Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Cnxhkh sự đổi mới quan niệm của đảng cộng sản việt nam về thời kỳ quá độ đi lên cnxh và về con đường đi lên cnxh bỏ qua chế độ tbcn trong văn kiện của đại hội đảng toàn quốc lần thứ vi (1991)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.17 KB, 8 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...................................................................................................................2

NỘI DUNG...............................................................................................................3

I. Đổi mới quan niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội..............................3

1. Đảng ta khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ...................3

2. Khẳng định thời kỳ quá độ là một quá trình lịch sử lâu dài..........................3

3. Nhận thức mới về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ Đảng ta đã có sự đổi mới trong nhận thức và
trong thực tiễn....................................................................................................4

II. Đổi mới quan niệm về con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa...............................................................................................................5

1. Những điều kiện khách quan của con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.....................................................................................5

2. Thực chất của con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa..................................................................................................................6

KẾT LUẬN...............................................................................................................8

MỞ ĐẦU

Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề
tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và


phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, địi hỏi phải có sự nghiên cứu rất cơng
phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.

Hiện nay, thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản trên phạm vi tồn thế giới nói chung
vẫn đang tiếp diễn và con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa” tại các nước chủ nghĩa xã hội nói riêng cũng có cơ sở lịch
sử, thực tiễn sâu xa, vùng chắc, mang tính quy luật khách quan, tất yếu và hoàn
toàn khả thi. Việt Nam trong xu thế chung của thế giới cũng đang tiến hành quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài và cũng có nhiều khó khăn. Có nhiều
tài liệu đã nghiên cứu về vấn đề này nhưng ở mồi tài liệu thì mới đề cập đến một
khía cạnh của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.. Việc nghiên cứu đề tài này
sẽ cung cấp cho ta thêm những thông tin q báu về tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội trong nước để bước đầu hình thành cho mình những tư duy kinh tế. Qua đó
giúp ta hiểu được tình hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

NỘI DUNG

I. Đổi mới quan niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tiến trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là đổi
mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội
VI - Đại hội của đổi mới, Đảng ta xác định, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của mỗi nước. Đối với nước ta, thời kỳ
quá độ rất lâu dài và khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn
diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng; trong đó, bao hàm nhiều chặng
đường, nhiều bước quá độ nhỏ với những nhiệm vụ tương ứng. Nội dung của đổi
mới quan niệm về thời kỳ quá độ gồm những điểm sau:

1. Đảng ta khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ

Bản thân việc khẳng định “từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua
một thời kỳ quá độ” khơng có gì mới. Bởi vì tư tưởng về thời kỳ quá độ đã được
Mác đưa ra trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gô ta” và được Lênin nhắc lại
trong nhiều tác phẩm sau này. Điều mới trong nhận thức của Đảng ta về thời kỳ
quá độ là sự khẳng định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tính tất
yếu của một thời kỳ đặc biệt, thời kỳ quá độ, mà Việt Nam nhất thiết phải qua
trong quá trình từ trình độ tiền tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một thời kỳ
cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã
hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Không trải qua một thời kỳ quá độ như vậy thì khơng thể đi tới chủ nghĩa xã hội
được.

2. Khẳng định thời kỳ quá độ là một quá trình lịch sử lâu dài
Trong thời kỳ trước đổi mới, nhất là khi mới bắt đầu công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta có một quan niệm sai lầm cho rằng thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa xã hội chỉ là một quãng thời gian ngắn, khoảng mươi, mười lăm năm là
cùng. Quan niệm sai lầm này xuất phát từ tâm lý nóng vội, chủ quan, duy ý chí,
muốn đốt cháy giai đoạn, muốn nhanh chóng kết thúc cơng cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa, xóa bỏ sở hữu tư nhân, xây dựng chế độ công hữu.

Quan niệm này có ảnh hưởng tiêu cực đến việc hoạch định đường lối, chính sách
cũng như những biện pháp cụ thể để hình thành một hình thái kinh tế - xã hội xã
hội chủ nghĩa thực sự. Từ Đại hội VI (năm 1986), với những kinh nghiệm thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hơn 1/4 thế kỷ, Đảng ta đã khẳng định thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không những là một tất yếu khách quan,
mà còn là một quá trình lịch sử lâu dài, trải qua nhiều chặng đường, trong đó chặng
đường đầu tiên là bước quá độ nhỏ trong những bước quá độ lớn, mà nhiệm vụ của
nó là chuẩn bị những tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa nền kinh tế đất nước.


3. Nhận thức mới về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất trong thời kỳ quá độ Đảng ta đã có sự đổi mới trong nhận thức và trong
thực tiễn.
Trước thời kỳ đổi mới, có quan điểm chính thống cho rằng có thể xây dựng quan
hệ sản xuất đi trước một bước so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất tiên tiến sẽ kéo theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Từ quan
điểm trái quy luật này đã dẫn đến chủ trương chính sách tạo điều kiện cho sự tồn
tại và phát triển chỉ hai quan hệ sở hữu: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, các
quan hệ sở hữu tư nhân coi như bị xếp “ngoài vịng pháp luật”. Hậu quả là kìm
hãm sự phát triển của nền kinh tế, dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trong
những năm 80 của thế kỷ XX.

Từ tình hình thực tiễn như vậy, chúng ta đã có sự đổi mới trong nhận thức, khi
khẳng định rằng: “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ trong trường hợp
quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển khơng đồng bộ, có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” .

Với nhận thức đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương mới thay
cho chủ trương chủ quan, duy ý chí, trái quy luật trước đây. Chủ trương mới đó là:
“Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên và liên tục trong
suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…” , và phải có “những hình thức và bước
đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất, ln ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất” . Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra
đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sử dụng đúng đắn
quan hệ hàng - tiền...; trong đó, thành phần kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo
và chi phối các thành phần kinh tế khác. Với đường lối đổi mới của Đảng, trước

hết là đổi mới kinh tế, lực lượng sản xuất được giải phóng khỏi những trói buộc cũ,

có những bước phát triển quan trọng, có những chuyển biến tích cực thúc đẩy nền
kinh tế - xã hội phát triển, tạo nên sắc thái mới trong đời sống kinh tế - xã hội của
đất nước. Đường lối phát triển kinh tế đúng đắn này đã được Đảng tiếp tục phát
triển và hồn thiện dần qua các kỳ đại hội sau đó, tạo điều kiện cho sự phát triển
mới về chất trong toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

II. Đổi mới quan niệm về con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa
1. Những điều kiện khách quan của con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa
1.1 Điều kiện bên ngoài:

Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ làm cho lực
lượng sản xuất thế giới phát triển đã đạt đến trình độ cao, đã mở đầu giai đoạn mới
của q trình xã hội hóa sản xuất, tạo ra cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế, tạo
điều kiện hiện thực để nước ta có thể tranh thủ vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý của thế giới cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
nếu chúng ta thực hiện hiệu quả phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
hợp tác kinh tế quốc tế.

Trong điều kiện kinh tế thế giới có bước nhảy vọt về cơ sở vật chất - kỹ thuật, xã
hội lồi người địi hỏi phát triển lên một xã hội mới của nền văn minh cao hơn - đó
là nền văn minh của kinh tế tri thức. Do đó, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là con
đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau chủ nghĩa tư bản nhất định phải là
một chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn. Bối cảnh, điều kiện quốc tế mới nêu trên
đã tạo khả năng để Việt Nam chúng ta thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

1.2 Điều kiện bên trong:


Nước ta đã giành được độc lập dân tộc, có chính quyền của giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Với những thắng lợi đã
giành được trong gần một thế kỷ qua, đặc biệt là những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử của cơng cuộc đổi mới, đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo,
kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế
quốc tế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Đây là điều kiện tiên

quyết, quyết định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quá trình cách
mạng do Đảng ta lãnh đạo đã tạo những tiền đề cả vật chất và tinh thần để có thể
"rút ngắn" tiến trình phát triển lịch sử - tự nhiên của xã hội.

Vì thế, trong sự lựa chọn con đường đi lên cho mình, dân tộc ta đã chọn con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là con đường phù
hợp cả về lý luận và thực tiễn, cả về đặc điểm lịch sử - cụ thể trong nước và hoàn
cảnh quốc tế.

2. Thực chất của con đường lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Nói "nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa", thực
chất là trong lịch sử nước ta bỏ qua một giai đoạn, trong đó giai cấp tư sản nắm
chính quyền và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị trong nền
kinh tế quốc dân. "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị thế
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại" .

Tiến hành thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực
chất là chúng ta tự đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất của xã hội, tự

tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội tương ứng
với điều kiện vật chất ấy, làm cơ sở hiện thực cho chủ nghĩa xã hội.

Điều này có nghĩa là, dù nước ta không qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản
với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, nhưng về phương diện
kinh tế phải tơn trọng q trình phát triển tự nhiên của nền kinh tế, không thể bỏ
qua việc phát triển sức sản xuất xã hội, xã hội hóa sản xuất trong thực tế. Với
những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sự hợp tác
kinh tế quốc tế đa phương, đa dạng sẽ cho phép chúng ta tận dụng đại cơng nghiệp
của cả thế giới để có thể "rút ngắn" quá trình phát triển kinh tế đất nước.

Sự phát triển "rút ngắn" chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển
lịch sử tự nhiên, bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ -
được coi là cực kỳ cần thiết và có tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản
xuất nhỏ là phổ biến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng

sáng tạo những quy luật của quá trình phát triển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa.

Như vậy, việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải thích rõ về hai phương
diện:

Một là, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Trong xã hội tư bản,
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa giữ vai trò thống trị của quan hệ sản
xuất; là cơ sở nảy sinh những bất bình đẳng về kinh tế và áp bức về xã hội. Bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa, từng
bước xây dựng mối quan hệ sản xuất mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu thể hiện rõ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân
dân ta đang xây dựng so với chế độ tư bản chủ nghĩa.


Hai là, trong khi bỏ qua những mặt đó, cần “tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công
nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có
chọn lọc. Nhận thức này đã góp phần khắc phục tư duy giáo điều, siêu hình về sự
tương đồng và khác biệt của hai hình thái kinh tế - xã hội mà trước đây chúng ta đã
mắc phải. Thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở các nước khác đã
khẳng định luận điểm của V.I. Lênin: “chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh như thế nào
từ tổng số những kiến thức của nhân loại”

KẾT LUẬN

Từ nhận thức một cách đúng đắn, triệt để và nhất quán về con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ giúp cho mỗi chúng ta có cái nhìn tồn diện hơn về
những thuận lợi, khó khăn; những thời cơ; nguy cơ và thách thức đan xen nhau để
từ đó với quyết tâm cao chúng ta phải phấn đấu nhận biết và vượt qua, ln trong
tình trạng chủ động, tránh được căn bệnh chủ quan, nóng vội, duy trì ý chí; trong
nhận thức phải xuất phát từ thực tế khách quan tôn trọng và hành động theo quy
luật. Mặc dù con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội vẫn còn đầy gian nan và khó
khăn, đặc biệt là trong tình thế đại dịch COVID – 19 ở thời điểm hiện tại nhưng
với quyết tâm của tồn dân, đồng lịng tin tưởng vào những chính sách của Đảng,
vào đường lối của Nhà nước, đồng thuận với những phương án đề ra thì cơng cuộc
xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta ắt sẽ thành công.


×