Tải bản đầy đủ (.docx) (246 trang)

Luận án TS Kế toán - Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thông tin báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 246 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

CLTT BCTC là một khái niệm rộng, không chỉ đề cập đến thông tin tài
chính mà cịn đề cập đến các thơng tin thuyết minh và các thơng tin phi tài
chính khác hữu ích cho việc ra quyết định (Ferdy van Beest và cộng sự,
2009). Chất lượng thông tin BCTC chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, các nhân
tố bên trong, nhân tố bên ngồi và đặc điểm của từng loại hình DN sẽ ảnh
hưởng tới CLTT BCTC theo các cách khác nhau.Thông tin là nhân tố chính
yếu tạo ra sự thành cơng, gia tăng khả năng cạnh tranh, tạo ra giá trị gia tăng
và cung cấp những sản phẩm và dịch vụ có ích cho khách hàng (Laudon và
Laudon, 2007). Ruzevicius và Gedminaite (2007) đã chỉ ra hiệu quả của hoạt
động kinh doanh phụ thuộc vào chất lượng của thông tin và các tổ chức không
chỉ xem xét thông tin là một yếu tố hỗ trợ, mà còn là một sản phẩm hỗ trợ cho
quá trình quản lý. Ruzevicius và Gedminaite (2007) cho rằng quản trị CLTT
trở thành một trong những nhân tố chính của quản trị tổ chức. Ngày càng
nhiều đơn vị tin tưởng rằng, thơng tin có chất lượng là nhân tố quan trọng tạo
nên thành công cho đơn vị họ (Wang và cộng sự., 1998), thơng tin kế tốn
khơng đảm bảo chất lượng sẽ trở nên vô dụng đối với người sử dụng và có thể
dẫn đến việc ra quyết định sai (Kieso và cộng sự., 2007). Nói cách khác, nếu
thơng tin trong tổ chức có chất lượng tốt, tổ chức sẽ hoạt động tốt, và ngược
lại nếu thông tin có chất lượng xấu sẽ gây ra mối đe dọa cho sự tồn tại của tổ
chức, do đó CLTT rất quan trọng cho sự phát triển bền vững của một tổ chức
(Ismail, 2009).

Định nghĩa về DNNVV dựa trên các đặc tính định tính thì Doanh
nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý, có thị trường cổ
phiếu hạn chế và điều hành bởi một cá nhân hay một nhóm chủ sở hữu. DN
chỉ nắm giữ một phần nhỏ cổ phiếu trên thị trường, được quản lí bởi chính
chủ sở hữu hoặc đồng sở hữu (Bolton, 1971). Tại Việt Nam, tiêu chí phân loại



1

DNNVV cũng khác nhau theo từng giai đoạn phát triển kinh tế. Luật Hỗ trợ
DNNVV (2017) xác định tiêu chí của DNNVV Việt Nam bao gồm DN nhỏ,
DN vừa, DN siêu nhỏ, theo số lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình
qn năm, đáp ứng tiêu chí: Tổng nguồn vốn không quá 300 tỷ đồng hoặc
Tổng doanh thu năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng. DNNVV Việt Nam
được chia theo lĩnh vực gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; công nghiệp
và xây dựng; thương mại và dịch vụ (Nghị định 80/2021/NĐ-CP, 2021).
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là thành phần kinh tế nhiều tiềm năng và
ngày càng góp phần quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của
các quốc gia trên thế giới. Theo Ecorys (2012), Châu Âu có khoảng 20,7 triệu
DNNVV, chiếm 98% tổng số DN và sử dụng khoảng 67% tổng số lao động.

Với các quốc gia ASEAN, DNNVV là xương sống cho sự phát triển
kinh tế bền vững của ASEAN, hơn 96% tổng số DN là DNNVV, chiếm 50-
85% số việc làm trong nước, đóng góp từ 30-53% GDP (ASEAN, 2020). Tại
Việt Nam, DNNVV là thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế,
DNNVV tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và đóng góp cho
ngân sách nhà nước. Theo báo cáo của Cục Đăng ký kinh doanh (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư), hiện nay, cả nước có khoảng 870 nghìn DN đang hoạt
động; hơn 26.000 hợp tác xã với tổng số 6,8 triệu thành viên, 2,5 triệu lao
động và hơn 5,1 triệu hộ kinh doanh. Quy mô các cơ sở sản xuất kinh doanh ở
Việt Nam chủ yếu là vừa và nhỏ (chiếm trên 94%), tạo ra khoảng một triệu
việc làm (chiếm 49%) lực lượng lao động trên phạm vi cả nước (VCCI,
2021). Vì thế, theo Perera và Chand (2015) thơng tin kế tốn được cung cấp
bởi các DN này là đặc biệt quan trọng. Tuy lớn mạnh về số lượng nhưng hoạt
động sản xuất kinh doanh của các DNNVV thường nhỏ lẻ, vốn phục vụ cho
hoạt động sản xuất kinh doanh hạn chế và khả năng tiếp cận vốn từ các ngân

hàng thương mại gặp rất nhiều khó khăn, một phần do chất lượng thông tin
của BCTC không đủ tin cậy (Phạm Thành Trung, 2016).

2

Tồn cầu hóa đã dẫn đến việc mở rộng thị trường, tăng cường cạnh
tranh và giảm những cản trở cho các DN khi tham gia vào thị trường quốc tế,
do đó DNNVV cũng phải đối mặt với các vấn đề phức tạp như các công ty
niêm yết lớn (Ricci và cộng sự., 2010). Việc nâng cao mức độ minh bạch và
chất lượng thông tin BCTC sẽ giúp cho các DNNVV tăng khả năng thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, dễ dàng tham gia vào thị trường vốn và tăng cơ hội
phát triển cho DNNVV ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Ủy ban Chuẩn
mực Kế toán quốc tế (IASB) cũng ban hành hệ thống chuẩn mực BCTC quốc
tế đối với các DNNVV (IFRS cho SMEs), điều này thể hiện vai trò quan
trọng và cần thiết đối với việc cung cấp thông tin kế toán của các DNNVV
nhằm đáp ứng nhu cầu của hơn 95% các DNNVV trên toàn thế giới.

Tương tự như các nghiên cứu đã được công bố bởi Page (1984), Collis
và Javis (2000), Sian và Roberts (2009), Maingot và Zeghal (2006), Mazars
(2008), Ploybut (2012)… tại các nước phát triển và đang phát triển Trần Thị
Thanh Hải (2012), Trần Đình Khơi Ngun (2013), Hồ Xuân Thủy (2016),
Lưu Phạm Anh Thi (2018), Nguyễn Thị Ánh Linh (2019)… đã chỉ ra rằng,
đối tượng sử dụng thơng tin BCTC của các DNNVV Việt Nam cịn thấp, các
đối tượng sử dụng thơng tin chưa hài lịng với CLTT do các DNNVV cơng bố
(Trần Đình Khơi Ngun, 2013)… do đó đặt ra nghi vấn phải chăng CLTT
BCTC nói chung và CLTT BCTC của các DNNVV Việt Nam nói riêng cịn
chưa thực sự hữu ích cho việc ra quyết định của người sử dụng thơng tin.
Tính hữu ích của thơng tin BCTC có thể bị suy giảm do nhiều nguyên nhân
khác nhau như: áp lực về cân đối lợi ích - chi phí, hệ thống BCTC chậm thích
ứng với sự thay đổi, rủi ro về sai sót, gian lận, ngưỡng nhận thức của các bên

liên quan, và tác động khác từ mơi trường kế tốn (Trần Thị Thanh Hải,
2015). Trong đó áp lực về cân đối lợi ích - chi phí của DNNVV Việt Nam dẫn
tới việc cung cấp thơng tin tài chính tiêu tốn nhiều chi phí để thu thập, xử lý,
soạn thảo các BCTC hoặc cho kiểm tốn; hơn nữa cịn phải xem xét các chi
phí phát sinh từ phía người sử dụng như thu thập, phân tích, hay loại bỏ

3

những thông tin thừa (Lưu Phạm Anh Thi, 2018). Trong khi lợi ích mang lại
từ thơng tin chẳng hạn sự đáp ứng một yêu cầu pháp lý, thương mại, hay củng
cố hình ảnh tài chính của DN, tạo niềm tin cho khách hàng và nhà đầu tư (đối
với người soạn thảo), hoặc có thể là những kết quả phân tích, dự báo phù hợp
và đáng tin cậy cho việc ra quyết định (đối với người sử dụng thơng tin)… có
thể khơng tương xứng với chi phí đã bỏ ra (Hồ Xn Thủy, 2016). Nói khác
đi, tính hữu ích của thơng tin tài chính bị giảm sút nếu chi phí vượt quá lợi ích
mang lại từ việc cung cấp - sử dụng thông tin. Điều này gây ra áp lực rất lớn
đến việc cung cấp thơng tin tài chính hữu ích nếu yêu cầu quá cao về lợi ích
mang lại của thơng tin từ phía nhà nước, người sử dụng so với khả năng đáp
ứng của DNNVV (Dang-Duc-Son, 2006).

Trong những thập kỷ qua, một số nghiên cứu đã nhấn mạnh tầm quan
trọng của CLTT BCTC trong các DNNVV về việc giảm thông tin bất đối
xứng giữa DNNVV với các chủ nợ (Hope và cộng sự, 2011; Collis, 2012;
Luypaert và cộng sự., 2015); giảm thiểu chi phí nợ của các DNNVV (Minnis,
2011; Hope và cộng sự 2013; Vander Bauwhede và cộng sự, 2015); CLTT
BCTC là yếu tố quan trọng trong việc ra quyết định đầu tư (Financial
Reporting Council, 2015). Mặc dù cả các nghiên cứu và các cơ quan chuyên
môn đều đánh giá cao tầm quan trọng của CLTT BCTC của các DNNVV,
nhưng các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng tới CLTT BCTC của các đối
tượng này ít được tìm thấy (OECD, 2004), và sự chú ý chỉ được tăng lên khi

IFRS cho SMEs (2009) được ban hành (Evans và cộng sự, 2005). Trong khi
các nhân tố ảnh hưởng tới CLTT BCTC đã được nghiên cứu rộng rãi ở các
công ty đại chúng lớn (Healy và Wahlen, 1999; Dechow và cộng sự, 2010)
nhưng cùng chủ đề này trong các DNNVV đã bị bỏ quên từ lâu. Tuy nhiên,
vai trò của DNNVV trong nền kinh tế ngày càng được khẳng định bởi tỷ lệ
đóng góp vào GDP của các quốc gia, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn tới các đòi
hỏi ngày một khắt khe về tính minh bạch của thơng tin tài chính có khả năng
so sánh trong việc tham gia vào thị trường vốn, thu hút đầu tư (Hồ Xuân

4

Thủy, 2016)…đặt ra yêu cầu CLTT BCTC của DNNVV cần phải được cải
thiện, đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin của người dùng.

BCTC là kết quả cả q trình tổ chức cơng tác kế toán ở mỗi DN, tạo ra
sản phẩm là thơng tin kế tốn hữu ích nhằm cung cấp cho các đối tượng có
nhu cầu phù hợp để đưa ra các quyết định kinh tế. Tại Việt Nam, khó khăn
hiện nay của các DNNVV là thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhưng việc tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng gặp nhiều khó khăn mà
một trong những ngun nhân liên quan đến cơng tác kế tốn. Cụ thể, BCTC
được cung cấp bởi các DNNVV thường không đảm bảo tính minh bạch trong
BCTC, sổ sách kế tốn chưa được thực hiện đầy đủ, chính xác, minh bạch,
cơng khai. Việc quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng mang
tính chất gia đình, báo cáo chính thức thường thấp hơn tình trạng thực tế. Mặt
khác, DNNVV thường bán hàng khơng có hợp đồng, khơng tn thủ chế độ
phát hành hóa đơn bán hàng, khơng thanh tốn qua ngân hàng,… Tất cả
những điều này đã làm cho việc phân tích, đánh giá tình hình tài chính của
DNNVV khơng đủ độ tin cậy, ảnh hưởng đến quyết định xem xét cấp tín
dụng của các tổ chức tín dụng đối với doanh nghiệp (Trần Thị Ngọc Cẩm và
Nguyễn Thị Ngọc Hương, 2015). Bên cạnh đó, những nghiên cứu về tầm

quan trọng của các BCTC của các DNNVV Việt Nam không nhiều, đặc biệt
là các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng tới CLTT BCTC của DNNVV lại
càng ít (Nguyễn Bích Ngọc, 2018).

Theo cách tiếp cận coi trọng quy trình sản xuất thơng tin của McFie
(2006), các nhân tố nguồn nhân lực ảnh hưởng tới CLTT BCTC hội tụ ở các
nhân tố về người sản xuất, lập trình bày và cơng bố thơng tin BCTC của DN
cụ thể là Vai trò của nhà quản trị và Năng lực của kế toán. Các nghiên cứu
tiền nhiệm đều nhận thấy CLTT BCTC của các DNNVV là thấp dựa trên
thang điểm trung bình của các thuộc tính chất lượng, tuy nhiên, việc thuộc
tính nào đang được đánh giá ở mức độ ra sao theo thang điểm đo lường để

5

thực hiện tập trung cải thiện thuộc tính đó trong điều kiện nguồn lực có hạn
của DNNVV thì chưa có nghiên cứu nào chỉ rõ. Từng nhân tố trên sẽ ảnh
hưởng theo cách khác nhau tới từng thuộc tính CLTT BCTC của DNNVV
như tính Thích hợp, Trình bày trung thực, Dễ hiểu, Có thể so sánh và Kịp
thời. Việc xem xét từng thuộc tính CLTT BCTC đang được đánh giá ở mức
độ nào, thuộc tính nào đã đáp ứng yêu cầu của người sử dụng, thuộc tính nào
chưa đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin là cần thiết nhằm chỉ rõ
các thuộc tính cần thiết phải cải thiện để đáp ứng yêu cầu của người dùng
trong bối cảnh DNNVV là những đơn vị hạn chế về nguồn lực. Bên cạnh đó,
việc nghiên cứu đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố Vai trò của nhà
quản trị và Năng lực của kế toán tới từng thuộc tính CLTT BCTC để chỉ ra
những tồn tại từ bên trong doanh nghiệp là nguồn lực sản xuất thông tin
BCTC và đưa ra các kiến nghị cải thiện CLTT BCTC của các DNNVV Việt
Nam giúp nâng cao độ minh bạch của thông tin BCTC đáp ứng yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế của các DNNVV là yêu cầu cấp thiết cần thực hiện.


Trong bối cảnh hiện nay, nghiên cứu hướng tới đo lường CLTT BCTC
của các đối tượng DNNVV theo đầy đủ các thuộc tính chất lượng được cơng
bố bởi FASB và IASB (2008) nhằm xem xét thực trạng từng thuộc tính CLTT
BCTC của các DNNVV Việt Nam còn chưa thực sự được quan tâm đúng
mức. Các nghiên cứu nhằm đánh giá CLTT BCTC của DNNVV Việt Nam
hiện đang ở mức độ nào, đã đủ đáp ứng nhu cầu của người sử dụng thông tin
trong điều kiện nguồn lực của các DNNVV này cịn vơ cùng hạn chế hay
chưa cịn hiếm thấy. Với quan điểm tiếp cận coi trọng quy trình tạo lập thơng
tin hướng tới xem xét từng thuộc tính CLTT BCTC, xác định ảnh hưởng đồng
thời và trực tiếp của các nhân tố (Vai trò nhà quản trị, Năng lực của kế tốn)
tới từng thuộc tính CLTT BCTC để đưa ra các khuyến nghị cải thiện CLTT
BCTC cần được lấp đầy để thuận lợi cho DNNVV từng bước hoàn thiện việc
minh bạch thông tin đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người sử dụng thông
tin. Vậy câu hỏi đặt ra khi xem xét CLTT BCTC của các DNNVV Việt Nam

6

là: Từng thuộc tính CLTT BCTC hướng đến sự hữu ích đối với người sử dụng
BCTC của DNNVV Việt Nam đang được đánh giá ở mức độ nào? Thuộc tính
nào đã đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng, thuộc tính nào cần thiết phải
cải thiện nhằm gia tăng CLTT BCTC? Nhân tố Vai trò của nhà quản trị và
Năng lực của kế tốn có ảnh hưởng như thế nào đến từng thuộc tính CLTT
BCTC và mức độ ảnh hưởng của chúng tới từng thuộc tính CLTT BCTC
được đánh giá như thế nào? Theo sự hiểu biết của tác giả, tại Việt Nam chưa
có nghiên cứu nào đi tìm hiểu và trả lời các câu hỏi nghiên cứu trên, xuất phát
từ khoảng trống trong nghiên cứu lý thuyết và nhu cầu thực tế, nên luận án
chọn đề tài: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thông tin
báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát của luận án là tập trung vào nghiên cứu các nhân tố
ảnh hưởng tới CLTT BCTC của DNNVV Việt Nam theo cách tiếp cận coi
trọng quá trình sản xuất thơng tin được đề xuất bởi McFie (2006), theo đó,
các nhân tố thuộc về nguồn nhân lực bên của DNNVV Việt Nam được xác
định là có ảnh hưởng mạnh tới CLTT BCTC được cung cấp bởi các DN này,
tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng như thế nào tới CLTT BCTC thơng qua các
thuộc tính chất lượng: Thích hợp; Trình bày trung thực; Dễ hiểu; Có thể so
sánh; Kịp thời cần được xem xét. Bên cạnh đó, các thuộc tính CLTT BCTC
của các DNNVV Việt Nam đang được người sử dụng thông tin BCTC của
các DN này đánh giá ở mức độ nào cần nghiên cứu bổ sung, qua đó luận án
đưa ra những kiến nghị về các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng tới
từng thuộc tính CLTT nhằm nâng cao CLTT BCTC để đáp ứng tốt nhất nhu
cầu thông tin ngày càng cao của người sử dụng thông tin trong các DNNVV
Việt Nam. Cụ thể, luận án thực hiện nhằm đạt đến ba mục tiêu:

7

Thứ nhất: Xác định cách thức đo lường chất lượng thông tin báo cáo tài
chính thơng qua các thuộc tính CLTT BCTC phù hợp với các DNNVV Việt
Nam.

Thứ hai: Xem xét ảnh hưởng của các nhân tố đến từng thuộc tính chất
lượng thơng tin báo cáo tài chính trong các DNNVV Việt Nam.

Thứ ba: Đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố ảnh hưởng đến từng
thuộc tính chất lượng thơng tin báo cáo tài chính trong các DNNVV Việt
Nam để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm cải thiện CLTT BCTC theo từng
thuộc tính CLTT.

3. Câu hỏi nghiên cứu

Từ những vấn đề được trình bày trên, để đạt được mục tiêu nghiên cứu
như đã giới thiệu, luận án đặt ra ba câu hỏi nghiên cứu như sau:
Câu hỏi 1: Các thuộc tính chất lượng thơng tin báo cáo tài chính của
các DNNVV Việt Nam đang được đánh giá như thế nào?
Câu hỏi 2: Các nhân tố thuộc về nguồn nhân lực (Vai trò của nhà quản
trị; Năng lực của kế toán) ảnh hưởng như thế nào đến từng thuộc tính chất
lượng thơng tin báo cáo tài chính của các DNNVV Việt Nam?
Câu hỏi 3: Định hướng cải thiện CLTT BCTC của các DNNVV Việt
Nam như thế nào?
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong luận án là chất lượng thơng tin báo cáo tài
chính và ảnh hưởng của các nhân tố tới CLTT BCTC của các DNNVV Việt
Nam.
Phạm vi nghiên cứu

8

+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện tại các DNNVV
Việt Nam theo tiêu chí quy mơ được xác định theo quy định của Việt Nam –
Luật doanh nghiệp nhỏ và vừa (2017) và Nghị định số 80/2021/NĐ-CP).
Luận án không đề cập tới các DN siêu nhỏ, các DNNVV có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngồi (FDI), DNNVV có trách nhiệm giải trình cơng khai và phát
hành BCTC theo mục đích chung cho đối tượng bên ngoài DN (IASB, 2009)
tập trung tại 3 thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đại
diện cho ba trung tâm kinh tế của Việt Nam nơi tập trung số lượng DNNVV
lớn chiếm 76,7% tổng số DNNVV cả nước (VCCI, 2021).

+ Phạm vi thời gian: Luận án sử dụng danh sách DNNVV được cung
cấp bởi Sở kế hoạch đầu tư của các thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố

Hồ Chí Minh có dữ liệu tại thời điểm 31/12/2021 với tình trạng đang hoạt
động.

Thời gian tiến hành khảo sát chính thức từ tháng 3/2022 đến hết tháng
5/2022.

+ Phạm vi nội dung: Có nhiều nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng
thơng tin báo cáo tài chính của các DNNVV, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp, nhóm các nhân tố được tiếp cận theo Nhóm nhân tố bên trong và Nhóm
nhân tố bên ngồi doanh nghiệp. Trong phạm vi nghiên cứu của Luận án theo
cách tiếp cận coi trọng quy trình sản xuất thơng tin của McFie (2006), luận án
chọn tiếp cận theo nhóm nhân tố nguồn nhân lực bên trong của DNNVV ảnh
hưởng trực tiếp tới CLTT BCTC của các đối tượng này. Từ tổng quan nghiên
cứu và nền tảng lý thuyết kết thừa từ các nghiên cứu trong và ngoài nước, hai
nhân tố được chỉ ra hội tụ trong hầu hết các nghiên cứu mà tác giả luận án
tiếp cận được là: Vai trò của nhà quản trị và Năng lực của kế toán ảnh hưởng
tới CLTT BCTC thơng qua các thuộc tính CLTT trong các DNNVV Việt
Nam. Đây là hai nhân tố ảnh hưởng có tính quyết định tới việc lập, trình bày
và cơng bố thơng tin BCTC của DN, là các tác nhân đầu tiên theo cách tiếp

9

cận về chuỗi cung ứng BCTC của DN, do đó, việc xem xét các nhân tố này
ảnh hưởng như thế nào tới từng thuộc tính CLTT BCTC của các DNNVV
Việt Nam mang tính quan trọng. Kế thừa thang đo của Ferdy van Beest và
cộng sự (2009) và chỉnh sửa cho phù hợp với nội dung nghiên cứu trong bối
cảnh DNNVV Việt Nam, CLTT BCTC lựa chọn nghiên cứu theo quan điểm
hội tụ của FASB và IASB (2008), các thuộc tính đưa vào nghiên cứu trong
mơ hình nghiên cứu gồm các thuộc tính cơ bản là Thích hợp, Trình bày trung
thực và các thuộc tính bổ sung Có thể so sánh, Dễ hiểu và Kịp thời.


5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu của luận án là phương pháp hỗn hợp gắn kết
và giải thích, bao gồm phương pháp định tính và định lượng.

Phương pháp định tính: Được thực hiện bằng phương pháp thảo luận
với chuyên gia là các giảng viên, cán bộ thuộc vụ chế độ kế toán – kiểm toán,
Kế toán viên, Kế toán trưởng, Phụ trách kế tốn, Tổng giám đốc/Giám đốc…
có trình độ chun mơn từ cử nhân trở lên và thời gian làm việc từ 3 năm trở
lên. Mục đích của nghiên cứu định tính là để khẳng định nhân tố đưa vào mơ
hình nghiên cứu là phù hợp với bối cảnh nghiên cứu, lựa chọn các thuộc tính
đo lường CLTT BCTC cho nghiên cứu, hiệu chỉnh và bổ sung các thang đo
đo lường CLTT BCTC, các nhân tố ảnh hưởng tới CLTT BCTC của các
DNNVV Việt Nam.

Phương pháp định lượng: Nghiên cứu định lượng được sử dụng để
đánh giá các thuộc tính CLTT BCTC của các DNNVV Việt Nam, đo lường
mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến từng thuộc tính CLTT BCTC. Cỡ mẫu
để nghiên cứu dựa trên chọn mẫu thuận tiện, nghiên cứu tiến hành khảo sát
các đối tượng bên trong DN có ảnh hưởng tới q trình lập, trình bày và cơng
bố thơng tin BCTC (nhà quản trị- Giám đốc, Tổng giám đốc, chủ tịch
HĐQT). Tác giả sử dụng kỹ thuật xử lý và phân tích dữ liệu bằng phần mềm
SPSS 20.0 và AMOS tiến hành kiểm định thông qua các bước: Đánh giá độ

10

tin cậy các thang đo bằng kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố
khám phá EFA bằng kiểm định KMO, Phân tích nhân tố khẳng định (CFA) và
phân tích mơ hình cấu trúc tuyến tính (SEM).


6. Những đóng góp mới của luận án

Xem xét và đối chiếu với các nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà
khoa học trước đây, luận án đã đóng góp mới những vấn đề sau:

- Tác giả đã hệ thống hóa lý thuyết CLTT BCTC, phương pháp đo
lường CLTT BCTC và các nhân tố ảnh hưởng tới CLTT BCTC trong các DN
nói chung, DNNVV nói riêng từ những nghiên cứu trước đây trên thế giới và
Việt Nam. Nội dung này bao gồm việc hệ thống hóa nền tảng lý thuyết CLTT
BCTC, đặc điểm của DNNVV và ảnh hưởng của các nhân tố cũng như đặc
điểm của DNNVV tới CLTT BCTC. Việc tổng hợp này giúp các nhà nghiên
cứu tiếp theo tiếp cận lý thuyết CLTT BCTC và các nhân tố ảnh hưởng tới
CLTT BCTC của các DNNVV một cách có hệ thống và dễ dàng hơn.

- Nghiên cứu này dựa trên Lý thuyết ủy nhiệm và Lý thuyết thơng tin
hữu ích để biện giải mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng tới các thuộc
tính CLTT BCTC của các DNNVV Việt Nam. Do hạn chế về nguồn lực và
ảnh hưởng bởi các đặc điểm đặc thù (sự chia tách giữa quyền quản lý và
quyền kiểm soát, hạn chế về nguồn lực…) nên việc đáp ứng thông tin hữu ích
cho việc ra quyết định trong q trình sử dụng thơng tin báo cáo tài chính cịn
nhiều bất cập. Theo quan điểm coi trọng quy trình tạo lập thông tin đáp ứng
yêu cầu người sử dụng, các nhân tố thuộc về nguồn nhân lực (Vai trò của nhà
quản trị và Năng lực của kế toán) của DNNVV là những nhân tố được xem là
có ảnh hưởng mạnh tới CLTT BCTC được cung cấp bởi các DN này. Theo
đó, Lý thuyết ủy nhiệm, Lý thuyết thơng tin hữu ích sử dụng trong nghiên cứu
là cơ sở nền tảng biện giải mối quan hệ ủy nhiệm gây ra bất cân xứng thơng
tin, kém hữu ích cho việc ra quyết định của người sử dụng thông tin BCTC
của DNNVV Việt Nam


11

- Về phương diện phương pháp nghiên cứu, nghiên cứu đã tiến hành
xây dựng, hiệu chỉnh, bổ sung thang đo đo lường các nhân tố ảnh hưởng tới
từng thuộc tính chất lượng thơng tin báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ
và vừa Việt Nam. Khơng chỉ dừng lại ở phân tích nhân tố khám phá như các
nghiên cứu tiền nhiệm, nghiên cứu đã phân tích nhân tố khẳng định, phân tích
mơ hình cấu trúc tuyến tính để chỉ rõ tính ảnh hưởng của nhân tố Vai trò của
nhà quản trị, Năng lực của kế toán của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt
Nam ảnh hưởng tới từng thuộc tính chất lượng thơng tin báo cáo tài chính
gồm: Thích hợp, Trình bày trung thực, Có thể so sánh, Dễ hiểu và Kịp thời.

- Kết quả nghiên cứu cho thấy các thuộc tính CLTT BCTC của các
DNNVV Việt Nam gồm: Thích hợp, Trình bày trung thực, Dễ hiểu, Có thể so
sánh, Kịp thời đều được đánh giá ở mức độ trung bình, thuộc tính Trình bày
trung thực được đánh giá thấp hơn các thuộc tính khác. Biến độc lập Năng lực
của kế toán ảnh hưởng tới tất cả các thuộc tính CLTT BCTC của các DNNVV
Việt Nam theo thứ tự như sau: Thích hợp (0,649), Trình bày trung thực
(0,623), Có thể so sánh (0,459), Dễ hiểu (0,376), Kịp thời (0,287). Biến độc
lập Vai trò của nhà quản trị ảnh hưởng tới các thuộc tính CLTT BCTC lần
lượt là: Kịp thời (0,211), Trình bày trung thực (0,170), Thích hợp (0,113) và
không tương đồng với kết quả các nghiên cứu tiền nhiệm dựa trên giá trị trung
bình của CLTT BCTC, kết quả của nghiên cứu này nhận thấy Vai trị của nhà
quản trị khơng ảnh hưởng tới thuộc tính Dễ hiểu và Có thể so sánh

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án khuyến nghị và đề xuất các
giải pháp nhằm cải CLTT BCTC trong các DNNVV Việt Nam. Đối với các
DNNVV Việt Nam với nguồn lực hạn chế, cân nhắc giữa áp lực lợi ích - chi
phí trong quá trình cung cấp thơng tin BCTC, các DNNVV Việt Nam có thể
đánh giá, nhìn nhận tính ảnh hưởng của các nhân tố tới từng thuộc tính CLTT

BCTC một cách chi tiết để tập trung vào các thuộc tính cịn hạn chế, phát huy
những thuộc tính đã được đánh giá phù hợp nhằm gia tăng CLTT BCTC đáp

12

ứng nhu cầu của người sử dụng thông tin BCTC, đáp ứng yêu cầu hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng, khuyến nghị về lập, trình bày và cơng bố thơng
tin báo cáo tài chính; khuyến nghị tăng cường vai trò của nhà quản trị; khuyến
nghị cải thiện năng lực của kế toán; khuyến nghị với các cơ quan giám sát…

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án bao gồm 5 chương cụ thể:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mơ hình nghiên cứu
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Thảo luận kết quả nghiên cứu và khuyến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

13

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1 Tổng quan các phương pháp tiếp cận và đo lường chất lượng
thông tin báo cáo tài chính

Dựa theo khuôn mẫu của CMKT quốc tế (IAS 01), CLTT BCTC là
“cung cấp thơng tin tài chính hữu ích về DN cho các đầu tư hiện tại, tiềm
năng và người cho vay, chủ nợ khác trong việc đưa ra quyết định”. Đối với

người sử dụng, CLTT BCTC được định nghĩa là sự phù hợp để sử dụng bao
gồm: Chính xác, Đầy đủ, Phù hợp, Kịp thời và Nhất quán (Baltzan, 2012).
IASB (2008) cho rằng, CLTT BCTC được hiểu như là những thuộc tính làm
cho những thơng tin trình bày trên các BCTC trở nên hữu ích đối với những
người sử dụng thơng tin bao gồm: Có thể hiểu được, Thích hợp, Đáng tin cậy,
Có thể so sánh. Dù mỗi quan điểm và định nghĩa về chất lượng thơng tin tuy
có khác nhau nhưng nhìn chung đều có sự thống nhất trong cách nhìn nhận
CLTT BCTC phải đảm bảo được các đặc trưng cơ bản của thông tin và phụ
thuộc vào yếu tố cảm nhận, đánh giá của người có nhu cầu sử dụng.

Trong bất kỳ một nghiên cứu nào có liên quan đến chất lượng BCTC,
mặc dù chất lượng BCTC đóng vai trị là nhân tố ảnh hưởng hay nhân tố bị
ảnh hưởng thì việc đo lường chất lượng BCTC là rất quan trọng, vì nó quyết
định đến hiệu quả một cuộc nghiên cứu (Nguyễn Thị Phương Hồng, 2016).
Geert Braam và Ferdy van Beest (2013) cho rằng, vấn đề chính yếu trong
nghiên cứu về CLTT BCTC là tìm hiểu phương thức xác định, đánh giá
CLTT BCTC. Tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu, đặc điểm mà nhà nghiên
cứu sử dụng các cách thức khác nhau để đánh giá CLTT BCTC (Andra
Gajevszky, 2015). Do đó, để đánh giá CLTT BCTC các nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước hầu như đều tập trung đánh giá theo giá trị thông tin trên
BCTC các DN mang lại. Tuy nhiên, CLTT BCTC khó có thể quan sát trực
tiếp được, xuất phát từ đặc điểm này, trong các nghiên cứu trước đây cũng đã
sử dụng nhiều phương pháp đo lường khác nhau như: Đo lường theo chất

14

lượng lợi nhuận; Đo lường dựa trên tính thích hợp của thơng tin; Đo lường
theo một số thuộc tính cụ thể của CLTT BCTC và Đo lường dựa trên đầy đủ
các thuộc tính CLTT và có thể được tổng quan theo bảng 1.1 sau:


15

Bảng 1.1. Tổng hợp các phương pháp đo lường CLTT BCTC

Đo lường theo chất lượng Đo lường dựa trên tính Đo lường theo một

lợi nhuận (Accrual thích hợp của thơng tin tính/ yếu tố cụ thể củ

models) (Value relevance models) BCTC (Specific i

proxies for FRQ)

Mô tả • Sử dụng chất lượng thu • Kiểm tra mối quan hệ giữa • Xem xét các yếu

nhập như một đại diện để số liệu thu nhập (biến kế cạnh cụ thể trong B

đánh giá chất lượng BCTC toán) trên BCTC và giá cổ dụ: giá trị hợp lý, ch

• Các mơ hình được sử phiếu. của kiểm soát nội bộ

dụng rộng rãi là; Jones • Mơ hình thường được sử của kiểm tốn viên

(1991), Kasznik (1999) và dụng là Ohlson (1995). đọc của thông tin, v

Dechow và Dichev (2002). các thuộc tính ch

riêng lẻ (ví dụ: tính

tính phù hợp, tính


làm đại diện cho việc

chất lượng.

• Khơng có sẵn mơ h

chấp nhận phổ biến.

Ưu • Tương đối dễ dàng trong • Tập trung vào nội hàm dữ • Kiểm tra chi tiết
điểm
việc thu thập và đo lường liệu kế toán và phản ứng cạnh cụ thể của CLTT

dữ liệu. của thị trường chứng • Xem xét khía cạn

• Giúp phân tích hiệu quả khoán. chính của CLTT.

hoạt động của cơng ty • Cung cấp các đánh giá sâu

bằng cách xem xét ảnh sắc về giá trị kinh tế của dữ

hưởng của các đặc điểm liệu thu nhập để đo lường

của công ty đến chất lượng CLTT BCTC.

lợi nhuận.

16

Nhược • Đo lường CLTT BCTC • Đo lường CLTT BCTC • Đo lường CLTT B
điểm

dựa trên số liệu cụ thể. dựa trên số liệu cụ thể. trên số liệu cụ thể.

• Đo lường dựa trên giả • Khả năng áp dụng bị hạn • Tập trung một

định rằng lợi nhuận của chế trong trường hợp không không cung cấp một

DN là khoản mục quan có thị trường vốn phát triển. tổng thể đầy đủ v

trọng nhất trong BCTC. • Chỉ xem xét các thơng tin BCTC

• Các vấn đề về phân biệt được công bố trong báo cáo • Chỉ xem xét một ho

giữa các khoản lợi nhuận tài chính để đánh giá CLTT thuộc tính CLTT.

tích lũy và khơng tích lũy. BCTC. • Khơng tập trung

• Các cơng cụ phát hiện • Không quan tâm đến cảm giá của người dùng

quản trị lợi nhuận cho thấy nhận của người dùng.

tầm quan trọng của chất • Đo lường dựa trên giả

lượng lợi nhuận hơn là định rằng thơng tin kế tốn

CLTT BCTC tương ứng trực tiếp với giá

• Chỉ tập trung vào khía trị thị trường.

cạnh tài chính của chất • Đo lường CLTT BCTC


lượng BCTC một cách gián tiếp

• Chỉ xem xét các thông tin

được công bố trong BCTC

• Bỏ qua đánh giá của
người dùng

17

• Đo lường CLTT BCTC

Công một cách gián tiếp
Gul và cộng sự (2003); Aboody và cộng sự (2002); Giá trị hợp lý -

bố bởi Dowdell và Krishnan Barth và cộng sự (2001); Nelson, và Sha

các (2004); Aboody, Hughes Burgstahler và Dichev (2011); báo cáo của k

nhà và Liu (2005); Francis và (1997); Yasas và Perera viên – Grey và

nghiên cộng sự (2005); Biddle và (2019) (2011); khả năng dễ

cứu cộng sự (2009); Beneish thông tin - Biddle và

(2001); Gregoriou và cộng (2009); Các thuộc tí

sự (2019); Rampershad và riêng lẻ - Armstrong


Villiers (2019); Nguyễn sự (2010); Daske và

Thị Thanh Phương và (2006); Jonas và

Đặng Ngọc Hùng (2020) (2000); Kythreotis

Parry và Groves

Schipper và Vincent (

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)

18

1.1.1 Đo lường theo chất lượng lợi nhuận

Quản trị lợi nhuận là “sự can thiệp có mục đích vào quy trình BCTC
với mục đích đạt được một số lợi ích cá nhân” (Schipper, 1989). Các mơ hình
dồn tích sử dụng các cấp độ quản trị lợi nhuận hoặc chất lượng lợi nhuận làm
đại diện cho CLTT BCTC. Một mơ hình được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng
là mơ hình Jones (1991) như Gul và cộng sự (2003), Dowdell và Krishnan
(2004), Beneish (2001)…sử dụng mơ hình này xem CLTT BCTC là thước đo
nghịch đảo của chất lượng lợi nhuận. Mơ hình chất lượng dồn tích của
Dechow và Dichev (2002) được sử dụng bởi Aboody và cộng sự (2005),
Biddle và cộng sự (2009), Francis và cộng sự (2005), Nguyễn Thị Thanh
Phương và Đặng Ngọc Hùng (2020)…đo lường mức độ hiệu quả của các
khoản dồn tích phản ánh lên dòng tiền (Tasios và Bekiaris, 2012). Biddle và
cộng sự (2009) sử dụng mơ hình Dechow và Dichev (2002) làm đại diện cho
CLTT BCTC trong việc đánh giá hiệu quả đầu tư. Các mơ hình đánh giá
CLTT BCTC thơng qua chất lượng lợi nhuận dựa trên giả định rằng chất

lượng lợi nhuận của DN được cho là mục quan trọng nhất trong BCTC là
điểm cốt lõi của BCTC. Hành vi quản trị lợi nhuận được cho là có tác động
tiêu cực đến CLTT BCTC bằng cách giảm tính hữu ích của thông tin BCTC
(Van Tendeloo và Vanstraelen, 2005). Ưu điểm của việc sử dụng thước đo lợi
nhuận là có cơ hội quan sát kết quả của các đặc điểm công ty về mức độ quản
trị lợi nhuận và tương đối dễ dàng trong việc thu thập dữ liệu và đo lường
(Dechow và cộng sự., 1995). Do đó, Mbobo và Ekpo (2016) lập luận rằng hầu
hết các nhà phân tích có xu hướng sử dụng phương pháp này khi phân tích
hoạt động của một DN. Tuy nhiên, mơ hình này chỉ cung cấp thước đo gián
tiếp cho CLTT BCTC và phương pháp đo lường này là khó phân biệt lợi
nhuận mà ban điều hành có thể chi phối và lợi nhuận khơng thể chi phối
(Healy vàWahlen, 1999). Ngoài ra, các phương pháp đo lường dựa trên lợi
nhuận nhấn mạnh tầm quan trọng của chất lượng lợi nhuận hơn là CLTT

19

BCTC và không tập trung vào thông tin phi tài chính trong q trình ra quyết
định.

1.1.2 Đo lường dựa trên tính thích hợp của thông tin

Các mơ hình liên quan đến tính thích hợp của thơng tin thường kiểm tra
dựa trên mối quan hệ giữa giá cổ phiếu và dữ liệu thu nhập được báo cáo trên
BCTC. Điều này nhằm đánh giá liệu các số liệu được trình bày trên BCTC có
hiện thị được các thơng tin nhà đầu tư sử dụng để đánh giá vốn chủ sở hữu
của DN hay không (Barth và cộng sự., 2001) và quan sát mối liên hệ giữa giá
cổ phiếu và các biến số kế tốn (Beaver, 2002). Các mơ hình được sử dụng
thường xuyên nhất trong nghiên cứu về tính thích hợp của thơng tin là các mơ
hình Ohlson (1995, 1999) được sử dụng trong hàng trăm bài báo thuộc các
lĩnh vực khác nhau. Một số sử dụng mô hình Ohlson để đánh giá CLTT

BCTC như Aboody và cộng sự (2002), Burgstahler và Dichev (1997), Yasas
và Perera (2019)…Trong cách tiếp cận dựa trên tính phù hợp của thơng tin,
giá cổ phiếu được coi là giá trị thị trường của DN, trong khi thơng tin kế tốn
trên BCTC đại diện cho giá trị DN được lập trên dữ liệu kế tốn. Do đó, các
mơ hình như vậy đo lường CLTT BCTC bằng cách tập trung vào mối liên hệ
giữa số liệu kế toán và phản ứng của thị trường chứng khốn. Tuy nhiên trong
trường hợp khơng có thị trường vốn phát triển và hiệu quả, những thay đổi
trong thông tin kế tốn sẽ khơng hồn tồn tương ứng với những thay đổi
trong giá trị thị trường của DN. Ngoài ra, mơ hình này tập trung vào quan
điểm của nhà đầu tư. Mặc dù mơ hình này cung cấp cái nhìn sâu sắc về giá trị
kinh tế của các số liệu về thu nhập, Mbobo và Ekpo (2016) lập luận rằng nó
khơng giúp phân biệt mức độ Thích hợp và Trình bày trung thực của thơng tin
BCTC và nó chỉ cung cấp một thước đo gián tiếp về CLTT BCTC.

Ferdy van Beest và cộng sự (2009) cho rằng, các biến sử dụng theo
phương pháp này chỉ đo lường các thông định lượng được cung cấp trên
BCTC, và cũng lưu ý rằng CLTT BCTC là một khái niệm rộng hơn và không

20


×