Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

luận văn kinh tế phát triển Đề án Bất bình đẳng tại Việt Nam từ năm 2001 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.77 KB, 28 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển của Kinh tế, một vấn đề luôn làm các nhà chính
sách, các nhà kinh tế đau đầu đó là: đi cùng với tăng trưởng Kinh tế, liệu có
cách nào cùng tăng lên các chỉ số phát triển con người, hoặc ít ra là không
làm ra tăng bất bình đẳng trong xã hội.
Đó cũng là câu hỏi của Việt Nam khi tham gia vào guồng máy phát triển
kinh tế từ năm 1986. Sau 20 năm cải cách và mở cửa, nền kinh tế Việt Nam
đã có những bước tiến nhanh trong tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên sự tăng
trưởng nhanh và liên tục này có kéo theo những mặt trái của nó trong phát
triển con người, sự bất bình đẳng, và sự mở cửa và hội nhập có làm giảm đi
sự "phân biệt đối xử", "trọng nam khinh nữ" tồn tại suốt nhiều năm phong
kiến hay không?
Theo lý thuyết truyền thống, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đặc biệt
là hướng tới phân phối thu nhập bình đẳng hơn có thể mâu thuẫn với mục
tiêu đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn và có tăng trưởng
nhanh hơn. Tuy nhiên, có nhiều lý do cho thấy sự phân phối thu nhập bình
đẳng hơn ở các nước nghèo như Việt Nam có thể có lợi cho tăng trưởng. Vậy
điều đó đã được thể hiện như thế nào tại Việt Nam hiện nay. Để đạt được các
mục tiêu tăng trưởng đi cùng với công bằng xã hội, năm 1991, Đảng và nhà
nước ta đã đề ra "mô hình phát triển toàn diện", Tuy nhiên sau gần 20 năm,
mô hình đó đã thực sự tạo ra các kết quả như mong muốn, và mục tiêu tăng
trưởng đi liền với phát triển kinh tế có khả thi hay không?
Bài ngiên cứu về "Bất bình đẳng tại Việt Nam từ năm 2001 đến nay" sẽ trả
lời các câu hỏi trên nhằm làm rõ:
- Bất bình đẳng về thu nhập và bất bình đẳng về giới của Việt Nam thời gian
qua, các chỉ số và phân tích.
- Nguyên nhân bất bình đẳng ở Việt Nam
- Công cuộc thực hiện giảm bất bình đẳng Việt Nam: các thành tựu và hạn
chế.
- Đánh giá bất bình đẳng theo mục tiêu của mô hình "phát triển toàn diện" ở
Việt Nam.


Theo mục đích trên, bài nghiên cứu có kết cấu gồm có 3 chương với các
nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về bất bình đẳng
Chương 2: Bất bình đẳng ở Việt Nam thời gian qua (từ năm 2001 -2010) các
nguyên nhân, chỉ số và phân tích, đánh giá.
Chương 3: Đánh giá bất bình đẳng theo mục tiêu đề ra trong mô hình "phát
triển toàn diện" ở Việt Nam năm 2001 -2010.
Chương 4: Giải pháp kiến nghị gải quyết vấn đề bất bình đẳng hiện hay ở
Việt Nam
1
Chương I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG
1.1. Bất bình đẳng trong phát triển kinh tế
Bất bình đẳng ra đời cùng với sự xuất hiện giai cấp và chiếm hữu của cải,
theo đó, luôn tồn tại trong xã hội những người có mức của cải và các cơ hội
phát triển nhiều hơn những người khác.
Cùng với sự phát triển của Kinh tế, một số các nhà kinh tế thống nhất với
nhau rằng, Bất bình đẳng sẽ tăng lên cùng với đà phát triển của nền kinh tế,
có nghĩa là phát triển kinh tế sẽ kéo theo bất bình đẳng, cho đến một ngưỡng
nào đó, việc phát triển kinh tế sẽ đủ để làm giảm đi bất bình đẳng trong xã
hội, các chính phủ sẽ tập trung vào công bằng xã hội, và toàn xã hội sẽ được
nhận các ích lợi của phát triển kinh tế (mô hình chữ U ngược của Kuznet).
Cũng theo đó các nhà kinh tế đã đưa ra các mô hình để giải quyết các vấn đề
bất bình đẳng và phát triển kinh tế.
Mô hình phát triển trước công bằng sau cho rằng cần ưu tiên phát triển và
tăng trưởng kinh tế, sau đó mới hướng tới công bằng, giảm bất bình đẳng.
Việc tập trung của cải vào một số người trong điều kiện nền kinh tế ban đầu
có tác động tích cực đến phát triển kinh tế, còn nếu ngay từ đầu đã chú trọng
tới công bằng có thể làm ảnh hưởng tới phát triển kinh tế. Mô hình này đã
được áp dụng ở nhiều nước, chủ yếu là các nước tư bản chủ nghĩa trước đây.
Mô hình này đã đem lại thành tựu phát triển kinh tế cho nhiều nước, tuy nhiên

giải quyết vấn đề công bằng vẫn chưa thực hiện triệt để ở các nước này, chưa
kể, tại một số nước áp dụng mô hình này đã thất bại, có lẽ rằng, việc tăng
trưởng làm tăng bất bình đẳng trong xã hội đã kìm hãm sự phát triển về kinh
tế tại các nước này.
Sự phát triển của hệ thống Xã hội chủ nghĩa cũ những năm 60 đã đưa ra
một mô hình, công bằng trước, phát triển kinh tế sau. Giải quyết bất bình
đẳng thông qua bao cấp, đồng đều đã làm hạn chế sự năng động và các mục
tiêu phấn đấu của con người, đã làm nền kinh tế ở các nước này gặp rất nhiều
khó khăn và dẫn đến đổ vỡ hệ thống XHCN trên phạm vi thế giới. Một số
nước, như Liên Xô cũ đã có rất nhiều thành tựu trong phát triển kinh tế, tuy
nhiên vẫn phải thừa nhận rằng đây không thể là mô hình được kéo dài sử
dụng trong thời gian dài.
Khi nền kinh tế thế giới đã có những bước tiến lớn trong phát triển kinh tế,
sự phát triển của KHCN đã có một trường phái cho rằng: có thể thực hiện
song song tăng trưởng và công bằng. Trong đó, bên cạnh việc tăng trưởng
kinh tế, chính phủ và nhà nước đi theo mô hình này sẽ giải quyết công bằng
xã hội. Rất nhiều quốc gia đi theo mô hình này đã đạt những thành công lớn,
hiện nay ở các nước này, bên cạnh một nền kinh tế phát triển cao là một cuộc
sống bình đẳng, công bằng bậc nhất trên thế giới, công bằng xã hội cao hơn
rất nhiều đối với các nước có hàng trăm năm phát triển kinh tế và thực hiện
2
công bằng sau khi đã có nền kinh tế phát triển. Điều này thể hiện sự đúng đắn
và tính ưu việt của mô hình trong điều kiện hiện nay với các cơ hôi "đi tắt đón
đầu", tận dụng KHCN và chuyển giao công nghệ, kế tiếp và rút kinh nghiệm
sự phát triển của các nước đi trước.
1.2. Bất bình đẳng thu nhập
1.2.1. Khái niệm, nội hàm
a. Khái niệm: Bất bình đẳng thu nhập là sự đối xử không ngang nhau với
tất cả các thành viên về vấn đề phát triển kinh tế.
b. Nguyên nhân:

Có nhiều nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng trong thu nhập,các nguyên
nhân có thể đan xen,thâm nhập vào nhau,nhưng tựu chung có 2 nhóm nguyên
nhân chủ yếu là sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản và từ lao
động.
Thứ nhất, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản:
Tài sản của các cá nhân có được là do những nguồn hình thành khác nhau:
+ Do đươc thừa kế tài sản.
+ Do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm khác nhau của các cá nhân ,tạo ra sự
khác nhau về của cải tích lũy.
+ Do kết quả kinh doanh.
Thứ hai, sự bất bình đảng trong phân phối thu nhập từ lao động:
Nguyên nhân chử yếu dẫn tới sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
từ lao động là do:
+ Do khác nhau về khả năng và kĩ năng lao động dẫn đến khác nhau về
thu nhập.
+ Do khác nhau về cường độ làm việc.
+ Do khác nhau về nghề nghiệp và tính chất công việc: công việc chuyên
môn có hàm lượng chất xám cao sẽ được hưởng mức lương cao hơn.
+ Do các nguyên nhân khác như: sự phân biệt đối xử trong xã hội, xuất
phát điểm của các cá nhân, sự không hoàn hảo của thị trường lao động…
1.2.2. Thước đo bất bình đẳng thu nhập
a. Đường cong Lorenz:
Đường cong Lorenz cho thấy mối quan hệ định lượng thực sự giữa tỉ lệ
phần trăm của dân số có thu nhập và tỉ lệ phần trăm trong tổng thu nhập nhận
được trong một khoảng thời gian nhất định thường là 1 năm.
Đường Lorenz càng cách xa đường 45° thì mức độ bất bình đẳng càng
lớn. Điều đó cũng có nghĩa là phần trăm thu nhập người nghèo nhận được sẽ
giảm đi.
b. Hệ số Gini :
Hệ số Gini chính là tỷ số giữa diện tích được giới hạn bởi đường Lorenz và

đường 45° với diện tích tam giác nằm dưới đường 45°.
3
Hệ số Gini khắc phục được hạn chế của đường Lorenz là nó đã lượng hóa
được mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
Hệ số Gini nằm trong khoảng từ 0- 1. Hệ số Gini càng gần 0 thì càng công
bằng, càng gần 1 thì càng mất công bằng.
c. Hệ số giãn cách thu nhập
Hệ số giãn cách thu nhập được đo bằng tỷ lệ giữa % thu nhập của 20% dân
số có thu nhập cao nhất và % thu nhập của 20% dân số có thu nhập thấp nhất.
Hệ số giãn cách thu nhập đo mức độ chênh lệch thu nhập của 2 cực giàu
và nghèo của 2 quốc gia từ đó cho biết mức căng thẳng bất công băng xã hội
d. Theo chuẩn “40” (WB- 1995)
Được đo bằng % thu nhập của 40% dân số có mức thu nhập nhỏ nhất:
- Nếu lớn hơn 17% công bằng tương đối cao
- 17%- 15% tương đối công bằng
- < 15% bất công bằng.
1.3. Bất bình đẳng giới
1.3.1. Khái niệm, nội hàm
a. Khái niệm
Bất bình đẳng giới là sự đối xử không ngang nhau giữa nam và nữ trong
tất cả các vấn đề phát triển con người.
b. Nguyên nhân bất bình đẳng giới
- Do quan niệm xã hội với tư tưởng “ trọng nam khinh nữ”,các tập quán,hủ
tục lạc hậu rồi chế độ phụ quyền tồn tại từ rất lâu.
- Do sự bất công bằng trong phân công lao động xã hội.
1.3.2. Thước đo bất bình đẳng
a. Chỉ số phát triển giới GDI
Chỉ số này phản ánh những thành tựu trong các khía cạnh tương tự như
HDI (tuổi thọ, giáo dục, thu nhập) nhưng kết quả đó được phân theo giới nếu
thứ hạng GDI càng nhỏ hơn HDI thì sự bất bình đẳng giới ở góc độ năng lực

càng cao.
b. Thước đo quyền lực theo giới tính: chỉ số GEM
Chỉ số GEM đo vị thế của nữ trong 3 lĩnh vực:
Chính trị: tỷ lệ nữ trong đại biểu quốc hội…
Hoạt động kinh tế và KHKT:
+ % nữ là các giám đốc doanh nghiệp.
+ % nữ là các lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu khoa học.
Chiếm lĩnh thu nhập : % thu nhập do nam và nữ
Nếu GEM càng lớn thì sự bất bình đẳng càng nhỏ.
4
Chương II : BẤT BÌNH ĐẲNG Ở VIỆT NAM
2.1. Bộ số liệu sử dụng và phương pháp đánh giá
Trong bài nghiên cứu sử dụng bộ số liệu lấy từ các nguồn Tổng cục thống
kê, Ngân hàng thế giới, chương trình phát triển Liên Hợp Quốc từ năm 2003 -
2008 nghiên cứu về bất bình đẳng tại Việt Nam và một số nước trên thế giới,
các cuộc điều tra về mức sống dân cư.
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp tổng hợp số liệu và phân tích dữ liệu
thông qua các bảng, biểu, mô hình đã nêu ở trên từ đó đưa ra các nhận định và
đánh giá. Bên cạnh đó kết hợp với các nhận định, phân tích của các chuyên
gia thông qua các bài báo, tạp chí kinh tế trong nước.
2.2. Bất bình đẳng thu nhập
2.2.1. Thực trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
Theo thống kê các năm 2001-2010, tăng trưởng GDP/đầu người của Việt
Nam đã đưa đến hai kết quả. Một kết quả là: tỷ lệ người nghèo sống dưới
ngưỡng 1 USD-PPP/ngày giảm nhanh và liên tục ở Việt Nam.Năm 2009, lần
đầu tiên kinh tế Việt Nam thoát nghèo, nghĩa là GDP đạt mức khởi điểm của
thu nhập trung bình 1000 USD/người/năm = 2900 USD (tính theo PPP).
Kết quả thứ hai có tranh cãi tùy theo xem xét các hệ số Gini của Việt Nam
tính từ chi tiêu hay tính từ thu nhập: theo như nhận định từ hệ số tính trên chi
tiêu, bất bình đẳng xã hội, sau khi nhích lên đôi chút, không có xu thế tăng;

còn theo như nhận xét từ hệ số tính trên thu nhập, bất bình đẳng xã hội, sau
khi tăng nhẹ, đang có xu thế tăng nhanh.
Hệ số Gini của Việt Nam vào thời điểm năm 20101 là 0,368 và năm 2004
là 0,418, năm 2008 lên tới 0,423 và năm 2010 là 0,43 trong khi đối với hầu
hết các nước đang phát triển, hệ số Gini chi tiêu hoặc thu nhập nằm trong
khoảng từ 0,3 đến 0,6. Như vậy theo cách tiếp cận này, trong sự so sánh với
các nước có điều kiện tương tự trong khu vực và trên thế giới, bất bình đẳng ở
Việt Nam ở mức vừa phải.
Bảng 1: Chuyển biến của tỷ lệ nghèo và hệ số Gini Việt Nam 2001-2010
Nguồn :Báo cáo về Việt Nam WB
2001 2002 2004 2006 2008 2010
Tỷ lệ
nghèo(%)
30,2 28,9 19,5 17,4 16 15
Hệ số Gini
tính từ chi
tiêu
0,368 0,375 0,418 0,42 0,423 0,43
Hệ số Gini
tính từ thu
0,35 0,36 0,42 0,41 0,42 0,425
5
nhập
Hiện nay tình trạng bất bình đẳng tại Việt Nam đang có xu hướng tăng lên.
Chỉ số đo mức độ chênh lệch giàu nghèo cho thấy, năm 2001, chỉ số GINI
theo mức độ chi tiêu của Việt Nam là 0,368. Đến năm 2010, chỉ số này tăng
lên thành 0,423. Đây là mức khá cao, vượt trên nhiều quốc gia phát triển.
Tuy nhiên, “qua số liệu điều tra của Tổng cục thống kê Việt Nam cho
thấy, khuynh hướng bất bình đẳng về thu nhập có xu hướng tăng lên nhưng ở
mức độ vừa phải so với các nước như Trung Quốc. Ở Việt Nam thì bất bình

đẳng ở mức vừa phải, trong mức độ an toàn nhưng cái đáng lo ngại là có xu
hướng tăng lên, nên cũng cần phải quan tâm để có những biện pháp giảm bất
bình đẳng ngay từ bây giờ.”
Bảng 2: Hệ số Gini Trung Quốc 2001-2010
2001 2004 2008 2010
Hệ số Gini 0,44 0,46 0,48 0,49
Điều này còn được thể hiện qua hệ số GINI là 0,418 năm 2004 và năm
2005 là 0,42. Như vậy sự bất bình đẳng tuy chưa nhiều nhưng đã tăng lên đôi
chút trong thời kỳ 2004-2005. Mức độ bất bình đẳng của chúng ta tương
đương với các nước Nam Á nhưng lại thấp hơn các nước Đông Á.
Bảng 3: Độ bất bình đẳng của một số nước trên thế giới
Nguồn:Wikipedia
Quốc gia Năm điều
tra
Hệ số
GINI
Việt Nam 2005 0,42
Trung
Quốc
2005 0,474
In-đô-nê-
xi-a
2005 0,349
Hàn Quốc 2005 0,30
Campuchia 2005 0,46
Thái Lan 2005 0,43
Hiện nay, mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam được xếp ở mức độ trung
bình khá so với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, những lợi ích từ tăng
trưởng kinh tế không được phân phối đều trong xã hội mà tập trung nhiều vào
nhóm người giàu. Thống kê cho thấy, nhóm người nghèo chỉ nhận được

khoảng 75% mức bình quân lợi ích tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nhóm giàu
6
nhận được đến 115% mức bình quân. Tình trạng bất bình đẳng không chỉ thể
hiện ở mức thu nhập, mà còn trong các cơ hội phát triển.
Theo phương pháp tính hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm giàu và
nhóm nghèo.
Qua số liệu từ khảo sát mức sống hộ dân cư năm 2010 của Tổng cục Thống
kê, tình trạng phân hóa giàu nghèo thể hiện qua hệ số Gini ở Việt Nam ở mức
trung bình so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên mức độ đó đã tăng dần
theo các năm (hệ số Gini hiện là 0,46, còn hồi năm 1996 là 0,37).

Tình trạng bất bình đẳng cũng thường được xem xét thông qua các khảo sát
về mức thu nhập và chi tiêu hộ gia đình qua từng thời kỳ, theo năm nhóm thu
nhập. Nếu năm 2002, hệ số cách biệt thu nhập một nhân khẩu/tháng giữa
nhóm 1 (nhóm 20% thu nhập thấp nhất) so với nhóm 5 (nhóm 20% thu nhập
cao nhất) là 8,1 lần, và không thay đổi bao nhiêu đến năm 2006 (8,3) thì năm
2010 tỷ lệ này đã tăng lên 9,2.

Trong khi mức thu nhập vốn đã chênh lệch theo hướng ngày càng tăng, thì
nhóm thu nhập thấp lại có tốc độ tăng thu nhập chậm và ít hơn các nhóm
khác. Tốc độ tăng thu nhập một nhân khẩu/tháng của nhóm 1 từ năm 2002-
2010 là gấp 3,4 lần, thấp hơn tốc độ tăng của nhóm 4 và 5 (3,9 đến 4 lần)
trong cùng thời kỳ. Như vậy, cho dù thu nhập bình quân của hộ gia đình có
tăng lên, sự gia tăng này không đồng đều và theo hướng làm cách biệt giàu -
nghèo ngày càng tăng.

Mặt khác, mức chi cho lương thực, thực phẩm vẫn chiếm tỷ trọng rất cao
trong chi tiêu đời sống của nhóm người thu nhập thấp, đến 65,8% tổng mức
chi tiêu ở nhóm 1. Tỷ trọng này phản ảnh chất lượng cuộc sống của người dân
còn thấp và dễ bị tổn thương. Điều này dễ dàng nhìn thấy qua sự khác biệt về

mức chi tiêu cho các lãnh vực khác, ngoài ăn uống, giữa các nhóm thu nhập là
rất lớn. Thực vậy, cách biệt về chi cho giáo dục giữa nhóm 20% thu nhập cao
nhất và nhóm 20% thấp nhất là 6 lần, chi cho văn hóa giải trí gấp 123 lần.

Đáng chú ý, sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền còn thể hiện rõ
hơn. Theo thống kê, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn là 17,4%, cao gấp 2,5 lần ở
thành thị. Ngoài ra, các vùng miền núi tỷ lệ nghèo còn rất cao so với các vùng
miền khác: 39% ở Tây Bắc và 24% ở Đông Bắc và 22% ở Tây Nguyên.
7
Bảng 4: Phân phối thu nhập và an sinh xã hội ở Việt Nam 2004
Nguồn : Báo cáo 2008 về an sinh xã hội UNDP
Nhóm
20%
nghèo nhất
Nhóm
20%
thứ hai
Nhóm
20%
thứ ba
Nhóm
20% thứ

Nhóm
20%
giàu nhất
Thu nhập /người/năm
(ngàn đồng)
2000 3400 4900 7300 15800
so với thu nhập bình

quân quốc gia (%)
33% 56% 81% 120% 259%
Thu nhập từ an sinh xã
hội/
người/năm (ngàn đồng)
70 140 210 370 660
so với tổng trợ cấp an
sinh xã hội (%)
6,6% 11,2% 16,1% 27% 39,1%
Trợ cấp bảo hiểm xã hội
cho người đi làm (%)
1% 2% 4% 24% 68%
Trợ cấp bảo hiểm xã hội
cho người nghĩ hưu (%)
2% 8% 14% 29% 47%
Trợ cấp phúc lợi xã
hội(%)
15% 21% 24% 23% 18%
Trợ cấp giáo dục(%) 15% 12% 16% 22% 35%
Trợ cấp y tế (%) 7% 11% 15% 21% 45%
Bảng trên đây trình bày thu nhập (tính theo đầu người) mà các hộ gia đình
(xếp theo nhóm ngũ vị phân) nhận, trong đó có thu nhập từ an sinh xã hội, tức
các khoản trợ cấp xã hội nhận được từ nhà nước - theo số liệu điều tra mức
sống hộ gia đình năm 2004 do UNDP tập hợp trong báo cáo 2008 về an sinh
xã hội. Thu nhập bình quân quốc gia là 6,1 triệu đồng, trong đó các khoản trợ
cấp an sinh xã hội là 264 nghìn đồng (tương đương 4% thu nhập) và bao gồm:
23% bảo hiểm xã hội cho người đi làm (bảo hiểm y tế); 62% bảo hiểm cho
người hưu trí (lương hưu); 9% phúc lợi xã hội (lương cựu chiến binh, trợ cấp
gia đình liệt sĩ); 5% trợ giúp giáo dục; 2% trợ giúp y tế.
Xét theo nhóm ngũ phân, thu nhập trung bình từ 2 triệu đồng/người ở

nhóm nghèo nhất lên đến gần 16 triều/người ở nhóm giàu nhất, tức hơn gấp 8
lần. Nhóm nghèo nhất nhận 70 nghìn đồng an sinh xã hội, tức 7% tổng trợ
cấp, trong khi nhóm giàu nhất nhận 660 nghìn đồng, tức 39% tổng trợ cấp.
Xét theo từng loại trợ cấp, nhóm giàu nhất hưởng 68% bảo hiểm xã hội cho
người đang đi làm, 47% bảo hiểm xã hôi cho người nghĩ hưu, trong khi nhóm
nghèo nhất chỉ hưởng 1% và 2%. Nhóm này nhận 18% phúc lợi xã hội, 15%
8
trợ giúp giáo dục, 7% trợ giúp y tế, trong khi nhóm giàu nhất nhận 18%, 35%
và 45%. Thay vì “lũy tiến”, hệ thống an sinh xã hội Việt Nam có tính “luỹ
thoái”. Trái với những tuyên bố của ĐCSVN, các chính sách xã hội hiện hành
không nhắm đảm bảo bình đẳng, thực hiện công bằng xã hội. Nhà kinh tế
trưởng của UNDP ở Việt Nam, Johnathan Pincus, còn nhận xét rằng, “bất cứ
lợi ích nào mà người nghèo nhận được từ an sinh xã hội bị lấy lại thông qua
các phí và chi tiêu cho giáo dục và y tế. Chính phủ trợ cấp cho các hộ nghèo
nhất rồi lấy lại đúng khoản đó”, cho nên “an sinh xã hội cho người nghèo là
số 0, có khi là âm”. Để theo dõi bất bình đẳng 2008 ở Việt Nam ta có đường
cong Lorenz sau.
Hình 1: Đường cong Lorenz bất bình đẳng Việt Nam năm 2008
Theo bảng 6,7 khi có các chương trình an sinh xã hội đã cải thiện được bất
bình đẳng trong xã hội thông qua chỉ số Gini giảm đi, nhưng cuối cùng sau tất cả
các chương trình phân phối lại thì hệ số Gini lại có xu hướng tăng lên. Điều này
thể hiện sự bất cập và thiếu hợp lý trong các chương trình phân phối lại thu nhập.
Bảng 5 : Hệ số Gini Việt Nam 2004
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)
Hệ số Gini 0,409 0,408 0,401 0,401 0,411 0,414 0,416
(1) Thu nhập thị trường ban đầu
(2) Thu nhập thị trường ban đầu + tiền nhận từ thân nhân = Tổng thu nhập
cuối cùng
(3) Tổng thu nhập cuối cùng có cộng trợ cấp an sinh xã hội
9

% dân số cộng dồn
0
100
100
20
80
80
4020
60
40
60
% thu nhập cộng dồn
(4) Thu nhập ròng sau khi trừ đóng góp bảo hiểm xã hội và thuế trực tiếp
(5) Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp và phí bất
buộc về giáo dục - y tế
(6) Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp và chi phí
bắt buộc và tự nguyện về giáo dục - y tế
(7) Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp, chi phí bất
buộc và tự nguyện về giáo dục - y tế và tiền gửi cho thân nhân
Bảng 6: Tái phân phối thu nhập, an sinh xã hội và chuyển khoản khác
(Ngàn đồng/người/năm)
(1) (2) (3) (4) (5)
Nhóm 20%
nghèo nhất
1900 2100 2100 1900 1800
Nhóm 20%
thứ hai
3200 3400 3300 3100 3000
Nhóm 20%
thứ ba

4600 4900 4800 4500 4300
Nhóm 20%
thứ tư
6900 7200 7100 6700 6400
Nhóm 20%
giàu nhất
15400 15800 15400 14900 14300
(1) Tổng thu nhập trước an sinh xã hội
(2) Tổng thu nhấp cuối cùng, gồm cả an sinh xã hội
(3) Thu nhập ròng sau khi trừ đóng góp bảo hiểm xã hội và thuế trực tiếp
(4) Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp và phí bắt
buộc về giáo duc - y tế
(5) Thu nhập ròng sau đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp và các chi
phí bắt buộc và tự nguyên về giáo dục - y tế.
Bởi các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, thuế trực tiếp, chi phí giáo dục -
y tế đều mang tính luỹ tiến, cho nên kết quả cuối cùng “ít lũy thoái hơn”. Đối
với nhóm 20% người nghèo nhất, phí bắt buộc về giáo dục - y tế vô hiệu quả
hoàn toàn trợ cấp an sinh xã hội mà nhóm này nhận được; còn chi phí giáo
dục - y tế gọi là “tự nguyện” - nhưng thật ra hầu như bắt buộc - thì làm cho
thu nhập của nhóm này giảm 5% dưới mức thu nhập ban đầu (trước trợ cấp an
sinh xã hội). Mức giảm thu nhập của các nhóm khác từ 6 đến 7%: tính “lũy
tiến”, nếu có, là ở chênh lệch 1-2% giảm này.
Theo kết quả tổng hợp số liệu điều tra, thu nhập của những hộ nghèo và hộ
giàu đều tăng, và tốc độ tăng của hộ giàu nhanh hơn hộ nghèo. Tính chung
trong 3 năm (2001 -2010) tốc độ tăng thu nhập hàng năm của hộ nghèo là
7,2%, hộ giàu là 14,5% (chưa loại trừ trượt giá). Bởi vậy khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo ngày càng có xu hướng dãn ra.
10
Bảng 7 : Hệ số GINI theo thành thị nông thôn và vùng, 2002,2004
Nguồn:TCTK, Điều tra mức sống hộ gia đình 2006

2002 2004
Việt Nam 0,42 0,42
Thành thị 0,41 0,41
Nông thôn 0,36 0,37
Vùng
Việt Nam
ĐB sông Hồng 0,39 0,39
Đông Bắc Bộ 0,36 0,39
Tây Bắc Bộ 0,37 0,38
Bắc Trung Bộ 0,36 0,36
DH Nam Trung Bộ 0,35 0,37
Tây Nguyên 0,37 0,40
Đông Nam Bộ 0,42 0,43
ĐB sông Cửu Long 0,39 0,38
Tình trạng thu nhập và mức sống của người dân Việt có bốn đặc tính
chính sau đây :
1. Sự cách biệt giầu nghèo giữa các thành phần xã hội, các miền và các
tỉnh rất cao;
2. Chi tiêu, sức mua và mức sống cao hơn nhiều thu nhập, lợi tức, tiền
công, tiền lương của người dân;
3. Nếp sống ở thành thị có khuynh hướng mang tính chất hưởng thụ
(consumerism) một cách không lành mạnh;
4. Khoảng cách biệt (bất bình đẳng) giữa nông thôn và thành thị có
khuynh hướng gia tăng.
2.1.2. Nguyên nhân
Một là, do chênh lệch trình độ học vấn, kĩ năng, nghề nghiệp. Một người
tốt nghiệp đại học có thể kiếm được mức thu nhập cao trong khi những người
nông dân và công nhân trong các nhà máy thì chỉ có mức thu nhập thấp hơn.
Còn nhóm doanh nhân, chủ đầu tư thì lại có thể kiếm được mức thu nhập cao
gấp 10, 100 lần con số đó.

Hai là, do chuyển dịch kinh tế là từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch
vụ. Quá trình chuyển dịch kinh tế cũng tạo ra sự chênh lệch về mức thu nhập
của những nhóm ngưòi có điều kiện khác nhau.
Ba là, do tự do hóa thị trường lao động.
Bôn là, do toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
11
Năm là, do điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau của các vùng
miền.
Ngoài ra, còn phụ thuộc vào các nguyên nhân khác như cơ chế quản lý,
chính sách của nhà nước, quá trình phân phối và phân phối lại tài sản hay luật
tiền lương tối thiểu cũng tạo ra mức chênh lệch về thu nhập gây nên sự bất
bình đẳng về thu nhập.
2.2. Bất bình đẳng giới
2.2.1.Thực trạng bất bình đẳng giới
* Bất bình đẳng giới trong Gia đình
Ngày nay, mặc dù được sự quan tâm rất nhiều của xã hội nhưng đâu đó
vẫn còn tình trạng bất bình đẳng giới trong gia đình mà nguyên nhân chính là
hệ quả của tập tục phong kiến lạc hậu, lỗi thời. Các thực trạng chung gồm:
người đứng tên giấy sử dụng đất canh tác, nhà ở chủ yếu là nam giới; Cả phụ
nữ và nam giới đều đóng góp công sức vào các hoạt động tạo thu nhập của hộ
gia đình nhưng nữ đóng góp nhiều hơn nam; Phụ nữ đóng góp công sức vào
hoạt động tạo thu nhập nhiều hơn nam giới, nhưng đóng góp bằng tiền mặt
thấp hơn; Phụ nữ là người đảm nhiệm chính công việc nội trợ ; Sự chia sẻ của
nam giới nổi bật trong việc giáo dục con; Phụ nữ trong các gia đình là người
thực hiện chính các biện pháp kế hoạch hóa gia đình; Phụ nữ tham gia các
hoạt động cộng đồng, các lớp tập huấn không nhiều; Phụ nữ là người quản lý
tiền mặt của gia đình nhưng quyền quyết định những khoản chi tiêu lớn lại
thuộc về nam giới; Quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong gia đình
vẫn thuộc về nam giới; Trong các hộ gia đình, phụ nữ có thời gian nghỉ ngơi
ít hơn nam giới.

* Bất bình đẳng giới trong giáo dục, cơ hội phát triển.
Bình đẳng giới trong giáo dục có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng
nguồn nhân lực của tương lai.
Khi mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào
tạo, tỷ lệ nữ so với nam tăng lên và khi trình độ và nhận thức của phụ nữ
trong gia đình được cải thiện, số lượng và chất lượng đầu tư cho giáo dục đối
với con cái sẽ được cải thiện trực tiếp thông qua sự dạy dỗ của người mẹ cũng
như khả năng thuyết phục hoặc quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều
hơn cho giáo dục đối với con cái.
Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trò quyết định trong
việc chăm sóc và dinh dưỡng đối với con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ
làm cho chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động
trung bình của toàn xã hội sẽ được nâng lên.
Về ưu điểm: Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam
giới trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với
nam giới trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học
sinh nam - nữ trong tất cả các cấp bậc học được thu hẹp (Báo cáo Quốc gia
12
của Việt Nam, tháng 8-2005 đã khẳng định điều này). Về cơ bản, Việt Nam
có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015.
Có 4 loại hình giáo dục không chính quy, chủ yếu dành cho người lớn, trong
đó có phụ nữ. Các chương trình này đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với phụ
nữ hơn rất nhiều so với trước.
Về tồn tại: thực chất bình đẳng giới trong GD&ĐT còn nhiều vấn đề cần
xem xét.
Về khách quan, việc nhìn nhận vai trò của nữ giáo viên chưa đúng, nhiều
Hiệu trưởng không muốn nhận giáo viên là nữ vì sợ liên quan đến chế độ nghỉ
sinh nở, con đau ốm ảnh hưởng đến việc giảng dạy, hoặc khi đề bạt, cử đi học
còn e dè trong việc chọn nữ giáo viên. Trẻ em gái ít cơ hội được đến trường
so với nam giới. Nếu tính trung bình cho tất cả các quốc gia đang phát triển,

tỷ lệ phụ nữ biết chữ thấp hơn 29% so với nam giới, số năm đến trường trung
bình thấp hơn 45% so với nam giới và tỷ lệ nhập học tiểu học, trung học cơ sở
và trung học phổ thông của nữ thấp hơn tương ứng là 9%, 28% và 49% so với
nam. (Nguồn: )
Về chủ quan, nhiều chị em chưa thoát ra khỏi tâm lí tự ti, an phận, không
cần phấn đấu, không chịu khó học tập để nâng cao trình độ, chưa nhận thức
hết vai trò và chưa thay đổi cách nhìn mới về chính mình. Mặt khác, các
chính sách trong GD&ĐT ngoài ảnh hưởng chung đối với xã hội còn có ảnh
hưởng trực tiếp đến bình đẳng giới. Ví dụ, việc tăng giảm học phí ảnh hưởng
rất nhiều đến quyền lợi của trẻ em gái. Bởi vì trẻ em gái có nguy cơ bị buộc
nghỉ học cao hơn bé trai khi điều kiện gia đình khó khăn.
* Bất bình đẳng giới trong lao động, việc làm và thu nhập.
Phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt thòi, bất bình đẳng thể hiện qua mức lương
thấp hơn, ít nắm giữ các vị trí lãnh đạo hơn so với nam giới. Những kết quả
nghiên cứu về vấn đề giới trong quảng cáo việc làm trên báo in do Viện
Nghiên cứu kinh tế-xã hội và môi trường (iSEE) tổ chức mới đây đã chỉ ra
điều đó.
TS Nguyễn Hữu Minh - Viện trưởng Viện Gia đình và giới - cho biết, sự bất
bình đẳng giới về LĐVL thể hiện ở một số khía cạnh như phân bổ LĐ nữ
nhiều hơn ở các ngành nông nghiệp, buôn bán dịch vụ hoặc nhân viên đều là
những ngành có thu nhập thấp. Trong khi đó, LĐ nam giới tập trung nhiều
hơn ở các ngành kỹ thuật, dịch vụ hoặc ở vị trí lãnh đạo.
Mức lương của phụ nữ chỉ bằng 85% so với nam giới, đặc biệt trong
các ngành như nông- lâm-ngư nghiệp thì mức lương của phụ nữ chỉ bằng 67%
của nam giới. Theo TS Minh, nguyên nhân căn bản là nền tảng giáo dục của
phụ nữ nói chung thấp hơn nam giới, khiến khả năng cạnh tranh của phụ nữ
trên thị trường LĐ thấp hơn. (Nguồn: )
Thạc sĩ Phạm Hương Trà - giảng viên khoa Xã hội học (Học viện Báo chí
và Tuyên truyền) - đã đi tìm sự bất bình đẳng giới trong các quảng cáo tuyển
dụng hiện nay. Kết quả nghiên cứu trên 5 tờ báo in (Thanh Niên, Lao Động,

13
Tiền Phong, Tuổi Trẻ, Vietnam News) cho thấy, phần lớn các quảng cáo
tuyển dụng không phân biệt đối xử một cách trực tiếp dựa trên yêu cầu về giới
tính, với chỉ khoảng 20,6% số quảng cáo nêu cụ thể công việc đòi hỏi ứng
viên nam (12,4%) hoặc nữ (8,2%). (Nguồn: )
Kết quả thứ hai là vẫn còn định kiến trong thông báo tuyển dụng của các
DN đem lại lợi thế cho nam giới. Ví dụ các công việc đòi hỏi kỹ thuật cao thì
có đến 50% số quảng cáo yêu cầu ứng viên phải là nam giới, chỉ có 17% yêu
cầu ứng viên là nữ. Một phát hiện nữa là sự phân biệt đối xử giới trực tiếp lại
không nhiều, nhưng sự bất bình đẳng giới lại được ẩn đi, thông qua các yêu
cầu về đào tạo, trình độ học vấn, lứa tuổi hoặc hình thức. (Nguồn:
)
Những yêu cầu này nhiều khi không thực sự cần thiết cho công việc. Theo bà
Jonna Naumanen - Tổ chức lao động quốc tế tại Hà Nội ILO - thách thức lớn
nhất đối với phụ nữ là các công việc mà họ làm thường không được đánh giá
hoặc đánh giá thấp.
Thu nhập của LĐ nữ bằng 87% so với nam giới
(Nguồn: )
Hơn 50% phụ nữ Việt Nam hiện đang làm công việc nội trợ nên không có
thu nhập trực tiếp - thông tin trên được công bố ngày 9.3.2010 trong Báo cáo
phát triển con người khu vực Châu Á-Thái Bình Dương của Chương trình
Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP).
Cụ thể, ở tất cả các nước trong. khu vực, mức lương của phụ nữ thấp hơn
nam giới rất nhiều và mức chênh lệch thu nhập giữa nam-nữ từ 54%-90%. Tại
VN, phụ nữ chiếm 46,6% lực lượng LĐ, nhưng chủ yếu làm việc trong khu
vực kinh tế tư nhân, nên không được hưởng chế độ an sinh xã hội. Những
người làm việc được hưởng thu nhập chỉ bằng khoảng 87% mức thu nhập
bình quân của nam giới.
* Bất bình đẳng giới trong lãnh đạo và quản lí.
Hiện nay Việt Nam là một trong những nước được Liên hợp quốc đánh giá

cao trong việc nỗ lực rút ngắn khoảng khách bình đẳng giới trong giáo dục,
việc làm, kinh tế, chăm sóc sức khoẻ sinh sản/ kế hoạch hoá gia đình. Theo
Báo cáo của Liên hợp quốc, năm 2002 chỉ số Giới (GDI) ở nước ta xếp thứ
89/173 nước. Một trong những lĩnh vực đáng chú ý hơn đó là vấn đề giới
trong lãnh đạo quản lý cũng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm kịp thời, số
lượng cán bộ nữ được tham gia vào các cấp uỷ Đảng, chính quyền có xu
hướng tăng lên qua các nhiệm kỳ. Tuy nhiên, kết quả đó chỉ là bước đầu, nó
chưa thực sự mang tính bền vững và đang đặt ra nhiều vấn đề cần lời giải đáp.
Bảng 13: Tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp uỷ Đảng qua các nhiệm kỳ (%)
T
T
Các cấp lãnh đạo
Khoá 1996-
2000
Khoá 2001-
2005
14
1 Ban chấp hành Trung ương Đảng 10,58 8,6
2 Ban chấp hành tỉnh/thành uỷ 11,30 11,32
3 Ban chấp hành huyện/quận uỷ 11,68 12,89
4 Ban CH Đảng uỷ xã/phường 10,73 11,88
Nguồn: Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ. Kế hoạch hành động
của phụ nữ Việt Nam đến năm 2005, Nxb. Phụ nữ Hà Nội, 2002

Thực tế cho thấy, cùng với tiến bộ của xã hội, vai trò, vị thế của người phụ
nữ trong gia đình và ngoài xã hội ngày càng được đánh giá cao.Cụ thể tỷ lệ
phụ nữ Việt Nam tham gia vào các lĩnh vực lãnh đạo quản lý trong cấp uỷ
Đảng, đoàn thể đều có xu hướng tăng lên qua các năm (bảng 1).
Số liệu cho thấy tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp uỷ xã, quận, huyện và tỉnh có
tăng dần qua các nhiệm kỳ. Riêng đối với cấp trung ương có giảm đi đáng kể.

Về Đại biểu Quốc hội, tỷ lệ nữ tham gia tăng lên rõ rệt; Quốc hội khoá X tỷ
lệ nữ chiếm 26,22% và khoá XI là 27,31%. Kết quả này đã đưa Việt Nam lên
vị trí thứ nhất ở châu Á và xếp thứ 2 của Châu Á - Thái Bình Dương về tỷ lệ
nữ tham gia Đại biểu Quốc hội.
Một điều dễ nhận thấy, phụ nữ tham gia lãnh đạo trong cấp chính quyền có
sự khác biệt. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ Nội vụ vào năm 2002, cán
bộ, công chức trong khu vực hành chính sự nghiệp chiếm 52,2% tổng số cán
bộ, công chức. Cán bộ công chức nữ tham gia công tác ở tất cả các ngành và
mọi lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hoá, xã hội, quản lý Nhà nước chiếm tới
47% tổng số lao động trong khu vực Nhà nước, nghiên cứu khoa học tỷ lệ cán
bộ công chức nữ chiếm khoảng 30%.
Theo báo cáo của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam "Tổng kết 10 năm thực
hiện Chỉ thị 37 CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII về công
tác cán bộ nữ" cho thấy tính đến tháng 6/2003, số cán bộ nữ giữ chức vụ Bộ
trưởng và tương đương chiếm 11,29%; Thứ trưởng và tương đương chiếm
12,85%; chủ tịch UBND Tỉnh/thành phố chiếm 1,6%; Phó Chủ tịch UBND
tỉnh chiếm 12,5%.
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh sau 20 năm đổi mới toàn diện, đất
nước ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là trên lĩnh vực kinh tế.
Trong đội ngũ những nhà doanh nghiệp trẻ, năng động, sáng tạo có không ít
gương mặt là phụ nữ. Số liệu cũng cho thấy hiện nay tỷ lệ nữ tham gia vào
lãnh đạo, quản lý sản xuất tăng lên khá mạnh mẽ. Tổng giám đốc các Tổng
công ty 91, nữ chiếm 5%; Phó Tổng giám đốc, nữ chiếm 9,7%. Đối với các
Tổng công ty 90, Chủ tịch Hội đồng quản trị, nữ chiếm 1,7%; Tổng giám đốc,
nữ chiếm 2,9%.
Thực tế, một lần nữa khẳng định, phụ nữ nước ta ngày càng được chú ý
hơn trong sắp xếp và đào tạo cán bộ nữ. Điều đáng quý hơn là tuy tham gia
ngày càng nhiều vào các lĩnh vực lãnh đạo quản lý xã hội, nhưng chị em vẫn
làm tròn thiên chức của người phụ nữ trong gia đình, nuôi dạy con cái chăm
15

ngoan học giỏi, xây dựng gia đình văn minh, hạnh phúc, phát huy truyền
thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam “giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
Tuy nhiên, trong xã hội ta, tư tưởng trọng nam khinh nữ và những phong
tục tập quán lạc hậu vẫn chưa được xoá bỏ hoàn toàn. Tình trạng phụ nữ bị
đối xử bất công, hoặc chưa được quan tâm, bồi dưỡng đúng mức vẫn còn diễn
ra trong gia đình và cả ngoài xã hội. Những tư tưởng thủ cựu của nam giới
vẫn còn diễn ra ở một số cơ quan đoàn thể và các địa phương. Vì vậy, tỷ lệ
phụ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ở các cấp vẫn còn thấp so với nam
giới.
Theo số liệu điều tra 36 phụ nữ đã trải qua và đang giữ các cương vị quản
lý, 100% số cán bộ nữ được hỏi đều đã lập gia đình và có con; khi được hỏi
có tới 52,78% cho rằng: tham gia công tác quản lý họ còn rất ít thời gian cho
công việc gia đình. Khi hỏi tại sao hiện nay có sự thiếu hụt vị trí phụ nữ làm
lãnh đạo thì có tới 33,33% số chị em trả lời rằng: do công việc chăm sóc gia
đình chiếm nhiều thời gian nên họ không có thời gian tham gia công tác quản
lý. Quả thực đây là một thách thức lớn mà chị em phụ nữ phải đối mặt trong
việc lựa chọn giữa quá trình phấn đấu thăng tiến nghề nghiệp và công việc
chăm sóc gia đình.
2.2.2. Nguyên nhân
Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng giới theo nghiên cứu là do vẫn còn
ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến gia trưởng cùng sự biến đổi chậm chạp
của ý thức xã hội, các thiên kiến về giới bám rễ lâu đời trong một số tầng lớp
nhân dân, do việc xem trọng gia đình của người phụ nữ và hầu như nam giới
chưa thay đổi quan niệm trụ cột của mình với gia đình. Chính họ đã tự đặt cho
mình trọng trách lớn, phụ nữ còn tự ti luôn nghĩ mình là người hỗ trợ cho vai
trò trụ cột của chồng. Đối với những gia đình nông thôn, sự chuyển dịch nhân
công lao động từ nông thôn ra thành thị (thường diễn ra với nam) đã làm cho
những người phụ nữ ở lại địa phương thêm gánh nặng: đảm nhận cả lao động
sản xuất lẫn việc nội trợ . Trình độ học vấn cũng góp phần quan trọng trong
việc tạo quyền quyết định cho nam hay nữ. Nếu trong gia đình cả hai vợ

chồng có học vấn cao thì sự bàn bạc, thỏa thuận chiếm tỷ lệ lớn, ngược lại
người vợ có trình độ thấp thì quyền quyết định mọi mặt chủ yếu vẫn là chồng.
Thực tế đời sống xã hội cho thấy, người phụ nữ chưa thực sự được giảm
đáng kể gánh nặng công việc bếp núc gia đình, giảm nhẹ gánh nặng nuôi dạy
con cái, chính điều này đã làm ảnh hưởng tới thời gian nghỉ ngơi, học tập và
cơ hội, nghề nghiệp của phụ nữ. Một số chị em phụ nữ thiếu tự tin, chấp nhận
định kiến này như là sự "an bài của số phận" và tin rằng mình không phù hợp
với công việc quản lý, và có những bước phát triển trong sự nghiệp vượt
chồng.
16
2.3. Đánh giá chung về BBĐ ở VN thời gian qua
Hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, kinh tế VN không ngừng phát triển với
tốc độ cao, VN đã thoát ra khỏi nhóm các nước có mức thu nhập thấp, mức
sống người dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm mạnh, nền kinh tế đang
chuyển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, như đã trình
bày, những hạn chế và những thách thức của hội nhập không phải là ít. Nhiều
chỉ số phát triển còn thấp. Mặc dù, bất bình đẳng ở Việt Nam còn thấp hơn
một số nước trong khu vực, tuy nhiên theo đà tăng trưởng kinh tế, các tồn tại
trên sẽ là nguyên nhân làm tăng nhanh bất bình đẳng trong nước. Có thể khái
quát một số ý kiến như sau về bất bình đẳng của Việt Nam thời gian qua:
- Mức chênh lệch về thu nhập giữa các vùng, các nhóm dân cư đang tăng
lên sẽ là nguyên nhân đẩy tới bất công trong xã hội.
- Tình trạng tái nghèo còn phổ biến dưới tác động của rủi ro về thiên tai,
dịch bệnh và biến động xấu của thị trường.
- Người nghèo hiện nay tập trung vào những nhóm dân cư rất đặc thù, bao
gồm: những người sống ở những vùng sâu, vùng xa; người dân tộc thiểu số;
người dễ bị tổn thương. .
- Nghèo, đói, thu nhập thấp dẫn đến hạn chế tiếp cận các dịch vụ xã hội
cơ bản làm tăng bất bình đẳng trong tương lai.
- Tình trạng phân bịêt đối xử giới đang được cải thiên dần dần, tuy có

giảm đi nhưng vẫn còn tồn tại những thực trạng rất đáng quan tâm.
Tóm lại, mặc dù đã đạt được thành tựu rất to lớn trong công tác xóa đói
giảm nghèo và công bằng xã hội, song những thách thức đặt ra là vấn đề cần
được các cấp, các ngành tiếp tục nghiên cứu, có những giải pháp hữu hiệu để
công tác xóa đói, giảm nghèo của chúng ta tiếp tục thu được những thành tựu
mới, thực sự góp phần làm tăng tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
17
Chương III: ĐÁNH GIÁ BẤT BÌNH ĐẲNG THEO MỤC TIÊU ĐỀ RA
TRONG MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CỦA VIỆT NAM
3.1. Mục tiêu mô hình phát triển toàn diện của Việt Nam
Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001-2010 đã xác định rõ
mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay là “phát triển toàn diện”.
Theo đó, tăng trưởng kinh tế được giải quyết đồng thời với tiến bộ và công
bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến trình phát triển kinh tế- xã hội. Để
thực hiện điều đó, nhà nước đã đưa ra nhiều quyết sánh quan trọng, như: đẩy
mạnh phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích đầu tư nước ngoài, sử dụng kết
hợp phương thức phân phối theo chức năng với phân phối theo thu nhập, thực
hiện chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia.
Bước vào giai đoạn đổi mới kinh tế từ một vị trí nằm trong tốp sau cùng
của kinh tế thế giới, Việt Nam đã đặt ra ba “cửa ải”lớn cần phải vựợt qua, đó
là: (1) Thoát ra khủng hoảng kinh tế; (2) Đưa nước ta ra khỏi danh sách các
nước có thu nhập thấp nhất thế giới; (3) Phấn đấu cơ bản trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020. Để thực hiện tuần tự từng mục tiêu, Chính phủ Việt
Nam đã lựa chọn mô hình “phát triển toàn diện”, điều đó được xác định trong
“Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010” (đã đề ra từ năm 1993),
thông qua Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Theo mô hình này: mục tiêu
tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với mục tiêu công bằng xã hội; Quá trình tăng
trưởng nhanh và công bằng xã hội lớn hơn là những mục tiêu tương hợp và
không mâu thuẫn nhau; Kết quả tăng trưỏng nhanh góp phần cải thiện mức độ

công bằng, hoặc là không làm gia tăng bất bình đẳng, trường hợp xấu nhất là
sự bất bình đẳng có gia tăng nhưng ở một mức độ thấp cho phép. Tính chất
đúng đắn của hướng lựa chọn này được khẳng định qua những luận cứ:
- Về mặt lý thuyết, mục tiêu cuối cùng của phát triển kinh tế mỗi quốc gia
không phải là tăng trưởng nhanh mà là nhằm bảo đảm cho quảng đại nhân dân
đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giầu có về tinh thần và văn hóa, sự bình
đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con
người với tự nhiên.
- Về thực chứng, tính đúng đắn của mô hình đã được khẳng định trong các
chỉ số phản ánh thành quả kinh tế - xã hội của những nước theo mô hình này
(xem bảng)
18
“Tăng trưởng kinh tế tập trung– xã hội tiến tới công bằng” là phương châm
thực hiện có hiệu quả mô hình “phát triển toàn diện”
3.2. Đánh giá bất bình đẳng theo mô hình phát triển của
Việt Nam
Theo lý thuyết truyền thống, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đặc biệt
là hướng tới phân phối thu nhập bình đẳng hơn có thể mâu thuẫn với mục tiêu
đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn và có tăng trưởng nhanh
hơn. Tuy nhiên, có nhiều lý do cho thấy sự phân phối thu nhập bình đẳng hơn
ở các nước nghèo như Việt Nam có thể có lợi cho tăng trưởng. Do đó, việc
đánh giá đúng đắn tác động của bất bình đẳng đối với tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam sẽ giúp cho các nhà quản lý đưa ra các chính sách thích hợp để đảm
bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam.
Từ các chỉ số chênh lệch và nguyên nhân chênh lệch giàu, nghèo trên, có
thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.
Một, chênh lệch giàu nghèo ở nước ta tăng lên là tất yếu do sự chuyển đổi
cơ chế từ kế hoạch tập trung quan liêu và chế độ bao cấp bình quân hiện vật
sang cơ chế thị trường. Cơ chế này đã loại bỏ dần tính bình quân bao cấp,
khuyến khích làm giàu bằng việc phát huy các nguồn lực về vốn, trình độ học

vấn, trình độ chuyên môn, sức lao động, kinh nghiệm làm ăn
Hai, chênh lệch tăng tương đối nhanh trong thời gian qua (bình quân mỗi
năm tăng thêm gần 0,4 lần) và có xu hướng còn tăng cao hơn nữa trong thời
gian tới. Cần có chính sách khuyến khích người giàu làm giàu chính đáng hơn
nữa, đồng thời hỗ trợ hơn nữa người nghèo về các mặt để tăng thu nhập nhằm
thoát nghèo, mặt khác có chính sách, có phong trào vận động để người giàu
đóng góp về thuế thu nhập, làm từ thiện
Ba, hệ số chênh lệch giàu, nghèo tuy còn thấp hơn nhiều nước, nhưng nếu
xét từ xuất phát điểm của một nước vừa mới chuyển đổi từ cơ chế hiện vật
mang tính chất bình quân sang cơ chế thị trường thì không thể không đáng
19
quan tâm, nhất là đối với nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường nhưng lại
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn, trong hệ số chênh lệch giàu, nghèo của nước ta còn chứa đựng
những yếu tố bất hợp lý ở cả 2 đầu - đầu giàu và đầu nghèo.
Năm, về mặt tâm lý, việc đối xử không nên "vơ đũa cả nắm", không nên
"người giàu thì ghét, người nghèo thì khinh". Người giàu chính đáng, người
giàu do trình độ còn phải được tôn vinh, phải học tập. Người nghèo do
khách quan cần được chia sẻ, hỗ trợ, đùm bọc.
Điểm nổi bật ở Việt Nam so với các nền kinh tế khác là tăng trưởng nhanh,
liên tục nhưng vẫn hạn chế được tốc độ gia tăng bất bình đẳng. Hệ số Gini -
một chỉ số xem xét bất bình đẳng thu nhập chỉ tăng từ 0,44 năm 2001 lên 0,49
năm 2010. Độ sâu nghèo đói, được tính bằng tỷ lệ người nghèo nằm gần
ngưỡng nghèo, cũng giảm.
Theo phân tích có nhiều lý do cho thấy ở những nước nghèo như Việt
Nam, phân phối công bằng hơn có thể có lợi cho tăng trưởng và 2 mục tiêu
này vừa có mặt thống nhất, là điều kiện cho nhau, vừa mâu thuẫn với nhau.
Kết quả về giảm nghèo ở nước ta đã minh chứng cho nhận định trên. Tỷ lệ
nghèo tính theo tiêu dùng đã giảm từ 30.2% năm 2001 xuống chỉ còn 16%
năm 2010, tức là trong gần 10 năm đã giảm 35 triệu người nghèo. Tỷ lệ nghèo

về lương thực, thực phẩm - những người nghèo nhất cũng giảm từ 24,9%
xuống còn 6,7%. Tốc độ tăng trưởng cao đã cải thiện nhanh chóng mức thu
nhập của người dân, từ 500 USD năm 2001 lên 1.000 USD năm 2008. Với
ngưỡng thu nhập này, Việt Nam sắp trở thành quốc gia có thu nhập trung
bình, về cơ bản thoát nghèo và do vậy cuộc sống của người nghèo cũng được
cải thiện. Với những con số thống kê này, so sánh với Mục tiêu Thiên niên kỷ
đầu tiên của Liên hợp quốc là giảm một nửa tỷ lệ người cực nghèo trong
khoảng 15 năm, thì nước ta đạt được con số giảm nghèo ấn tượng và những
thành quả tăng trưởng đã cải thiện đời sống cho đại đa số người, thể hiện rõ
mục tiêu "định hướng XHCN" của nền kinh tế là tăng trưởng vì người nghèo.
Cùng với giảm nghèo, sự gia tăng bất bình đẳng ở nước ta có thể được coi
là không quá lớn. Dựa trên phân tích hệ số Gini. Theo ông, hệ số Gini dựa
trên chi tiêu bình quân đầu người của Việt Nam ổn định trong giai đoạn 2002-
2006 và vào loại trung bình của thế giới. Như vậy, sau hơn một thập kỷ đổi
mới từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, xã hội Việt Nam vẫn tương đối công bằng và đây là một thành
công, các nhà khoa học khẳng định.
Mặc dù tăng trưởng kinh tế của nước ta khá ấn tượng về con số song sự
tăng trưởng ấy còn có một số hạn chế, đặc biệt là "sự lan toả của tăng trưởng
kinh tế đến các đối tượng chịu ảnh hưởng không mạnh và khuynh hướng ảnh
hưởng tiêu cực có phần gia tăng". GS-TS Nguyễn Văn Nam (ĐH KTQD) đã
viết rằng "Điều đáng nói là, thực tế tác động của tăng trưởng kinh tế tới giảm
nghèo đang có xu hướng giảm và bất bình đẳng lại tăng lên tương ứng". Điều
này cho thấy tình trạng tụt hậu của người nghèo trong mối tương quan với
20
người giàu. Phân tích tình hình biến đổi về thu nhập của các nhóm dân cư cho
thấy, người giàu hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế nhiều hơn, mức độ cải thiện
thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống chung và đặc biệt
so với nhóm có mức sống cao. Khoảng cách giàu - nghèo lớn và phân hoá
giàu nghèo ngày càng doãng ra.

Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là, kết quả giảm nghèo của Việt Nam còn
thiếu bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao, tỷ lệ hộ cận nghèo lớn, lại thêm tác động
của tăng giá, thiên tai, bão lụt, dịch bệnh, nhiều hộ rơi xuống dưới ngưỡng
nghèo. Số lượng là vậy nhưng chất lượng chưa vững chắc, thu nhập của một
bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo. Do vậy, khi có những dao
động về thu nhập hoặc gặp thiên tai, rủi ro, biến động giá cả, họ lại rơi xuống
ngưỡng nghèo. Cùng với xu hướng xoá đói giảm nghèo đã chậm lại thì tỷ lệ
tái nghèo ngày càng tăng, ở mức 7% đến 10%. Thêm vào đó, mức độ tiếp cận
và thụ hưởng các chính sách của người nghèo, đặc biệt là đồng bào dân tộc
thiểu số còn hạn chế so với mức độ đầu tư.
Có thể nói, mục tiêu công bằng và tăng trưởng trong mô hình phát triển
toàn diện của Việt Nam về cơ bản là thực hiện được, tuy nhiên cần phải xét
tới tính bền vững của của các chính sách thực hiên, và biểu hiện tăng lên
của bất bình đẳng hiện nay có thể dẫn đến sự trầm trọng trong tương lai
nếu không sát sao quan tâm và thay đổi.
Chương IV: Giải Pháp về bất bình đẳng
4.1.Giải quyết bất bình đẳng giới:
Chiến lược quốc gia về vấn đề bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020:
1. Mục tiêu chính của CLQGVBĐG:
- Tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016-2020 từ 25% trở lên; nữ đại
biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2015 đạt tỷ lệ từ 30%
trở lên và nhiệm kỳ 2016-2020 trên 35%.
- Tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp đạt 30% vào năm 2015 và từ 35% trở lên
vào năm 2020. Lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và
chuyên môn kỹ thuật đạt tỷ lệ 25% vào năm 2015 và 50% vào năm 2020.
- Tỷ lệ nữ ở vùng nông thôn nghèo, vùng dân tộc thiểu số có nhu cầu được
vay vốn ưu đãi từ các chương trình việc làm, giảm nghèo và các nguồn tín
dụng chính thức đạt 80% vào năm 2015.
- Đến năm 2015 đạt 80% và đến năm 2020 đạt trên 95% bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ.

- Tỷ số giới tính khi sinh không vượt quá 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh
gái vào năm 2015 và 115/100 vào năm 2020.
21
- Đến năm 2015, mục tiêu sẽ giảm 60% và đến năm 2020 giảm 80% sản phẩm
văn hóa, thông tin mang định kiến giới, tăng thời lượng phát sóng các chương
trình, chuyên mục và số lượng các sản phẩm tuyên truyền, giáo dục về bình
đẳng giới.
2. Giải Pháp
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra của các cấp ủy Đảng, chính quyền
các cấp đối với công tác bình đẳng giới. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước
về bình đẳng giới. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bình đẳng
giới. Thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc
có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới. Thực hiện lồng ghép
vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình,
kế hoạch hoạt động của các Bộ, ngành; trong xây dựng và tổ chức thực hiện
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Tăng cường kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới. Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành để thực hiện có hiệu quả công tác
bình đẳng giới.
- Đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nhằm nâng cao nhận
thức về bình đẳng giới trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động và nhân dân.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai
đoạn 2011 – 2015 và giai đoạn 2016 – 2020 nhằm hỗ trợ các Bộ, ngành, địa
phương giải quyết những vấn đề trọng tâm của công tác bình đẳng giới.
- Phát triển các hệ thống dịch vụ có chất lượng nhằm hỗ trợ nữ và nam bình
đẳng về cơ hội, sự tham gia và thụ hưởng trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Tăng cường xã hội hóa và phối hợp liên ngành trong việc tổ chức các
hoạt động về bình đẳng giới.

- Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho công tác bình
đẳng giới; chi ngân sách nhà nước cho công tác bình đẳng giới theo phân cấp
ngân sách nhà nước hiện hành; ưu tiên nguồn lực cho những ngành, vùng, khu
vực có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ cao về bất bình đẳng giới, vùng
nông thôn, vùng nghèo, vùng miền núi còn nhiều tập tục lạc hậu, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.
- Tăng cường công tác nghiên cứu về bình đẳng giới trên các lĩnh vực. Xây
dựng cơ sở dữ liệu về bình đẳng giới phục vụ công tác nghiên cứu và hoạch
22
định chính sách về bình đẳng giới. Xây dựng Bộ chỉ số giám sát, đánh giá tình
hình thực hiện Luật Bình đẳng giới.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế đa phương, song phương về bình đẳng giới.
3. Các giai đoạn thực hiện Chiến lược:
a) Giai đoạn I (2011 - 2015):
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức về
bình đẳng giới.
- Tổ chức các hoạt động hỗ trợ, xúc tiến thực hiện lồng ghép giới trong quá
trình xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật, chương trình, dự án của các
Bộ, ngành và địa phương.
- Tổ chức các hoạt động hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới trong một số lĩnh vực
và vùng có khoảng cách lớn về bình đẳng giới.
- Xây dựng một số mô hình điểm về bình đẳng giới. Xây dựng cơ sở dữ liệu
về bình đẳng giới; xây dựng Bộ chỉ số giám sát, đánh giá tình hình thực hiện
Luật Bình đẳng giới.
- Tổ chức sơ kết, đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Chiến lược.
b) Giai đoạn II (2016 - 2020):
- Trên cơ sở sơ kết, đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện Chiến lược trong giai
đoạn I (2011 - 2015), điều chỉnh chính sách phù hợp, triển khai toàn diện các
giải pháp để thực hiện thành công các mục tiêu của Chiến lược. Tập trung

nguồn lực cho những hoạt động được xác định là gặp nhiều khó khăn trong
quá trình thực hiện Chiến lược ở giai đoạn I.
- Nhân rộng các mô hình tốt và tiếp tục xây dựng các mô hình mới về bình
đẳng giới.
- Khai thác, sử dụng có hiệu quả cơ sở dữ liệu về bình đẳng giới phục vụ công
tác hoạch định chính sách.
- Tăng cường chia sẻ thông tin, bài học kinh nghiệm, các sáng kiến hay, mô
hình có hiệu quả về bình đẳng giới.
- Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược.
23
4. Các dự án của Chiến lược:
- Dự án truyền thông nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi về bình đẳng giới.
- Dự án nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
- Dự án nâng cao năng lực cho đội ngũ nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp, quản lý, lãnh đạo các cấp; nữ ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2020, cán bộ nữ
thuộc diện quy hoạch.
- Dự án hỗ trợ thực hiện bình đẳng giới trong những lĩnh vực, ngành, vùng,
địa phương có bất bình đẳng giới hoặc có nguy cơ cao bất bình đẳng giới.
- Dự án hỗ trợ xây dựng, phát triển dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về bình đẳng giới.
4.2.Giải quyết vấn đề bất bình đẳng trong thu nhập
Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng có một số biện pháp có thể được áp dụng để
giảm bất bình đẳng không mong muốn. Một số biện pháp giúp tạo công ăn
việc làm và thu nhập cho những nhóm người bị tụt hậu ở đằng sau, một số
biện pháp khác lại tập trung vào phân phối lại thu nhập và của cải. Nói chung
cả hai cách tiếp cận như vậy đều rất cần thiết. Ngoài ra, những biện pháp này
thường có những tác động tiêu cực. Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng tính
ưu iệt của mỗi phương pháp và điều chỉnh, thiết kế chính sách sao cho phù
hợp với hoàn cảnh riêng của mình. Trước tiên, nâng cao năng suất nông
nghiệp. Đây là cách trực tiếp nhất nhằm nâng cao đời sống của người nông

dân. Cải tổ đất đai và tự do hóa nông nghiệp thường có những tác động lớn,
mặc dù chỉ một lần, và tạo ra những khuyến khích đối với quy mô sản xuất.
Cải tiến nông nghiệp dựa trên những giống cây trồng mới và hệ thống tưới
tiêu (“Cuộc cách mạng xanh”) đã tạo ra nhiều thành công rực rỡ ở nhiều
nước. Sự đa dạng hóa đối với các loại cây công nghiệp và việc chăn nuôi gia
súc cũng là một hướng giải quyết khác. Tuy nhiên, Việt Nam ít nhiều đều đã
thử áp dụng các phương pháp này, và liệu có phương pháp khác có thể thúc
đẩy nâng cao năng suất nông nghiệp hay không vẫn còn chưa có câu trả lời
chắc chắn. Hiệu quả sử dụng đất ở Việt Nam hiện nay là khá cao, và đất
được chia thành những mảnh nhỏ, đặc biệt là ở phía Bắc. Những cải tiến về
kỹ thuật nông nghiệp và tổ chức cũng nên được xem xét. Nhưng nếu chỉ cải
24
thiện được năng suất một phần nào và không thể làm người nông dân giàu lên
được thì cần phải xem xét đến các biện pháp khác.
Thứ hai, khuyến khích các ngành và dịch vụ ở nông thôn. Trung Quốc đã
khuyến khích công nghiệp hóa nông thôn với mô hình Doanh nghiệp làng
ngoại ô (TVE) trong những năm 1990. Sự xuất hiện của TVE không được dự
báo trước nhưng đã có những cải tổ đáng kể về cải cách về quyền sở hữu và
các đơn vị sản xuất nông thôn. TVE đã tạo ra công ăn việc làm và đem lại thu
nhập cho những nhóm dân số kém năng động và tạo ra những cầu mới cho
hàng hóa và dịch vụ địa phương. Mặc dù TVE đóng góp đáng kể vào việc làm
giàu cho nông thôn và giảm di cư tới các khu vực thành thị nhưng nó chỉ có
tác dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Ngoài ra, những thành công
như vậy rất hiếm khi đạt được ở các quốc gia trong quá trình chuyển đổi. Ở
Việt Nam, các làng thủ công mỹ nghệ nằm rải rác khắp các vùng miền, và
cũng đóng vai trò tương tự như tạo công ăn việc làm ở nông thôn, tạo ra thu
nhập cho người dân nông thôn giống như trường hợp của Trung Quốc. Tuy
nhiên, tác động kinh tế của nó đến nay dường như còn quá khiêm tốn so với
thành công của TVE của Trung Quốc.
Thứ ba, có sự di cư từ nông thôn ra thành thị. Dòng người nông thôn đến các

thành phố để tìm việc làm và thu nhập đang không ngừng diễn ra ở hầu hết
các nước đang phát triển, và dòng người di dân này đang ngày càng gia tăng
khi tăng trưởng ngày càng tăng. Ở Việt Nam cũng vậy di dân từ nông thôn ra
thành thị cũng không ngừng gia tăng. Việc di dân này có cả tác động tích cực
và tiêu cựu đối với các điểm đến. Mặc dù di cư từ nông thôn ra thành thị về
cơ bản được diễn ra do bản thân những người di dân mong muốn đến các
thành phố, chính phủ vẫn nên có những chính sách thích hợp để hạn chế
những vấn đề không mong muốn có thể xảy ra và bảo vệ những người di dân
khỏi những rủi ro có thể xảy đến.
Thứ tư, thiết lập cơ chế phân phối lại thu nhập và phi thu nhập. Để thực hiện
được cơ chế này, các loại thuế, trợ cấp khác nhau, các biện pháp kiểm soát
giá và ưu đãi khác (“các hành động kiên quyết”) cần phải được áp dụng.
Những biện pháp này có thể tạo ra những hậu quả về tài chính và những lệch
lạc về thị trường, do vậy việc áp dụng chúng cần hết sức thận trọng và có mục
tiêu thích hợp để tránh các khủng hoảng về ngân sách, cũng như chính trị.
Phân phối lại có thể đi ngược lại xu thế tự do hoá nền kinh tế nhưng nó cần
thiết để giảm bớt sự bất mãn về chính trị tại các nước đang tăng trưởng mạnh.
Tại Nhật Bản sau thế chiến thứ 2, Chính phủ đã tiến hành việc phân bổ lại
các nguồn lực giữa các thành phố công nghiệp bị đánh bom với các khu vực
nông thôn thông qua việc phân bổ lại ngân sách trung ương và địa phương,
trợ cấp và bảo hộ nông dân, ưu tiên đầu tư các dự án công tại khu vực nông
thôn. Chính sách hào phóng này đã giúp Chính phủ Nhật Bản ổn định tình
hình chính trị trong nước tuy nhiên lại gây cản trở cho sự đổi mới trong nông
nghiệp. Một khía cạnh khác của vấn đề phân phối lại là thời hạn áp dụng; bảo
25

×