanh, giáo dục, sinh đẻ… điều đó khơng những ảnh hưởng đến thế hệ hiện
tại mà cả thế hệ tương lai. Do đó, Nhà nước cần có những chính sách đầu tư vào các lĩnh vực y tế,
giáo dục.
Khác nhau về cường độ làm việc: Ngay cả khi cơ hội làm việc của các cá nhân là như nhau
nhưng cường độ làm việc của họ khác nhau thì cũng sẽ dẫn đến mức thu nhập không bằng nhau
Khác nhau về nghề nghiệp và tính chất cơng việc: Đây là yếu tố quan trọng quyết định sự
khác biệt về tiền lương. Những cơng việc phổ thơng địi hỏi ít kỹ năng thường được trả lương
thấp; cịn những cơng việc chun mơn, có hàm lượng chất xám nhiều sẽ được hưởng mức lương
cao hơn.
Ngồi ra bất bình đẳng thu nhập từ lao động cịn có những ngun nhân khác như sự phân
biệt đối xử trong xã hội, xuất phát điểm của các cá nhân hay sự khơng hồn hảo của thị trường lao
động, ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác đều có liên quan đến sự khác biệt về tiền lương
của các cá nhân, gây nên tình trạng chênh lệch thu nhập.
Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA BẤT BÌNH ĐẲNG VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.1 Các lí thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng và bất bình đẳng
Tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập luôn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi. Trong
một nền kinh tế thống nhất, tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập cơng bằng là những khâu có
vị trí độc lập tương đối với nhau. Tuy nhiên trong sự phát triển kinh tế xã hội giữa tăng tưởng kinh
tế và phân phối thu nhập có mối quan hệ tương tác với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra của cải cho
xã hội chính là điều kiện thực hiện cơng bằng xã hội. Tăng trưởng càng cao, kinh tế càng phát
triển, càng có điều kiện để thực thi các chính sách công bằng xã hội. Ngược lại, phân phối thu nhập
công bằng sẽ có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Nó kích thích tính tích cực, sáng tạo của
mọi người nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nó cịn tạo ra một xã hội hài hồ giữa lợi ích cá
nhân và cơng cộng. Như vậy, phân phối thu nhập công bằng vừa là tiền đề để tạo ra ổn định xã hội,
vừa là động lực lớn cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trên thế giới có rất nhiều lý thuyết xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình
đẳng thu nhập. Điển hình có các lý thuyết sau:
9
2.1.1 Lí thuyết chữ U ngược của Simon Kuznets (1955)
Simon Kuznets, nhà kinh tế học Mỹ 1995 đã đưa ra một mơ hình nghiên cứu mang tính thực
nghiệm nhằm xem xét giữa thu nhập và tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Ơng đưa ra giả thiết rằng : Bất bình đẳng sẽ tăng ở giai đoạn đầu và giảm ở giai đoạn sau khi lợi
ích của sự phát triển được lan tỏa rộng rãi hơn.
- Giai đoạn kém phát triển : G thấp.
- Giai đoạn phát triển trung bình : G tăng cao.
- Giai đoạn phát triển : G thấp
- G tăng là do các nước hầu hết đang trong quá trình phát triển trung bình chính
vì thế mà G thế giới tăng.
- Ở các nước kém phát triển : G từ 0,3 đến 0,5.
Các nước phát triển trung bình : G từ 0,4 đến 0,6.
Các nước phát triển : G từ 0,2 đến 0,4.
Vì vậy, các nước phát triển trung bình và các nước phát triển cần ưu tiên nhiều cho vấn đề giải
quyết phúc lợi.
Tuy nhiên Mơ hình chữ U ngược cịn những hạn chế là khơng giải thích được 2 vấn đề quan
trọng: Thứ nhất, những nguyên nhân cơ bản nào tạo ra sự thay đổi bất bình đẳng trong quá trình phát
triển. Thứ hai, phạm vi khác biệt giữa các nước về xu thế thay đổi này trong điều kiện họ sử dụng các
chính sách khác nhau tác động đến tăng trưởng và bất bình đẳng ?
10
G
0.8
0.6
0.4
0.2
I II III GNI/Người
2.1.2 Mơ hình tăng trưởng trước bình đẳng sau của A.Lewis
Mơ hình này nhất trí với Kuznets về mơ hình chữ U ngược. Mơ hình này giải thích được ngun
nhân của xu thế này: Lúc đầu khi lao động dư thừa trong nông nghiệp thu hút vào công nghiệp vẫn
chỉ được trả lương ở mức tối thiểu, nhà tư bản có thu nhập được tăng cao do quy mô mở rộng và do
lao động của công nhân đem lại; Giai đoạn sau, khi lao động được thu hút hết và trở nên khan hiếm
tương đối thi lương được tăng lên bất bình đẳng về thu nhập giảm.
Theo A.Lewis, bất bình đẳng về thu nhập là điều kiện cần thiết để có tăng trưởng. Bất bình đẳng
làm cho thu nhập tập trung vào một số ít người tăng tiết kiệm và đầu tư phân phối lại một cách vội
vã sẽ hạn chế tăng trưởng kinh tế. Cách lý giải của A.Lewis về mối quan hệ giữa bất bình đẳng và
tăng trưởng dựa trên giả định về xu hướng tiết kiệm biên khi thu nhập thay đổi.
2.1.3 Mơ hình tăng trưởng đi đơi với bình đẳng của H. Oshima
Ý tưởng cơ bản của sự tăng trưởng đi đơi với bình đẳng dựa vào cách đặt vấn đề :
- Có thể hạn chế sự bất bình đẳng ngay từ giai đoạn đầu của sự tăng trưởng được không ?
Oshima đã xuất phát từ đặc điểm sản xuất cơng nghiệp ở Châu Á, đó là sản xuất lúa nước có tính
thời vụ cao và cho rằng quá trình tăng trưởng cần đươc bắt đầu từ khu vực nơng nghiệp. Chính trong
q trình này sẽ dẫn đến hạn chế sự bình đẳng trong quá trình tăng trưởng. Theo Oshima, trước hết
khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị sẽ được cải thiện ngay từ giai đoạn đầu. Việc tập
11
trung phát triển khu vực nơng thơn dựa trên chính sách cải cách ruộng đất dựa trên sự trợ giúp của
nhà nước về giống, kỹ thuật, đồng thời việc mở rộng và phát triển các ngành nghề đã làm cho thu
nhập ở khu vực nông thôn được tăng dần. Tiếp đó là q trình cải thiện dần khoảng cách thu nhập có
quy mơ lớn và xí nghiệp có quy mơ nhỏ ở thành thị, cũng như giữa nông trại lớn và nông trại nhỏ ở
nông thôn.
- Vậy điều này đã tác động như thế nào đến tăng trưởng
Theo Oshima, tiết kiệm sẽ tăng lên ở các nhóm dân cư, kể các nhóm có thu nhập thấp nhất, vì thu
nhập ở họ dần dần thỏa mãn các khoản chi và khi đó họ bắt đầu tiết kiệm để trả nợ các khoản vay đầu
tư nước đó và tiếp tục đầu tư phát triển sản xuất và đầu tư giáo dục đào tạo cho con em họ.
2.1.4 Mơ hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế của ngân hàng thế giới WB
Quan điểm này về cơ bản cũng cho rằng: Tăng trưởng kinh tế đi đơi với bình đẳng hay tăng
trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề phúc lợi.
Phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế là cách thức phân phối lại các thành quả của tăng
trưởng kinh tế sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập cần dduocj cải thiện hoặc ít nhất là
khơng xấu đi trong q trình tăng trưởng vẫn tiếp tục.
Giải pháp phân phối lại thu nhập được xem là quan trọng, nó bao gồm chính sách phân phối lại tài
sản và chính sách phân phối lại từ tăng trưởng.
Cần phải có nhứng chính sách phân phối lại tài sản vì: Ngun nhân cơ bản của tình trạng bất
cơng trong phân phối thu nhập của các cá nhân hầu hết các nước đang phát triển là do sự bất công
trong sở hữu tài sản, gần 20% dân số nhận được hơn 50% thu nhập vì 20% này có thể đã sở hữu và
kiểm sốt trên 70% các ngng lực sản xuất, đặc biệt là vốn vật chất, đất đai, thậm chí là cả vốn nhân
lực. Chính sách đã được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển để phân phối lại tài sản là chính
sách cải cách ruộng đất, chính sách nhằm tăng cường cơ hội giáo dục cho nhiều người. Tuy nhiên
trong thực tế các chính sách nói trên như chính sách cải cách ruộng đất chỉ thực sự là cơng cụ có tác
động đối với phân phối lại thu nhập khi có sự kết hợp với các chính sách tín dụng nơng nghiêp, nơng
thơn, chính sách tiêu thụ nơng sản, chính sách cơng nghệ.
2.2 Bất bình đẳng là hệ quả cần thiết của tăng trưởng kinh tế
Có thể xác nhận là chuyển sang kinh tế thị trường hội nhập quốc tế là một động lực căn bản tạo ra
sự tăng trưởng và phát triển ở các quốc gia đang và kém phát triển. Lịch sử hiện đại cho thấy hầu như
khơng có một quốc gia nào có thể tăng trưởng và phát triển bền vững mà lại không chuyển sang kinh
tế thị trường và không hội nhập quốc tế. Những quốc gia phát triển nhất hiện nay như Mỹ, Nhật, các
nước châu Âu đều là những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển cao và hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế tồn cầu. Ở châu Á, Trung Quốc, Hồng Kơng là những nước có nền kinh tế thị trường khá
12
toàn thiện và mở cửa hội nhập khá sâu rộng vào nền kinh tế tồn cầu, nên đó cũng là những nền kinh
tế phát triển sâu rộng.
Nói chung tăng trưởng cao là một yếu tố cơ bản của phát triển. Tuy nhiên tăng trưởng cao tới mức
nào và theo phương thức nào là phù hợp không dẫn tới tăng trưởng “nóng” khơng làm hủy hoại mơi
trường, không dẫn tới những vấn đề xã hội phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển bền vững. Đặc
biệt giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển và trong nội bộ các nước đang phát triển
vẫn đang tồn tại tình trạng bất bình đẳng. Tình trạng bất bình đẳng khơng chỉ tồn tại ở khía cạnh kinh
tế, mà cịn cả các khía cạnh khác như: bất bình đẳng về giới, bất bình đẳng dân tộc, bất bình đẳng
giữa các tầng lớp dân cư khác nhau. Trong bài này chúng ta sẽ đi sâu làm rõ về tình trạng bất bình
đẳng về thu nhập.
Số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO) cho thấy trong hơn hai thập kỷ vừa qua, khoảng cách giàu
- nghèo của Việt Nam có sự giãn rộng ra. Nguyên nhân là do xuất phát điểm từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, việc phân phối hiện vật mang tính bình qn, khi chuyển sang cơ chế thị trường, chênh
lệch giàu - nghèo tăng là tất yếu. Chênh lệch giàu - nghèo hiện ở mức trên 8 lần. Khoảng cách này là
khá thấp trên thế giới và còn trong khoảng có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng.
Sự phát triển kinh tế thị trường sẽ tạo ra sự chênh lệch về trình độ phát triển và thu nhập, vì những
vùng có nhiều lợi thế cạnh tranh sẽ tăng trưởng cao hơn các vùng sâu vùng xa, các thành phố sẽ có
tốc độ tăng trưởng cao hơn các vùng nơng thơn, những lao động có kỹ năng cũng sẽ có thu nhập cao
hơn những lao động khơng có kỹ năng. Do vậy sự chênh lệch về triển là khó tránh khỏi. Và cũng phải
nói là kinh tế thị trường ra đời cùng với sự chênh lệnh về phát triển, và nếu một quốc gia phải cùng
một lúc đầu tư phát triển đồng đều tất cả các vùng – kể cả các vùng có lợi thế, cũng như những vùng
khơng có lợi thế, thì quốc gia đó khó có thể tăng trưởng cao được và cũng khó có những nhà đầu tư
chịu lỗ để kinh doanh những vùng khơng có lợi thế cạnh tranh.mọi nhà kinh doanh trong nền kinh tế
thị trường đều phải tìm kiếm lợi nhuận, họ sẽ thìm những nơi có đầu tư có lợi nhất để kinh doanh, do
vậy ở đó phát triển và những nơi kém lợi thế sẽ kém, hoặc không phát triển, những lĩnh vực kinh
doanh cũng vậy. Đó là quy luật của kinh tế thị trường. Sự chênh lệch về trình độ phát triển do lợi thế
cạnh tranh tạo ra sẽ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển, tạo ra những cơ hội để chính phủ có thể hổ trợ
cho các vùng sâu, vùng xa, những người nghèo, giảm bớt sự bất bình đẳng duy trì được ổn định và an
ninh quốc gia.
Như vậy, sự chênh lệch về trình độ phát triển do kinh tế thị trường tạo ra sẽ dẫn đến sự bất bình
đẳng. Nói cách khác, bất bình đẳng là hệ quả cần thiết của tăng trưởng kinh tế hiện nay. Bất bình
đẳng khơng nhất thiết dẫn đến đói nghèo, mất ổn định xã hội và an ninh ; mà phải trong những điều
kiện cụ thể nào đó. Những điều kiện cụ thể này lại khác nhau tùy từng nước. Nếu từng nước có hệ
thống chính trị yếu kém, thối nát khơng có chính sách xóa đói giảm nghèo phù hợp thì chênh lệch về
sự phát triển không cao cũng đủ dẫn đến nghèo đói và mất ổn định xã hội. Hoặc nếu có sự can thiệp
của lực lượng chống đối từ bên ngồi, kích động các tầng lớp nghèo khó nổi loạn, thì những nguyên
nhân do bất bình đẳng gây ra trở nên thứ yếu hơn. Do vậy không nên xem xét mối quan hệ giữa tăng
13
trưởng kinh tế và bất bình đẳng một cách biệt lập, mà phải xem xét chúng trong những điều kiện cụ
thể. Khơng phải cứ có sự bất bình đẳng thù sẽ dẫn tới suy giảm kinh tế, đói nghèo và mất ổn định và
an ninh.
2.3 Bất bình đẳng là nguyên nhân của quá trình tăng trưởng kinh tế
Các cơng trình nghiên cứu kinh tế đã từng cho rằng việc phân phối không công bằng là điều
kiện cần thiết để tạo ra sự tăng trưởng nhanh, cùng với đó các lập luận kinh tế cơ bản được dùng
biện bạch cho sự bất công lớn về thu nhập rằng thu nhập công ty cao là những điều kiện để tiết
kiệm, để có thể đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Cách đây một thế kỷ, bất bình đẳng được coi là điều kiện cần cho đầu tư và tăng trưởng bởi vì
người giàu kiếm được nhiều hơn. Năm 1919, nhà kinh tế học người Anh Keynes đã viết “chính sự
bất bình đẳng trong phân phối làm cho khối tài sản cố định khổng lồ và những cải thiện tài chính
có thể phân biệt “Thời đại vàng” với những thời đại khác.
Gần đây, người ta quan tâm đến tác dụng khuyến khích của nó. Milton Friedman biện luận
rằng bất bình đẳng càng lớn thì càng khích lệ mọi người làm việc chăm chỉ hơn và đẩy mạnh năng
suất lao động. Gary Becker từ trường Đại học Chicago nghĩ rằng bất bình đẳng khuyến khích
người ta đầu tư vào giáo dục. Tự do kinh tế và cơ chế khuyến khích tốt hơn đã thúc đẩy tăng
trưởng ở Trung Quốc, Ấn Độ và những nơi khác. Kinh nghiệm của Thụy Điển cho thấy việc bác
bỏ quy định, thuế thấp hơn, ít phúc lợi hơn sẽ tăng động lực kinh tế ngay cả khi họ giảm sự bình
đẳng.
Đất nước càng có khả năng tiết kiệm thì tốc độ tăng trưởng của nó càng nhanh. Nếu người
giàu tiết kiệm và đầu tư một tỉ lệ đáng kể trong thu nhập của họ, trong khi người nghèo sử dụng tất
cả thu nhập của họ vào tiêu dùng, và nếu tỉ lệ tăng GNP trực tiếp liên quan đến phần thu nhập quốc
dân được đưa vào tiết kiệm, thì rõ ràng một nền kinh tế có phân phối thu nhập khơng cơng bằng sẽ
tiết kiệm được nhiều hơn và tăng trưởng nhanh hơn nền kinh tế có thu nhập cơng bằng. Sau đó, thu
nhập quốc dân và thu nhập bình quân đầu người sẽ đủ cao để thực hiện việc phân phối thu nhập
thông qua thuế và trợ cấp. Tuy nhiên, mức độ bất bình đẳng ở đây phải ở mức độ vừa phải, nếu
tình trạng bất bình đẳng quá cao sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng, dẫn đến nhiều vấn đề kinh tế - xã
hội khác.
Quốc hội và Chính phủ Việt Nam đã nhận thấy sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, các
nhóm dân cư là một thách thức lớn đối với sự ổn định xã hội và phát triển hài hịa của đất nước. Bất
bình đẳng ngày càng tăng, cùng với những thách thức khác trong q trình phát triển, địi hỏi cấp
bách phải có những thay đổi trong chương trình chính sách trong thời gian tới. Nhằm tìm hiểu nhận
thức của người dân và các giải pháp chính sách liên quan đến sự gia tăng bất bình đẳng tại Việt Nam,
tổ chức Oxfam đã thực hiện một nghiên cứu “nhận thức về bất bình đẳng” trong năm 2013. Nghiên
cứu này chú trọng tìm hiểu nhận thức của các nhóm dân cư về mối quan hệ tương hỗ giữa bất bình
đẳng gia tăng với dịch chuyển xã hội, niềm tin xã hội/niềm tin thể chế và phân bổ nguồn lực - đây là
những vấn đề cơ bản của phát triển hài hòa và bền vững mà các nghiên cứu trước chưa đề cập đến
hoặc đề cập chưa đầy đủ. Nghiên cứu của Oxfam tiếp tục khẳng định phát hiện của một số nghiên cứu
14
gần đây rằng, các khía cạnh bất bình đẳng gia tăng ngày càng trở thành mối quan tâm của các tầng
lớp dân cư. Đa số người dân chấp nhận sự gia tăng bất bình đẳng về kết quả (thu nhập, chi tiêu, tài
sản) nếu chúng được tạo ra từ các tiến trình tích cực xứng đáng với những người có học vấn, kỹ năng,
tài năng, chấp nhận rủi ro và lao động chăm chỉ. Tuy nhiên, khơng phải khía cạnh bất bình đẳng nào
cũng được chấp nhận. Bất bình đẳng về kết quả hoặc cơ hội tạo ra bởi những cách thức khơng chính
đáng, như sử dụng quyền thế hoặc ảnh hưởng cá nhân, đặc quyền và tham nhũng, thường khơng được
chấp nhận.
Bất bình đẳng gia tăng và dịch chuyển xã hội. Sự chấp nhận đối với bất bình đẳng thu nhập gia
tăng phụ thuộc nhiều vào nhận thức của người dân về cơ hội “dịch chuyển xã hội”. Hầu hết người dân
với đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau tại các điểm khảo sát có xu hướng chấp nhận những người khá
giả vượt lên một cách chính đáng so với mình (chấp nhận bất bình đẳng thu nhập gia tăng) chừng nào
họ cịn hy vọng bản thân và con cái họ vẫn có cơ hội để vươn lên trong cuộc sống. Khái niệm “công
bằng xã hội” thường được người dân hiểu theo nghĩa công bằng về cơ hội, chứ không phải cào bằng
về thu nhập.
Bất bình đẳng gia tăng gắn liền với sự chia sẻ không đều cơ hội dịch chuyển xã hội. Trong 5-10
năm qua, tăng trưởng kinh tế trên diện rộng đã giúp đời sống của hầu hết người dân có nhiều cải
thiện, nhất là về các mặt an ninh lương thực, tiếp cận giáo dục, y tế, thông tin, nhà ở… Tuy nhiên,
người dân thường chỉ thực sự cảm nhận sự dịch chuyển xã hội đi lên khi bản thân và gia đình họ có
sự chuyển đổi nghề nghiệp. Tại các điểm khảo sát, chỉ có một số người tận dụng được các cơ hội của
tăng trưởng kinh tế để chuyển đổi nghề nghiệp nhằm cải thiện vị thế xã hội.
• Tại khu vực nơng thơn, những người có cơ hội vươn lên thành cơng nhờ chiến lược đa dạng hóa,
trong đó chủ yếu là chuyển từ việc làm nông nghiệp sang việc làm phi nông nghiệp như làm “cán
bộ”, kinh doanh buôn bán và phát triển ngành nghề thủ công nghiệp. Một số ít người có diện tích đất
lớn ở nơng thơn có thể vươn lên nhờ chuyển sang sản xuất nơng nghiệp hàng hóa qui mơ lớn (như từ
trồng cây lương thực chuyển sang trồng cây công nghiệp, cây ăn quả). Ngược lại, người nơng dân sản
xuất nhỏ khó có cơ hội vươn lên. Tại các điểm khảo sát ở khu vực nông thôn, hầu hết người thuần
làm nông nghiệp qui mô nhỏ đều cảm nhận đang gặp nhiều bất lợi về dịch chuyển xã hội; họ dù rất
chăm chỉ cũng chỉ hy vọng vươn lên mức “trung bình thấp” trong cộng đồng, và vẫn ở mức “nghèo”
hoặc “cận nghèo” so với xã hội nói chung.
• Tại khu vực đô thị, những người chuyển đổi từ lao động có trình độ/tay nghề thấp sang lao động
có trình độ/tay nghề cao hoặc làm doanh nghiệp được coi là có cơ hội dịch chuyển xã hội đi lên.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn, chi phí cuộc sống tăng cao đi kèm với thu nhập
bấp bênh, các phương án “dịch chuyển ngang” đang khá phổ biến trong số những người nghèo bản xứ
và người nhập cư ở khu vực đơ thị; trong đó có xu hướng dịch chuyển nghề nghiệp từ khu vực chính
thức sang khu vực phi chính thức, dịch chuyển địa bàn sinh sống và làm việc từ các vùng nội thành ra
các quận, huyện ngoại vi và các tỉnh lân cận. Hầu hết những người thiếu đất sản xuất, thiếu việc làm
ở khu vực nông thôn di cư đến khu vực đô thị để làm nghề lao động phổ thông hoặc làm công nhân
tay nghề thấp đều không cho rằng họ đã có sự dịch chuyển xã hội đi lên, vì đi làm ăn xa chỉ được coi
15
là bước trung gian, là phương án tạm thời nhằm tìm cơ hội đầu tư cho giáo dục, tích lũy vốn và kinh
nghiệm để phát triển kinh tế sau này.
Các “bất lợi có tính cơ cấu” về cơ sở hạ tầng, tiếp cận thị trường, tìm kiếm việc làm tiếp tục là
những cản trở lớn đối với sự vươn lên của các nhóm dân cư ở các vùng miền núi DTTS. Riêng vai trò
của chênh lệch đất đai đối với dịch chuyển xã hội có sự khác biệt giữa vùng đồng bằng và miền núi
DTTS. Tại những vùng đồng bằng, đất đai chia đều nhưng manh mún lại góp phần làm giảm cơ hội
vươn lên của người làm nông nghiệp qui mô nhỏ so với người có nghề phi nơng nghiệp. Tại những
vùng miền núi DTTS, đất đai có sự chênh lệch lớn do những hộ đến trước, có nhiều lao động có thể
khai phá, sử dụng nhiều đất đai hơn so với những hộ đến sau, có ít lao động. Sự chênh lệch đất đai ở
các vùng miền núi DTTS ảnh hưởng lớn đến cơ hội dịch chuyển xã hội, do qui mô và hiệu quả nông
nghiệp vẫn là động lực quan trọng để vươn lên trong cuộc sống, đặc biệt trong bối cảnh chuyển đổi
sang sản xuất hàng hóa và trồng cây lâu năm ở các vùng này
2.4 Tác động của bất bình đẳng đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Sử dụng mơ hình kinh tế lượng để phân tích tác động của bất bình đẳng đến tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam là một việc mới mẻ. Kết quả hồi quy sử dụng dữ liệu mảng của 64 tỉnh từ năm 1999-
2003, cho thấy bất bình đẳng có tác động dương đến tăng trưởng kinh tế thông qua cả hai kênh
trực tiếp và gián tiếp. Giải pháp gì nhằm giải quyết hữu hiệu mối quan hệ giữa bất bình đẳng và
tăng trưởng kinh tế, đó là nội dung chính của bài viết dưới đây.
Theo lý thuyết truyền thống, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đặc biệt là hướng tới phân
phối thu nhập bình đẳng hơn có thể mâu thuẫn với mục tiêu đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động
hiệu quả hơn và có tăng trưởng nhanh hơn. Tuy nhiên, có nhiều lý do cho thấy sự phân phối thu
nhập bình đẳng hơn ở các nước nghèo như Việt Nam có thể có lợi cho tăng trưởng. Do đó, việc
đánh giá đúng đắn tác động của bất bình đẳng đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam sẽ giúp cho
các nhà quản lý đưa ra các chính sách thích hợp để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền
kinh tế Việt Nam.
Mặc dù, đã có một số nghiên cứu về tác động của bất bình đẳng đến tăng trưởng kinh tế, song
nghiên cứu này tập trung chủ yếu về tác động của bất bình đẳng đến tăng trưởng kinh tế sử dụng
dữ liệu mảng nhằm làm tăng độ chính xác và bộ số liệu cập nhật theo thời gian nhằm khắc phục
những hạn chế của các nghiên cứu trước. Hơn nữa, nghiên cứu này có thể được xem là một nghiên
cứu thực chứng nhằm góp phần tìm ra các tác động bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp của bất bình
đẳng đến tăng trưởng kinh tế.
2.4.1 Tác động gián tiếp của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng
Để phân tích tác động gián tiếp của bất bình đẳng tới tăng trưởng cần xây dựng các biến hỗn
hợp. Tác giả sử dụng cách tiếp cận giống như Barro (1999) sử dụng khi nghiên cứu về trường hợp
của các nước Mỹ Latinh.
Bất bình đẳng và đầu tư
Sử dụng phương pháp hồi quy 2 giai đoạn (theo như lập luận rằng biến giải thích và biến phụ
thuộc có tác động qua lại lẫn nhau). ở đây tác giả sử dụng một số các biến như tỉ lệ lao động có
16
chun mơn, bất bình đẳng, và Dummy để giải thích cho IN_INVEST. So với phương pháp OLS
thì kết quả 2SLS cũng tương tự: tác động của IN_INVEST đến REALGROWTH là tác động cùng
chiều với mức ý nghĩa 10%. Giá trị F-statistic = 10,23 là rất cao, cho thấy sự lựa chọn mơ hình
2SLS hợp lý hơn trong trường hợp này. Trong mơ hình này tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào
IN_INVEST (biến hỗn hợp giữa bất bình đẳng và đầu tư), Income (thu nhập) và các biến khác như
trên, kết quả như sau:
REALGROWTH = -4.985+0.0177 * IN_INVEST-8.84 * 10-8 * GDP99 + 0.076 * EDUC +
0.006 * INCOME99
Kết quả hồi quy cho thấy với =0.0177 cho biết khi hỗn hợp IN_INVEST tăng 1% làm cho tăng
trưởng kinh tế tăng 0.0177% trong điều kiện các yếu tố khác khơng đổi. Điều đó thể hiện quá trình
tác động biến đầu tư tác động đến bất bình đẳng và từ đó nó có tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Trong kết quả hồi quy này ta có thể nhận thấy vai trị của giáo dục tới tăng trưởng cũng có tác
động dương đến tăng trưởng nhưng có mức độ nhỏ hơn so với kết quả của phương trình trên
(0.076%).
Bất bình đẳng và y tế
Tham số của biến hỗn hợp bất bình đẳng và y tế trong mơ hình OLS có dấu dương với mức ý
nghĩa 10%. Điều này hàm ý sự kết hợp này có tác động đến tăng trưởng. Để đảm bảo tính đồng
nhất của các lập luận, sử dụng phương pháp 2SLS với kết quả hồi quy như sau:
REALGROWTH= -7.7542+0.0081 * IN_DOCTOR + 0.115 * INVEST_GDP + 0.0986 *
EDUC
Như vậy, cả hai phương pháp đều tương đối nhất quán: Hệ số của biến IN_DOCTOR có dấu
dương và mức ý nghĩa 10%. Chúng ta có thể kết luận, ở các địa phương mà có mức độ chăm sóc y
tế cao và bất bình đẳng lớn thì tăng trưởng được cải thiện. ở đây, biến y tế là số bác sỹ /100 dân,
nên điều này cho thấy tại các thành phố lớn, có cả hai đặc điểm là trình độ phát triển y tế cao và
bất bình đẳng lớn thì kinh tế tăng trưởng nhanh hơn.
Bất bình đẳng và giáo dục
Như kết quả này thì sự kết hợp giữa hai biến số bất bình đẳng thu nhập và giáo dục
(IN_EDUC) cũng có tác động cùng chiều đến tăng trưởng kinh tế. Nếu sử dụng mơ hình 2SLS thì
kết quả sẽ như sau:
REALGROWTH= -2.9709 + 0.0078 * IN_EDUC+0.1216 * INVEST_GDP + 0.0302 *
DOCTOR
Với mức ý nghĩa của tham số IN_EDUC trong cả hai mô hình là 5% thì có thể kết luận là với
bất kỳ phương pháp nào, biến hỗn hợp bất bình đẳng thu nhập và giáo dục có tác động cùng chiều
đến tăng trưởng. Cụ thể, ở các thành phố lớn nơi có cả bất bình đẳng và giáo dục lớn hơn các địa
phương khác thì tăng trưởng kinh tế sẽ cao hơn.
Tóm lại, từ hai kênh phân tích cả tác động trực tiếp và gián tiếp ta nhận thấy bất bình đẳng ở
những vùng lớn hơn, điều kiện chăm sóc y tế và đầu tư cao có tăng trưởng kinh tế cao hơn.
2.4.2 Tác động trực tiếp của Bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng
17
Sử dụng mơ hình tốn với phương pháp hai giai đoạn (2SLS), kết quả hồi quy cho thấy bất
bình đẳng thu nhập và đầu tư có tác động tương đối rõ nét đến tăng trưởng kinh tế. ở đây, chúng ta
sử dụng biến HDI99 (giá trị HDI năm gốc) để làm biến giải thích cho biến INEQUALITY99 mơ
hình 2SLS (instrument variable) – mà cụ thể là HDI99 được giả định không tương quan với các đại
lượng ngẫu nhiên (tức ei trong biểu thức (1)). Trong đó, tăng trưởng kinh tế (REALGROWTH)
phụ thuộc vào bất bình đẳng (INEQUALITY99), giáo dục (EDU-sử dụng tỷ lệ tốt nghiệp cấp 2
làm biến đại diện) và biến tương tác INVEST_GDP (Đầu tư và GDP) cho kết quả hồi quy như sau:
REALGROWTH= -15.3808 + 1.062 * INEQUALITY99 + 0.145503 * INVEST_GDP +
0.1124 * EDUC
Từ phương trình hồi quy trên ta nhận thấy, nếu bất bình đẳng thu nhập tăng 1 đơn vị (nghĩa là
chênh lệch giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất tăng thêm 1 lần) thì tăng trưởng
kinh tế sẽ tăng thêm 1.06 điểm phần trăm với điều kiện các yếu tố khác khơng đổi và với mức ý
nghĩa có thể chấp nhận được là 5%;
Tiếp đến, tác động của tỉ lệ đầu tư/GDP thì thấp hơn, nếu tỉ lệ này tăng 1 điểm phần trăm thì
tăng trưởng tăng thêm 0.14 điểm phần trăm trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Kết quả
này hàm ý, tại các địa phương mà khoảng cách giàu nghèo cao và/hoặc có tỉ lệ đầu tư/GDP cao thì
tăng trưởng sẽ cao hơn. Đây là một hậu quả tất yếu của các nền kinh tế chuyển đổi: các cơ hội làm
giàu nằm ở trong tay người có thu nhập cao mà chủ yếu là tại các thành phố lớn – nơi mà khoảng
cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng. Thực tế cho thấy, các thành phố như Hà Nội, Đà
Nẵng, TP Hồ Chí Minh, Bình Dương và Bà Rịa -Vũng Tàu đang đóng góp phần lớn cho GDP của
đất nước thông qua việc dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là các địa phương có tỉ lệ
vốn đầu tư so với GDP cao nhất.
Trong khi đó vai trị của giáo dục đối với tăng trưởng được thể hiện qua tham số cuối, ở đó với
1% gia tăng trong tỷ lệ tốt nghiệp cấp 2 giúp cho tăng trưởng kinh tế tăng 0.1124% với điều kiện
các yếu tố khác không đổi. Điều đó hàm ý khi chất lượng và số lượng giáo dục gia tăng sẽ giúp
cho tăng trưởng kinh tế tốt hơn.
2.5 Thực tiễn mối quan hệ giữa bất bình đẳng và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Kinh tế thị trường đã đem lại sự tăng trưởng khá nhanh và ổn định cho nền kinh tế, với tốc độ
GDP tăng từ 6,9% năm 2001 lên 8,3% năm 2007.Mức sống của các tầng lớp dân cư trong những năm
vừa qua ở cả thành thị và nôn thôn, các vùng miền trên phạm vi cả nước tiếp tục được cải thiện. Thu
nhập bình quân đầu người một tháng chung cả nước theo giá cả hiện hành có xu hướng tăng mạnh
qua các năm.
Bảng 1: Sự bất bình đẳng giữa nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất năm 2002
Các chỉ tiêu chủ yếu Nhóm Nhóm
nghèo nhất giàu nhất
1. Tỷ lệ biết chữ (%) 83.9 97
18
2. Chỉ tiêu cho giáo dục bình quân năm (nghìn đồng) 236 1418
3. Tỷ lệ đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế (%) 16.5 22
4. Chỉ tiêu cho y tế bình quân năm (nghìn đồng) 395.03 1181.43
5. Số giờ làm việc trung bình tuần (giờ) 25 42.4
6. Thu nhập bình quân đầu người tháng (nghìn đồng) 108 873
7. Chỉ tiêu cho đời sống bình quân/người/tháng (nghìn đồng) 123.3 547.53
8. Diện tích ở bình qn nhân khẩu (m2) 9.5 17.5
9. Tỷ lệ sử dụng nước máy (%) 1.28 34.93
Nguồn: Tổng cục thống kê (2004). Kết quả DTMS hộ gia đình năm 2002
Sự bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư khá rõ nét, các hộ nghèo ít có cơ hội tiếp cận đối với
giáo dục, y tế, việc làm và các hoạt động văn hóa, tinh thần ….so với các hộ giàu. Nhóm giàu nhất có
thu nhập/người/tháng là 873 nghìn, gấp 8,1 lần nhóm nghèo nhất (108 nghìn)
Trong giai đoạn 2004 -2006, thu nhập bình quân một người/tháng theo giá trị hiện hành tăng bình
quân 14,6% năm và giai đoạn 2002-2004 tăng 16,6%, cao hơn mức tăng 6% năm của giai đoạn 1999-
2001. Như vậy, thu nhập bình quân đầu người tăng khá qua các năm, điều đó thể hiện mức sống được
nâng lên, đời sống các tầng lớp dân cư, đặc biệt là tầng lớp nghèo đã được cải thiện và tỷ lệ hộ nghèo
ở các vùng, miền, khu vực thành thị và nông thôn đều giảm. Theo chuẩn nghèo của Chính phủ, tính
theo giá cả hiện hành năm 2004 là 18,1%, đến năm 2006 giảm còn 15,5%. Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực
thành thị, nông thôn và các vùng, miền đều có xu hướng giảm nhanh hơn các năm trước.
Bảng 2: Tỷ lệ nghèo chung của cả nước
ĐVT: %
2002 2004 2006
Cả nước 28,9 19,5 16,0
Phân theo thành thị và nông thôn
- Thành thị 6,6 3,6 3,9
- Nông thôn 35,6 25,0 20,4
Phân theo vùng
- ĐB Sông Hồng 22,4 12,1 8,8
19
- Đông Bắc 38,4 29,4 25,0
- Tây Bắc 68,0 58,6 49,0
- Bắc Trung Bộ 43,3 31,9 29,1
- Duyên hải Nam Trung Bộ 25,2 19,0 12,6
- Tây Nguyên 51,8 33,1 28,6
- Đông Nam Bộ 10,6 5,4 5,8
- ĐB Sông Cửu Long 23,4 19,5 10,3
Nguồn: Niên giám thống kê 2006
Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế và những nỗ lực trong cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo
của Đảng và Chính phủ, tỷ lệ hộ nghèo liên tục giảm, đời sống các tầng lớp dân cư có nhiều chuyển
biến tiến bộ rõ rệt. Thu nhập bình quân đầu người của các nhóm dân cư năm 2006 đều tăng khá hơn
so với năm trước, song nhóm có thu nhập thấp tăng rất chậm so với các nhóm có thu nhập khá và
giàu. Vì vậy, khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư có xu hướng tăng lên và vẫn
cịn có sự khác biệt khá xa giữa thành thị - nông thôn, giữa các vùng, miền và các nhóm dân cư giàu –
nghèo. Chênh lệch giữa vùng có thu nhập bình qn đầu người cao nhất là Đơng Nam Bộ, cao gấp
2,9 lần so với vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là vùng Tây Bắc (năm 2002 con số
này là 2,5 lần, năm 2004 là 3,1 lần).
Bảng 3: Thu nhập thực tế bình quân đầu người
ĐVT: 1000 đ/người/tháng
Cả nước 2002 2004 2006
Phân theo thành thị và nông thôn 356 484 636
- Thành thị
- Nông thôn 622 815 1058
Phân theo vùng 275 378 506
- ĐB Sông Hồng
- Đông Bắc 353 488 653
- Tây Bắc 269 380 511
- Bắc Trung Bộ 197 266 373
235 317 418
20