Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Ppnc Văn Học Việt Nam Hiện Đại (1).Docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.99 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN”
----------

BÀI NGHIÊN
CỨU

CHỦ ĐỀ 6: VẤN
ĐỀ NGHIÊN CỨU
VĂN HỌC VIỆT

NAM HIỆN ĐẠI

Đề tài: Cái bi trong truyện ngắn “Một bữa no” của nhà văn
Nam Cao

Tên học phần: Phương pháp nghiên cứu khoa học và khoa học giáo dục
chuyên ngành văn học, ngôn ngữ

Mã học phần: NV306.1
Họ và tên thành viên nhóm 4:

1. Dương Thị Hồng Hạnh
2. Ngô Thu Phương
3. Lê Thị Tố Uyên
4. Phạm Thị Hải Yến
5. Bùi Như Quỳnh
6. Bùi Nguyên Vũ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN”



---------- BÀI NGHIÊN
NAM HIỆN ĐẠI CỨU

CHỦ ĐỀ 6: VẤN
ĐỀ NGHIÊN CỨU
VĂN HỌC VIỆT

Đề tài: Cái bi trong truyện ngắn “Một bữa no” của nhà văn
Nam Cao

Tên học phần: Phương pháp nghiên cứu khoa học và khoa học giáo dục
chuyên ngành văn học, ngôn ngữ

Mã học phần: NV306.1
Họ và tên thành viên nhóm 4:

1. Dương Thị Hồng Hạnh
2. Ngô Thu Phương
3. Lê Thị Tố Uyên
4. Phạm Thị Hải Yến
5. Bùi Như Quỳnh
6. Bùi Nguyên Vũ

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………………… 1


2. Lịch sử nghiên cứu…………………………………………………………… 2

3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………. 2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………………… 3

5. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………………3

6. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………... 4

7. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………... 4

8. Đóng góp của đề tài…………………………………………………………...4

NỘI DUNG 4

Chương 1: Khái quát chung…………………………………………………….. 4

1.1 Giới thiệu về cái bi kịch………………………………………………… 4

1.2 Tác giả Nam Cao………………………………………………………...5

1.3 Tác phẩm………………………………………………………………... 7

Chương 2: Bi kịch của bà lão trong tác phẩm Một bữa no của Nam Cao……….9

2.1 Bi kịch hồn cảnh gia đình của bà lão…………………………………...9

2.2 Bi kịch về một xã hội bất nhân…………………………………………10


2.3 Bi kịch về cái chết của bà lão………………………………………….. 14

KẾT LUẬN 19

TÀI LIỆU THAM KHẢO 20

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Trong trào lưu văn học hiện thực phê phán, chủ nghĩa nhân đạo vừa là thái độ
đồng cảm, xót thương, trân trọng đối với những kiếp người bé nhỏ bị áp bức, bóc
lột, vừa là tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, bạo tàn đang đè nén, áp
bức con người. Đối với các nhà văn hiện thực, việc nhìn thấu những khổ đau mà
người dân phải gánh chịu thực ra khơng q khó khăn, bởi rất nhiều người trong số
họ hoặc xuất thân từ tầng lớp nhân dân lao động, hoặc đã từng trải qua cảnh sống
“chạy từng bữa”. Điều đó giải thích vì sao ngịi bút của họ lại hướng hẳn về phía
nhân dân với sự đồng cảm sâu sắc đến vậy.

Trong bối cảnh xã hội thời bấy giờ Nam Cao với vai trò là một nhà văn hiện
thực, nhà nhân đạo chủ nghĩa xuất sắc của văn học Việt Nam đã viết ra rất nhiều
chuyện ngắn về đề tài này nhằm lột tả chân thật cuộc sống ngột ngạt đen tối của xã
hội phong kiến xưa và những con người nông dân cơ hàn, rẻ mạt. Một trong số
nhiều tác phẩm phản ánh được khốn khổ bần cùng hoá của người nông dân Việt
Nam giai đoạn 1930-1945 là chuyện ngắn “Một bữa no”. Truyện đã cho người đọc
thấy được biết bao dư vị tình cảm, cảm xúc khó nói thành lời. Là cái gì đó xót xa
cho số phận đáng thương của người nông dân trong xã hội phong kiến xưa, là cái
gì đó tức giận bởi sự bất cơng của những con người có địa vị, đã đẩy những người

dân lương thiện vào con đường bị tha hóa, biến chất.

Do đó việc lựa chọn khai thác cái bi trong truyện ngắn “Một bữa no” không
chỉ là để thể hiện sự cảm thông với số phận của người nông dân trước cách mạng
tháng Tám mà còn là mong muốn giúp cho người đọc hiểu rõ hơn về nhân vật và
câu chuyện trong tác phẩm. Cái bi được thể hiện qua nhân vật, hoàn cảnh sống và
bối cảnh thời đại trong truyện. Nó đại diện cho những tầng lớp thấp kém trong xã
hội xưa và phản ánh lên nỗi khổ cùng cực của người nông dân lúc bấy giờ.

Với đề tài này, chúng tơi khơng có tham vọng tìm tịi, phát hiện ra những
điều mới mẻ mà chỉ muốn tìm hiểu và làm sáng rõ hơn về cái bi trong truyện ngắn
“Một bữa no” của Nam Cao.

2. Lịch sử nghiên cứu

Nam Cao là một nhà văn lớn, là một hiện tượng lớn trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Vì thế có rất nhiều nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của Nam Cao.
Trong điều kiện hạn chế của cá nhân, chúng tôi mới chỉ tiếp xúc được qua một số
cơng trình nghiên cứu về Nam Cao. Các nhà nghiên cứu đã tìm tịi và khám phá
sâu sắc về nhiều vấn đề trong sáng tác của Nam Cao. Tuy nhiên vấn đề về cái bi
trong truyện ngắn “Một bữa no” vẫn chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập sâu
sắc. Có chăng chỉ là mới nhắc đến như Trần Huyền với Cuộc sống của người nông
dân xưa qua truyện Một bữa no của nhà văn Nam Cao, Trần Ngọc Linh về Cái đói

1

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

- Đề tài ám ảnh trong tác phẩm “Một bữa no” (Nam Cao) và “Đói” (Thạch Lam)
(Đại học Sư phạm Hà Nội) viết “Cả cuộc đời bà lão chưa bao giờ là thôi suy nghĩ

về miếng ăn,…”, Nguyễn Mạnh Đăng về Cái đói và miếng ăn trong truyện ngắn
Nam Cao (Đăng trên Tao Đàn, 9/2019). Hay trong quyển Nam Cao, nhà văn hiện
thực xuất sắc, Hà Minh Đức viết: “Có những cuộc đời phải khéo dài nỗi chịu đựng
từ tấm bé đến đời chồng, đời con, đời cháu - mà nỗi khổ cực vẫn không chịu buông
tha như bà cái Tí (Một bữa no)”[44] {1}

Tiếp thu các thành tựu rất đáng trân trọng của các nhà nghiên cứu về Nam
Cao. Chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề: Cái bi trong truyện ngắn “ Một bữa no”
của nhà văn Nam Cao.

3. Mục đích nghiên cứu

Việc chọn đề tài cái bi trong tác phẩm “Một bữa no” có mục đích làm nổi
bật nên yếu tố nhân văn và bi kịch của người nông dân trước cách mạng tháng
Tám, cụ thể là nhân vật bà cụ.

Cái bi được chọn làm đề tài với mong muốn mang lại ý nghĩa sâu sắc và cho
thấy nó cũng là một phần trong cuộc sống. Nó có thể được hiểu như là biểu tượng
cho những khó khăn và khốn khổ mà người nơng dân phải đối mặt trong một xã
hội bất nhân. Không chỉ thế còn làm rõ hơn trong việc khám phá tâm lý của nhân
vật, khi sự đói khát và thiếu thốn đã tác động mạnh mẽ đến hành vi và quyết định
của họ.

Tóm lại, chúng tôi mong rằng sẽ khiến cho người đọc có thể thấy được
những bi kịch của con người và xã hội trong giai đoạn 1930-1945. Đồng thời tìm
hiểu sâu hơn về ý nghĩa và thông điệp được truyền tải qua cái bi trong tác phẩm
“Một bữa no”.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu


Việc lựa chọn nghiên cứu về “cái bi” trong chuyện ‘‘Một bữa no’’ của tác
giả Nam Cao, chúng tôi dự định sẽ làm rõ và sáng tỏ những điều mà tác giả ẩn ý
sau câu chuyện của bà cụ - nhân vật chính của câu chuyện. Giúp người đọc có thể
thấy được số phận đáng thương của người nông dân trong xã hội phong kiến xưa,
sự bất công của những con người có địa vị, đã đẩy những người dân lương thiện
vào con đường tha hóa, biến chất. Từ đó, người đọc có thể hiểu và đưa ra được
những quan điểm, nhận xét về một thời kỳ đen tối của đất nước ta.

5. Đối tượng nghiên cứu

Trong bài nghiên cứu khoa học này, chúng tơi sẽ đề cập, phân tích cuộc đời
và những diễn biến trong cuộc sống bà cụ - nhân vật chính của câu chuyện. Khi kết
thúc bài nghiên cứu về tác phẩm ‘‘Một bữa no’’, mong rằng người đọc sẽ nhìn
nhận ra được số phận của những con người khốn khổ ở xã hội xưa, họ bị cái xã hội
nửa thực dân nửa phong kiến ấy chèn ép, đè nén, ức hiếp đến cùng cực, họ chẳng

2

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

thể tìm ra cho mình được lối đi, lối thốt cho bản thân mình khi chưa có ánh sáng
của cách mạng. Và hơn nữa là nhìn ra được về ngịi bút của Nam cao, tuy lạnh lạnh
nhưng lại đầy tình thương.

6. Phạm vi nghiên cứu

Bài nghiên cứu này được thực hiện từ ngày 2-7/10/2023, tập trung nghiên
cứu và làm sáng tỏ những vấn đề trong tác phẩm ‘‘Một bữa no’’ của Nam Cao, nêu
rõ được “cái bi” trong cuộc đời bà cụ - nhân vật chính.


7. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được kết quả về bài nghiên cứu như mong muốn, chúng tơi đã tổ
chức họp nhóm nghiên cứu, phân tích, tóm tắt tác phẩm, cùng thảo luận và lắng
nghe, tiếp thu những bài phân tích, luận văn về tác phẩm ‘‘Một bữa no’’. Từ đó
thống nhất và đưa ra một sản phẩm hồn chỉnh

8. Đóng góp của đề tài

Sau khi công bố kết quả về vấn đề nghiên cứu “cái bi” trong tác phẩm
‘‘Một bữa no’’ của tác giả Nam Cao, chúng tôi mong muốn và hy vọng được nêu
quan điểm, cách nhìn nhận của mình về tác phẩm, đóng góp thêm cho sự vững
mạnh của văn đàn Việt Nam. Hơn hết, chúng tơi muốn mang tới một góc nhìn về
q khứ tới người đọc. Góc nhìn ấy miêu tả, bóc trần về những số phận khốn khổ,
cùng cực, gánh trên vai những vất vả, nhọc nhằn của cuộc đời, sự khốn nạn và bất
nhân của xã hội đương thời, đẩy con người ta tới vực thẳm, khiến những con người
vốn lương thiện bỗng trở nên tha hóa, rơi xuống vực thẳm ở nơi ‘‘Đói, khát, dốt’’.

NỘI DUNG

Chương 1: Khái quát chung
1.1 Giới thiệu về cái bi kịch

3

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

1.1.1 Khái niệm về cái bi kịch

“Bi” là có tính chất đau thương, gây thương cảm cho người khác.


“Kịch” thể loại sân khấu phản ánh xung đột trong đời sống xã hội bằng hành
động và đối thoại của nhân vật.

Bi kịch là cảnh éo le bi đát, tang thương. Vậy cái bi kịch là gắn liền với quan niệm
về một cuộc đấu tranh căng thẳng và đầy gian nguy về những mục đích chân chính
và dẫn tới kết quả là những con người tiến hành cuộc đấu tranh đó phải chết hoặc
thất bại.

1.1.2 Bản chất của cái bi kịch

Bi kịch là một hiện tượng quan trọng của xã hội nhưng nó phải thơng qua cá
nhân, thơng qua tính cách, số phận của những con người cụ thể. Như vậy nói đến
bi kịch là nói đến nhân vật bi kịch. Các đặc trưng, bản chất của cái bi kịch được thể
hiện ở mức độ cao qua các bi kịch lịch sử và ở mức độ thấp là các nhân vật đời
thường.

Bi kịch trong văn học Việt Nam thường nói về xung đột, hành động, nhân
vật, thanh lọc vậy bi kịch trong văn học Việt Nam là một thể loại nền độc lập tồn
tại.

Giống như các loại kịch khác, thể loại bi kịch cũng có những thi pháp đặc
trưng về nhân vật, ngôn ngữ, xung đột, hành động. Bên cạnh đó bi kịch cũng có
những nét riêng mang đậm dấu ấn của thể loại như sự nhận biết, sự trả giá, sự
thanh lọc và lỗi lầm bi kịch,... Chúng là các yếu tố cơ bản làm nên chỉnh thể cấu
trúc của một tác phẩm bi kịch. Nếu một vở kịch sử hữu tất cả những yếu tố đó thì
sẽ được gọi là một bi kịch đích thực. Ngược lại nếu chỉ đạt được một hoặc một số
ít các yếu tố trên thì khơng phải bi kịch theo khái niệm này. Lúc này ta gọi đó là
các vở kịch có yếu tố bi kịch.


1.2 Tác giả Nam Cao

1.2.1 Tiểu sử

Nhà văn Nam Cao tên thật là Nguyễn Hữu Tri sinh năm 1917, quê ở Lý
Nhân, Hà Nam. Ông là một nhà văn hiện thực phê phán (trước Cách mạng tháng
Tám) và được coi là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Ơng
cịn được coi là người có đóng góp quan trọng đối với việc hồn thiện phong cách
viết truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỉ XX. Ông được sinh ra
trong một gia đình nghèo, đơng con nhưng Nam Cao là người duy nhất được học
hành tử tế. Nam Cao làm rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau, dạy học ở một
trường tư thục, viết văn, dạy thuê,.. với vốn sống phong phú Nam Cao đã cho ra
đời rất nhiều tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay. Ơng bén duyên với sự nghiệp
viết văn khá sớm, năm 18 tuổi Nam Cao đã bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tay
như “Cảnh cuối cùng”, “Hai cái xác”. Các tác phẩm của ơng nhanh chóng được

4

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

in trên báo.{2}

1.2.2 Quan điểm nghệ thuật

Nam Cao là một trong số những nhà văn trước Cách mạng có ý thức tự giác
về sáng táo nghệ thuật. Những quan điểm đó ơng khơng phát biểu trực tiếp bằng lý
luận mà thường gửi gắm gián tiếp qua sáng tác, qua nhân vật.

Đối với Nam Cao – “nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ
những kiếp lầm than”. Quan điểm này đã trở thành phương châm cầm bút suốt đời

của nhà văn. Sự mở rộng quan điểm ấy đã cho thấy nghệ thuật không phải chỉ phản
ánh hiện thực lầm than; nghệ thuật cịn có nhiệm vụ làm cho người gần người hơn,
thể hiện niềm vui và tạo được niềm tin yêu cuộc sống cho con người. Nam Cao có
ý thức nghệ thuật của dịng văn hiện thực phê phán đã trở thành hoàn toàn tự giác.
Quan điểm nghệ thuật của ơng có tính hệ thống và nhất quán, thể hiện những suy
nghĩ sâu sắc về nguyên tắc và đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực. Nó trở thành cơ
sở vững chắc để khi cách mạng đến, Nam Cao mạnh dạn và tự tin đi theo kháng
chiến với tư cách là nhà văn cách mạng – nhà văn chiến sĩ.

1.2.3 Sự nghiệp sáng tác

Trước cách mạng tháng Tám, sáng tác của Nam Cao xoay quanh hai đề tài
chính: về xã hội nông thôn, người nông dân và về tầng lớp tiểu tư sản. Sau cách
mạng tháng Tám, Nam Cam tích cực tham gia vào các hoạt động kháng chiến cũng
vì thế mà cách khai thác cũng như xây dựng hình tượng nhân vật trong câu văn của
ơng có sự thay đổi rất nhiều, ơng đã có hướng đi mới cho các nhân vật của mình.

1.3 Tác phẩm

1.3.1 Hồn cảnh sáng tác

Tác phẩm “Một bữa no” được trích từ “Tuyển tập Nam Cao” của nhà xuất
bản thời đại, được sáng tác năm 1943. Nhớ lại thời điểm này, đây là thời điểm
trước cách mạng, đất nước gặp rất nhiều khó khăn, khơng ngừng chịu sự hồnh
hành của giặc ngoại xâm ta cịn phải chịu nạn giặc đói và giặc dốt.

1.3.2 Tóm tắt

Một bữa no kể về một bà lão chồng mất sớm, cả đời cặm cụi ni con.
Tưởng lớn lên nó sẽ là điểm tựa của bà thì nó lại bỏ bà ra đi. Vợ con trai bà sau khi

chịu tang chồng cũng bỏ bà cùng con gái đi tìm hạnh phúc mới. Hai bà cháu nuôi
con bảy năm trời, do quá khó khăn bà bán đứa cháu gái duy nhất cho nhà bà Phó
làm con ni. Nhưng sau khi bán cháu gái đi cuộc sống của bà không mấy dễ dàng
hơn. Có tất cả mười đồng bạc thì cải mả cho con trai hết tám đồng, còn hai đồng
dành dụm làm vốn. Ấy vậy mà ông trời cũng không thương bà, năm ngối ơng bắt
bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Giờ đây sức khỏe không cho phép bà đi làm việc
bế em bé. Nhưng theo lời bà kể có năm bà đổi năm sáu lần chứ, rồi mỗi lần đổi là

5

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

một lần xuống giá, có tháng bà phải ăn bánh đúc chay. Hôm ấy bà ra thăm cái đĩ,
nhưng bà lại bị bà phó thụ chà đạp lên lịng tự trọng của bà. Một bữa no nhất của
bà lại chính là bữa cơm cuối cùng của đời bà.{3}

1.3.3 Nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

Nội dung: Một bữa no là đề tài về người nông dân trong trào lưu văn học
hiện thực phê phán và chủ nghĩa nhân đạo. Đây vừa là thái độ đồng cảm, xót
thương, trân trọng đối với những kiếp người bé nhỏ bị áp bức, bóc lột, vừa là tiếng
nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, bạo tàn đang chèn ép, áp bức con người. đề
tài này thể hiện nỗi xót xa trước tình cảnh khốn cùng, túng quẫn của người nông
dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám

Nghệ thuật: nhà văn đã khắc hoạ thành công số phận người nông dân thấp cổ
bé họng. Xây dựng thành cơng hình tượng nhân vật, khắc họa tâm lý, nội tâm nhân
vật; xây dựng tình huống truyện độc đáo; ngơn ngữ truyện cô động, hàm súc.

Chương 2: Bi kịch của bà lão trong tác phẩm Một bữa no của Nam Cao


2.1 Bi kịch hồn cảnh gia đình của bà lão

Trong xã hội phong kiến trước năm 1945, những mảnh đời bất hạnh khiến
người ta thương xót vơ cùng. Nhà văn Nam Cao đã dùng ánh văn chương của mình

6

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

cùng với tấm lòng trắc ẩn để thể hiện thái độ trân trọng, sự xót thương với các số
phận đau khổ bị vùi dập.

Truyện ngắn “ Một bữa no” xoay quanh nhân vật người bà – người đàn bà
gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Mở đầu là sự than vãn, khóc lóc của bà lão
với người con trai đã mất.“Bà lão ấy hờ con suốt một đêm. Bao giờ cũng vậy cứ
hết đường đất làm ăn là bà lại hờ con”. Sự chán chường, đau khổ ấy chỉ có thể bộc
lộ vào hàng đêm tĩnh lặng với người cô đơn, lẻ loi như bà. Bà lão số khổ đã hi sinh
cả đời mình vì gia đình nhưng nhận lại tồn nỗi buồn. Khi con trai bà mới lọt lịng
thì chồng bà chết để mình bà thắt lưng buộc bụng ni con kìm nén nỗi đau ấy.
“Tầm tầm, tí tí giở đi” người phụ nữ ấy vẫn cố gắng chăm lo cho đứa con thơ của
mình từng tí một. Bà mang trong mình một hy vọng, niềm tin rằng đứa con ấy sau
này lớn lên, sẽ báo hiếu, để cho thân già yếu này có nơi nương tựa. Vì chồng mất
bà lão khơng cịn ai thân thiết chỉ có đứa con trai để sau này về già khơng cơ quạnh
một mình ấy là điều dễ hiểu. “Thế mà chưa cho mẹ nhờ được một li, nó đã lăn cổ
ra nó chết”. Vậy mà ông trời cướp đi người chồng, giờ đây lại cướp ln cả đứa
con trai của bà lão đó cũng chính là cướp đi niềm tin, hy vọng sống mong manh và
duy nhất của con người khổ sở đó. Ở cái thời điểm xã hội suy thối, đói nghèo niên
miên, con người ta cùng trở lên ích kỷ, tha hóa. Người con dâu thấy chồng chết mà
túng quẫn bỏ rơi đứa con nhỏ mới lên 5 tuổi và bà mẹ già để đi tìm nơi nương tựa

mới cho bản thân mình. Mọi gánh nặng đều trồng lên vai người phụ nữ già đã gần
70 tuổi. Cái tuổi gần đất xa trời, tuổi được con cháu phụng dưỡng chứ còn sức đâu
mà làm lụng. Thế mà giờ đây lại nuôi thêm đứa cháu gái rồi biết đến bao giờ được
nghỉ ngơi. “Hết xương, hết thịt vì con, vì cháu, mà nào được trơng mong gì?” một
câu văn đã đủ tả hết nỗi bi thương của con người số khổ đó. Cắn răng cắn lợi nuôi
cháu gái bảy năm đến khi nó mười hai tuổi bà cho đi ở mướn nhà bà Phó để bớt
phần cơ cực đổi được mười đồng. Vậy mà, cải mổ cho bố nó cũng mất đi hơn phân
nửa, cịn lại hai đồng làm vốn đi bn. Bà chạy vạy cực khổ lắm mời được ngày
mấy đồng đủ sống. Những người tính khơng bằng trời tính “Sung sướng gì đâu!
Ấy thế mà ơng trời ơng ấy cũng chưa chịu để n. Năm ngối đấy, ơng ấy cịn bắt
bà ốm một trận thập tử nhất sinh. Có đồng nào hết sạch”. Giờ đây sức khỏe bà
ngày một yếu đi, khơng cịn đủ sức để làm những việc nặng nhọc kiếm tiền ni
bản thân mình nữa. Cuộc đời người đàn bà ấy “Có con phải khổ vì con, Có chồng
phải ngậm bồ hòn đắng cay”.{4}

Hồn cảnh gia đình dù vất vả cùng cực nhưng vẫn làm tròn đạo làm vợ, làm
mẹ. Nhân vật bà lão giống như Chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố
với bao người phụ nữ trong thời kì xã hội bây giờ. Nhà văn Nam Cao đã đi sâu vào
khai thác đời sống nội tâm, tinh thần của nhân vật làm hiện lên rõ nét hoàn cảnh
sống cực khổ, khiến người đọc cảm nhận được bi kịch mà bà lão phải đổi mặt.
Hoàn cảnh gia đình bà lão cũng chính là hồn cảnh gia đình tiêu biểu những phần
đời bần cùng của người nơng dân trong xã hội Việt Nam trước năm 1945.{5}

2.2 Bi kịch về một xã hội bất nhân
7

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

Trong trào lưu văn học hiện thực phê phán, chủ nghĩa nhân đạo vừa là thái
độ đồng cảm, xót thương, trân trọng đối với những kiếp người bé nhỏ bị áp bức,

bóc lột, vừa là tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, bạo tàn đang đè nén,
áp bức con người. Đối với các nhà văn hiện thực, việc nhìn thấu những khổ đau mà
người dân phải gánh chịu thực ra khơng q khó khăn, bởi rất nhiều người trong số
họ hoặc xuất thân từ tầng lớp nhân dân lao động, hoặc đã từng trải qua cảnh sống
“chạy từng bữa”. Điều đó giải thích vì sao ngịi bút của họ hướng hẳn về phía
nhân dân với sự đồng cảm sâu sắc đến vậy.

Trước đây, có hai quan niệm phổ biến về nguồn gốc tính cách: nó được thừa
hưởng qua bố mẹ “cha mẹ sinh con, trời sinh tính” hoặc được hình thành từ nếp
sống, Nhưng Nam Cao đã đưa ra góc nhìn khác hẳn: tính cách cũng như hành vi
chịu ảnh hưởng từ chính xã hội mà nhân vật sinh sống. Chính xã hội bất nhân đó
đã làm con người ở đó buộc phải thay đổi, đánh mất chính mình. Bà lão cũng vậy,
sau tất cả - cùng cực, tìm đến nơi bán cháu để xin cơm.

Tại đây, chúng ta sẽ nhìn thấy một bà lão đáng ra ở tuổi đó phải được nghỉ
ngơi, nhưng bà lão vẫn “phải kiếm việc nhà, việc ở trong nhà. Ở làng này, chỉ có
việc bế em, như một con bé mười một, mười hai tuổi” .Một xã hội thối nát tới mức
những nhà giàu có thể mua bán con người (cái Đĩ), bỏ ra những ra mức giá rẻ rúng
để thuê người già và trẻ em về ở, đối xử với họ như vật ni trong nhà “Ai cũng
nghĩ rằng: những bà già tính cẩn thận và chẳng bao nhiêu, bữa lưng bữa vực thế
nào cũng đủ no; mà đã không no các cụ cũng chỉ lặng im, không ấm ức như những
đồ trẻ nhãi, hơi một tí cũng đem chuyện nhà chủ đi kể với đủ mọi người hàng
xóm... Nhưng thuê bà được ít lâu, tự nhiên người ta chán. Người ta nhận ra rằng:
th một đứa trẻ con lại có phần thích hơn. Trẻ con cạo trọc đầu. Những lúc tức
lên, có muốn cốc nó dăm ba cái thì cứ cốc. Chẳng ai kêu: ác! Nhưng bà lão đầu
đã bạc. Người ta tức bà đến gần sặc tiết ra đằng mũi cũng không thể giúi đầu bà
xuống mà cốc. Cũng không thể chửi. Mắng một câu, đã đủ mang tiếng là con
người tệ” nhưng bà lão đã già rồi “lẩm cẩm, chậm chạp, lì rì. Bà rờ như thể xẩm
rờ. Tay bà, đưa bát cơm lên miệng cũng run run. Cơm vương vãi. Tương mắm rớt
ra mâm, rớt xuống yếm bà, rớt cả vào đầu tóc, mặt mũi, quần áo đứa bé nằm ở

lịng bà. Rồi hơi trái gió, trở trời, bà lại đau mình. Suốt đêm bà thở dài với rên
rẩm kêu trời. Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người” nên chúng đã
“tìm cớ tống bà đi. Bà lại phải gạ gẫm ở cho nhà khác… Không đầy một năm trời
bà thay đổi đến năm, sáu chủ. Mỗi lần đổi chủ là một lần hạ giá. Thoạt tiên cơm
nuôi tháng một đồng. Rồi cơm nuôi tháng năm hào. Rồi cơm nuôi, một năm bốn
đồng. Rồi hai đồng. Rồi chẳng có đồng nào. Đến nước ấy mà cũng chẳng ma nào
chịu được. Một hôm, người chủ cuối cùng sai bà xách hai cái lọ đi kín nước. Bà
bảo: bà chỉ có thể mang một lọ. Y đã lấy sự ấy làm khó chịu, nhưng cố nhịn.
Nhưng một lọ cũng không xong. Bà xách một lọ nước đầy, ở dưới cầu ao bước lên
bờ, chẳng biết bẩy rẩy thế nào mà ngã khuỵu xuống, vỡ tan cái lọ và què một bên
tay. Nghe tiếng bà kêu, chủ nhà phải chạy ra đỡ bà về. Khơng có ai thừa cơm nuôi
báo cô bà. Y bèn đãi bà năm hào cho bà về hưu trí. Từ ngày ấy đến nay tính ra đã
hơn ba tháng rồi”.Hoặc chúng ta sẽ khơng khỏi xót thương cho bà cụ tội nghiệp,

8

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

co ro trước cổng nhà nuôi con cháu sau bao quãng nghỉ. Càng rợn người biết bao
nhiêu dưới cái giọng điệu lạnh người, những lời buộc tội với mục đích đuổi bà cụ
đi của bà phó Thụ “Thơi, bà ăn đi, đừng mời.” bà Phó Thụ như một hình tượng đại
diện cho lớp người thống trị trong xã hội xưa, nhà giàu nhưng ích kỉ, ln tìm cách
để bóc lột đến tận xương tủy những người làm trong nhà, khinh rẻ những người
nông dân nghèo khốn khổ, bàng quang trước nỗi đau của chính dân tộc mình. Rồi
cả con cháu gái, nó dường như chẳng thiết tha gì bà thì phải, nó nói nghe thật xót
lịng “Con biếu bà để bà ăn bánh đúc. Bà về đi!” Cái xã hội thối nát đó đã sinh ra
những lớp người thật vơ cảm, cháu gái của bà thấy xấu hổ vì bà mình đã đến xin
ăn, nó chỉ muốn đuổi bà về, lúc đó, đối với cháu gái, tình thân khơng thể mang lên
bàn cân với lòng tự trọng.


Bà vẫn ở lại để ăn một bữa cơm. Một bữa cơm dưới cái coi thường của cả
chủ lẫn tớ, cái xấu hổ của cháu gái bà : "Nó giận bà nó lắm. Nó đã bảo bà nó về đi
mà bà nó khơng chịu về… ". Ở bà lão, ta chợt thấy một cái gì đó rất đỗi ngây thơ,
một sự ngây thơ thái quá. Trong cơn đói khát hành hạ, bà khơng cịn giữ được nhân
phẩm, bà đã ăn một bữa ăn đầy tủi hờn, để rồi chết một cách nhục nhã. Ngòi bút
của Nam Cao vẫn như vậy. Vẫn rất lạnh lùng mà lại đầy tình thương. Ơng ln xây
dựng nhân vật của mình ở cái tận cùng của sự nghèo khổ. Họ là những con người
lương thiện, lam lũ nhưng bị cái xã hội thực dân nửa phong kiến đè nén, ức hiếp để
rồi đều đi đến một kết cục bi thảm: chết. Đây cũng là cái kết hạn chế trong tác
phẩm của ơng. Từ Lão Hạc, Chí Phèo đến ơng giáo Thứ,.. họ khơng chết về thể
xác thì cũng chết về tâm hồn. Truyện Nam Cao tuy lột tả được hiện thực xã hội lúc
bấy giờ nhưng chưa tìm được lối đi, lối thốt cho người nơng dân, trí thức nghèo
khốn khổ khi chưa cs ánh sáng của Cách mạng. Những trang truyện cuối cùng
khép lại, để trong lòng người đọc biết bao dư vị, cảm xúc. Là cái gì đó xót xa cho
số phận đáng thương của người nơng dân trong xã hội phong kiến xưa, là cái gì đó
tức giận bởi sự bất cơng của những con người có địa vị, đã đẩy những người dân
lương thiện vào còn đường tha hóa, biến chất. Khơng chỉ “Một bữa no” mà còn
biết bao câu chuyện khác của tác giả Nam Cao đều lay động lịng người đến vậy.
Khơng phải những cốt truyện với từ ngữ mỹ miều, mỗi câu chuyện ngắn của Nam
Cao đều dung dị từ tên nhân vật cho tới hình thức, nội dung câu chuyện, chính bởi
vậy, Nam Cao hướng người đọc đến sự cảm thông, đồng cảm hết sức chân thành
chứ khơng phải thứ tình cảm giả tạo, hào nhoáng. Câu chuyện kết thúc bằng cái lời
răn dạy của bà phó Thụ cho lũ người ở, ta chợt thấy chạnh lòng, chạnh lòng cho
những số phận người nơng dân ấy, chạnh lịng vì xã hội phong kiến quá tàn nhẫn
đối với con người. Bữa ăn đó, một bữa no cuối cùng. Và cái kết dành cho bà lão,
có thể là do một bữa no, cũng có thể là do đói khổ cả cuộc đời…

Câu chuyện là một vấn đề rất bình thường trong xã hội xưa. Dường như đọc
từng chữ, lật từng trang lòng người đọc như trải ra cùng với số phận của bà lão.
Đến người già đau yếu như bà mà khơng có một ai cưu mang giúp đỡ. Cũng đúng

thơi vì trong xã hội lúc đó, người ta cịn chưa lo xong nổi thân mình “Một người
đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác
đâu? Khi người ta khổ q thì người ta chẳng cịn nghĩ gì đến ai được nữa. Cái

9

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau ích kỷ che lấp mất…”
(Lão Hạc). Ai trong số chúng ta đều có quyền lựa chọn cuộc sống cho riêng mình,
khơng ai muốn nghèo khổ nhưng xã hội bấy giờ đã nhấn chìm mọi hy vọng của
con người.

Nhà văn Nam Cao viết lên nỗi lòng của người dân nghèo khổ cùng cực, ơng
tạo ra các nhân vật có số phận đau khổ để từ đó phản ánh hiện thực, khiến cho
người đọc đồng cảm cùng nhân vật, chua xót với nhân vật. Qua đó ơng phê phán
thói đời, phê phán cái xã hội bất bình đẳng thời đó, ơng phê phán xã hội phi nhân
tính đã tàn phá tâm hồn con người đồng thời thể hiện niềm khao khát một cuộc
sống có ích, thực sự có ý nghĩa. Đồng thời, ông cũng kết án xã hội tàn bạo đã hủy
diệt nhân tính của những người nơng dân hiền lành đồng thời khẳng định nhân
phẩm và bản chất lương thiện của họ.

2.3 Bi kịch về cái chết của bà lão

Cái đói và miếng ăn là một sự bi thảm, một nỗi ám ảnh đau đớn của nhân
dân ta suốt bao nhiêu thế kỷ. Trên đất nước ta thời bấy giờ, thiên nhiên và giặc giã
liên miên, chế độ phong kiến thì lạc hậu và trì trệ kéo dài, tiếp đó là ách thực dân
vơ cùng tàn bạo,... cái đói trở thành một tai họa triền miên, dai dẳng đã chi phối cả
đến những tập tục có tính tơn giáo của người Việt. Có cái đói thường xuyên đe dọa
đến cuộc sống cũng như tâm trí của người dân Việt Nam. Như ta có thể thấy hàng

năm cứ đến “Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt” thì người Viêt ta lại có tục cúng
cháo lá đa, một hình thức phát chuẩn cho những linh hồn bơ vơ, đói khát, cái tập
tục đã gợi cảm hứng đầy xót thương cho nhà thơ Nguyễn Du viết bài “Văn chiêu
hồn” nổi tiếng.

Xét một phương diện nào đó, có thể xem Nam Cao thuộc xu hướng văn
chương của những người đói trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám. Về phương diện cái đói có rất nhiều tác giả nói đến và cũng đều rất hay và ý
nghĩa, như ta có thể kể đến: Ngơ Tất Tố, Nguyễn Cơng Hoan, Vũ Trọng Phụng,
Ngun Hồng, Tơ Hồi,... Nhưng phải nói rằng, trong số những tên tuổi nói trên,
Nam Cao vẫn là cây bút viết về cái đói và miếng ăn nhiều hơn cả, và trong nhiều
tác phẩm của ông, tình huống truyện có ý nghĩa quyết định đã được tạo nên bởi
vấn đề miếng ăn. Miếng ăn là thử thách ghê gớm đã phân hóa tính cách theo hai
cực: hoặc là mất cả nhân cách, nhân tính như những nhân vật trong Một bữa no,
Trẻ con không được ăn thịt chó, Chí Phèo,... Cái đói và miếng ăn là cái gơng nặng
nề đã đè anh trí thức nghèo xuống sát mặt đất để biến tất cả những ước mơ, những
triết lý của anh ta trở thành vớ vẩn, giả dối, khơi hài,... Nó là thứ thần qi ác chi
phối toàn bộ thế giới nhân vật của cuốn tiểu thuyết Sống mịn, đẩy tất cả vào tình
trạng “sống mịn” bi thảm, khơng lối thốt. Nam Cao là một nhà văn khắc họa rất
sâu sắc cái đời thực về cái đói vào trong tác phẩm của mình, ơng có những phát
hiện chua chát về tâm lý con người khỏi bị cái đói giày vị. Trong Một bữa no bà
cái Tí than thở : “Chao ôi! Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết
bao!”. Câu nói thốt lên của bà lão cho ta thấy sự khốn khổ đến đau lòng, một chân

10

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

lý là hiển nhiên đối với người nghèo. Cũng trong truyện ngắn này nhà văn đã phát
hiện: “Những lúc đói, trí người ta sáng suốt”. Thật là tội nghiệp cái “sáng suốt”

của bà lão. Bà đã nghĩ ra cách kiếm cho mình “một bữa no” để rồi chính cái “sáng
suốt” đó của bà đã khiến bà phải đi đến cái chết.

Nhìn thẳng vào truyện ngắn “Một bữa no”, ta thấy rằng đề tài “cái đói”
được Nam Cao thể hiện, nhấn mạnh qua câu chuyện về miếng ăn. Cả cuộc đời bà
lão chưa bao giờ là thôi suy nghĩ về miếng ăn. Rồi khi khơng có cơm ăn nữa, bà
phải chuyển sang ăn bánh đúc, “mới đầu, còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một
tấm cũng khơng có nữa”. Khi khơng có khả năng tự mình mua, thì bà lại “ra chợ
xin người này một miếng, người kia một miếng”. Mà đâu có ai cho bà được mãi, và
thế rồi bà lại nghĩ ra một kế khác để kiếm miếng ăn là đi thăm đứa cháu của mình
nhưng thực chất là đến để xin một bữa cơm cứu đói ở nhà bà phó Thụ. Đến đây,
ngòi bút của Nam Cao lại một lần nữa phát huy đậm nét phong cách vốn có là lạnh
lùng đến tàn nhẫn để miêu tả tỉ mỉ quá trình ăn của bà lão ở nhà bà phó: “bà lão
vội vàng ăn ngay”, “tay bà lão lờ rờ, không biết lợi dụng lúc nào để gắp rau vào
bát mắm”, “Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt”… Bà lão ăn như
chưa từng được ăn, ăn với trong lịng thấp thỏm rằng nếu khơng kịp thì chắc người
khác sẽ ăn hết phần mất thôi. Mặc kệ mọi người đã đứng hết lên, bà vẫn cứ mải
miết với miếng ăn, để rồi khi đã hết sạch cơm thì cũng là lúc “bà bỗng nhận ra
rằng bà no q”, “mồ hơi bà tốt ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo”.
Và một điều bất ngờ đã xảy ra, những tưởng cái bụng no ấy sẽ giúp bà tạm qn
được cái đói nhưng khơng, bà đã chết vì nó. Thật nực cười khi một bà lão từng
nghĩ rằng sẽ chết vì cái đói thì nay lại phải chết vì một bữa ăn no. Ai mà có ngờ
rằng thay vì ăn để tiếp tục duy trì sự sống lay lắt thì giờ đây ăn lại là để chấm dứt
sự sống.

“Cái đói” ln đi kèm với “cái nhục”, chúng ln song hành với nhau
trong những sáng tác của ơng. Có ý kiến cho rằng “Nếu như tác phẩm của Ngô Tất
Tố là tiếng kêu đói , thì ở tác phẩm của Nam Cao lại là tiếng kêu cứu lấy nhân
cách, nhân phẩm, nhân tính của con người đang bị cái đói và miếng ăn làm cho
tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi”. Trong “Một bữa no” chính ra bà lão phải

chết vì cái đói nhưng khơng lý do dẫn đến cái chết của bà lại chính là một bữa no.
Người ta hay nói “Miếng ăn là miếng nhục” quả khơng sai. Dù bà lão biết khi đến
nhà bà phó Thụ sẽ khơng được chào đón thậm chí cịn bị dè bỉu, ghẻ lạnh nhưng vì
cái đói dày vị bà đã gạt đi hết những suy nghĩ đó để đến. Chính cái chi tiết đặc biệt
này đã cho ta thấy được “cái đói” trong bà bây giờ lớn hơn cả nhân cách, lòng tự
trọng. Chắc hẳn bà nghĩ ấm cái bụng cho qua bữa nay đã lòng tự trọng cũng khơng
no bụng được. “Cái đói” đã làm bà lão phải đố kị với chính người con đã khuất
của bà vì đã “cướp công bà để về với đất, yên thân mà mặc tất cả những gì cịn
lại”, để giờ đây bà phải cịm cõi một mình chống chọi lại với “cái đói”. Đó chưa
phải là nỗi hổ thẹn duy nhất của bà lão, “cái nhục” được thể hiện rõ nhất trong bữa
cơm cùng nhà bà Phó, trước một chuỗi những lời nói khinh ghét ra mặt như: “Bà
đừng theo đít nó thế. Bà cứ ngồi một chỗ rồi mà ăn cơm, Khiếp thật thôi!”, “Thôi,
bà ăn đi! Đừng mời!”,... kèm theo đó là thái độ chỉ muốn đuổi quách bà lão đi cho

11

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

rồi. Không chỉ thế, cả khi tất cả mọi người đều đã ăn xong, trên mâm chỉ cịn mỗi
mình bà lão vẫn tiếp tục trong ánh mắt theo dõi bên cạnh của bà phó Thụ thì bà
vẫn ăn ngon lành.

Cái chết của bà lão trong tác phẩm nguyên nhân trực tiếp là do bội thực,
nhưng sâu xa có phải chỉ đơn giản như thế hay không? Dù đã được ăn no nhưng
cái chết ấy của nhân vật vẫn là do “cái đói”. Bởi vì đói nên bà mới thèm thuồng
miếng ăn, đến khi có được cái cho vào bụng thì ăn lấy ăn để, ăn cho đến chết. Biết
rằng cái chết như đã định sẵn cho bà lão cơ cực ấy, nhưng thay vì chết cùng cái
bụng đói, nhận được sự thương xót từ mọi người thì bà đã chọn chết cùng cái bụng
no và nhận về những lời chỉ trích cho cái nhân cách đã bị bào mòn: “Chúng mày
xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng khơng thể chết nhưng no một bữa là đủ chết.

Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…” - lời của bà phó nói với lũ con gái, con ni.
Nếu bà lão biết rằng mình sẽ chết vì ăn q no thì liệu bà có ăn một cách từ tốn, ăn
biết chừng mực hơn hay không. Chắc chắn sẽ khơng vì hiện tại trong bà lão cái đói
đã ngự trị trong cả thể xác lẫn tâm trí của bà. Cách nhà văn Nam Cao miêu tả tâm
lí của bà lão ở đây cho thấy niềm xót thương vô hạn đối với nhân vật. Dù biết sẽ
nhục, sẽ bị khinh miệt là mất nhân cách nhưng bà vẫn cam chịu để có một bữa no
cho mình. Bà lão thà chịu mang tiếng chết vì miếng ăn, chết vì ăn tham cịn hơn
chết vì đói. Bà lão chết vì bội thực do ăn quá no, để người đời dèm pha đó là cái
chết do bà chọn. Bà lão thà chết no cịn hơn chết đói để người đời thương xót. Vẫn
biết cái chết sẽ đến với mình nhưng bà lão vẫn chọn cái chết bị người đời khinh
miệt. Đó chính là cái bi kịch lớn trong bà, đói q khơng ăn cũng có thể chết
nhưng no q cũng chết. Quanh đi vẫn chính cái chết đeo bám lấy bà, ta có thể
thấy được ở đây việc chọn cái chết của bà là để giải thoát. Nếu như chúng ta đơn
thuần chỉ đọc tác phẩm của Nam Cao chắc hẳn sẽ nghĩ bà lão đáng chết nhưng khi
bạn hiểu nhà văn sẽ hiểu ngay hàm ý nhà văn muốn gửi gắm. Cái chết của bà lão là
sự giải thoát cho “cái đói”, cái bi thương đau khổ của cuộc đời bà. Dù bà có ăn từ
tốn để khơng phải “chết no” nhưng đâu ai biết được khi cơn đói lại tới bà sẽ khơng
“chết đói”. Bà lão chỉ có thể tạm qn đi “cái đói” chứ khơng thể vượt qua nó, khi
cảm giác no qua đi bà vẫn sẽ phải tiếp tục đối mặt với chuỗi ngày bị “cái đói” bám
riết, hành hạ; kèm theo đó là thật khó để một con người có thể sống tiếp với “cái
nhục”.Với riêng bà lão, đây là các giải quyết tốt nhất và nhân từ nhất mà nhà văn
có thể làm được để giúp nhân vật.

“Một bữa no” là một tiếng kêu thật thê thảm, không phải chỉ riêng cái chết
sinh vật của bà cái Tí, mà ở đây cịn trước cái chết tinh thần của bà. Ngòi bút của
Nam Cao tưởng chừng như lạnh lùng, tàn nhẫn khi tả rất tỉ mỉ cái cách ăn uống của
bà, nhưng không phải vậy. Điều nhà văn muốn nhấn mạnh ở đây là cái nhục của
con người phải chấp nhận vì đói. Con người phải chịu nhục, phải từ bỏ nhân phẩm
của mình để phải sống theo bản năng như một con vật. Nhà văn nhấn mạnh vào đó
để thấy được sự tủi nhục của bà khi ăn được một bữa no. Bữa no đó cũng chính là

bữa ăn cuối cùng của bà khi bà đã ăn đến chết. Cái chết của bà chính là sự giải
thốt duy nhất cho sự đói khổ, khốn cùng này.

12

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

KẾT LUẬN
Đề tài là yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong mỗi tác phẩm văn học.
Muốn biết tác phẩm tái hiện lại những gì từ cuộc sống thì hãy đi khám phá đề tài.
Một tác phẩm văn học, nhất là tác phẩm truyện thành công bao giờ cũng phải sở
hữu đề tài sáng tạo và hấp dẫn. Truyện ngắn “Một bữa no” của Nam Cao đã làm
sáng tỏ và cho người đọc thấy được những bi kịch xoay quanh đời sống thường

13

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

nhật của con người Việt Nam trong xã hội xưa. Có thể nói rằng, thơng qua việc
nghiên cứu về cái bi trong truyện, người đọc đã có thêm những suy nghĩ, cái nhìn
mới sâu sắc và ý nghĩa hơn về đề tài cái bi trong các truyện ngắn ở giai đoạn 1930-
1945.

Là ngọn cờ tiên phong của chủ nghĩa nhân đạo trong trào lưu văn học hiện
thực phê phán, Nam Cao đã thể hiện thái độ trân trọng, xót thương đối với số phận
thấp kém, bị vùi dập của bà lão trong truyện. Dù câu chuyện chỉ xoay quanh các
vấn đề rất bình thường và phổ biến trong xã hội xưa nhưng thông qua những bi
kịch được khai thác đã làm nổi bật lên một xã hội bất nhân khiến con người ta bị
tha hố và dần từ bỏ chính mình hay về số phận bất hạnh của người phụ nữ yếu
hèn không có tiếng nói trong xã hội, sự tai tiếng về cái chết của một con người

nghèo khổ sau khi vứt bỏ danh dự để có một bữa ăn no. Do đó cái bi trong truyện
ngắn “Một bữa no” có thể xem như là đại diện cho một trong rất nhiều vấn đề còn
tồn đọng trong giai đoạn 1930-1945.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

{1}: Nam Cao - nhà văn hiện thực xuất sắc (Phương Ngân tuyển chọn và biên tập)
{2}:Giáo trình văn học VN hiện đại tập 1 (từ đầu thế kỉ XX đến 1945) của Trần
Đăng Suyền và Nguyễn Văn Long (đồng chủ biên)
{3}: Tóm tắt truyện ngắn một bữa no (colearn.vn)
{4}: Bài ca dao về người phụ nữ Việt Nam (anybooks.vn)

14

Trường ĐHSP Hà Nội 2 Bài nghiên cứu khoa học

{5}: Một bữa no_Truyện ngắn Nam Cao (bigone.vn)

15


×