Phong Lê và một số vấn đề lịch
sử văn học Việt Nam hiện đại
Từ điểm nhìn hiện tại, có khá nhiều luận điểm trong phần I công trình Văn học
Việt Nam hiện đại - lịch sử và lí luận có thể tranh luận, phản bác. Tuy nhiên, chúng ta không phải
làm việc đó, bởi chính tác giả đã tự tranh luận, phản bác và đặt lại nhiều vấn đề ngay trong phần
II cuốn sách mang tiêu đề Văn học và hiện thực viết năm 1990, mười năm sau bài tổng quan Văn
xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa nêu trên. Trong Văn học và hiện thực,
lần đầu tiên Phong Lê đặt vấn đề hiện đại hoá, bên cạnh cách mạng hoá, như một yêu cầu cơ bản,
cấp thiết của phát triển văn học Việt Nam hiện đại. Vấn đề hiện đại hoá văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỉ XX được nhiều nhà nghiên cứu đề cập tới từ cuối thập niên 1990 cho tới nay và mỗi
người có cách tiếp cận và cách thức nghiên cứu riêng
(12)
. Với cách đặt vấn đề của mình, Phong
Lê đưa văn học công khai giai đoạn 1920-1945 trở về đúng vị trí của nó. Văn học công khai
được xếp ngang hàng với văn học cách mạng, và nếu có sự “so le”, thì cũng do “có lúc yêu cầu
này trội lên, có lúc nhường cho yêu cầu kia”. Đánh giá lại văn học công khai nói chung, Thơ
mới nói riêng, Phong Lê viết: “ cũng có lúc, và kéo khá dài, một bộ phận sáng tác của trào lưu
này còn bị phê phán là quay lưng, hoặc thoát li thời cuộc, thậm chí còn bị kết tội là sự cổ vũ cho
nhu cầu hưởng lạc, cho sinh hoạt cá nhân tư sản. Nhưng trên khoảng lùi của thời gian, và với cái
nhìn tổng thể các yêu cầu lịch sử thì không phủ nhận một sự thật là: sự hiện diện của mảng văn
học đó cũng là nhằm thoả mãn một yêu cầu lịch sử, cũng có những đóng góp nhất định trên các
mục tiêu giải phóng, trong đó có sự giải phóng con người; và nhất là trên sự canh tân mạnh dạn
của thể loại, ngôn ngữ, đưa tới những đóng góp lớn trên con đường hiện đại hoá nội dung và
hình thức văn chương”
(13)
. Đặt trên cùng một bình diện, Phong Lê nhấn mạnh sự cần thiết như
nhau của hai dòng văn học – Cách mạng và công khai, với tư cách là những bộ phận hữu cơ của
một cơ thể sống động bao gồm nhiều khuynh hướng sáng tác, kể cả chủ nghĩa tự nhiên và lãng
mạn mà trước đó không lâu anh còn xếp vào hàng ngũ “những thứ chủ nghĩa suy đồi”. Nền văn
học đa dạng đó làm cho người đọc “không thể hết kinh ngạc về sức chấn động của Bản án thực
dân Pháp hoặc câu chuyện Nhật kí chìm tàu của Nguyễn Ái Quốc từ hải ngoại truyền về vào
những năm 20 và 30; nhưng cũng không thể bỏ qua sức ám ảnh bền lâu của những câu thơ Tản
Đà nói về một hiện thực khác, với những tâm trạng khác”
(14)
. Như vậy, văn học Việt Nam 1930-
1945 cho tới lúc này đã được nhìn nhận một cách tổng thể, bức tranh văn học không bị xé lẻ và
trong quan hệ với hiện thực mỗi dòng văn học trong nó “có những biểu hiện, mục tiêu khác
nhau”, song với những thành tựu đạt được, chúng vừa là sự khởi đầu, vừa là điểm tiếp nối tạo
thành một dòng mạch chung chảy suốt thế kỉ. Điều này thể hiện rõ nét trong đánh giá Thơ mới
1932-1945, một phong trào không còn bị coi là nơi trú ngụ của cái “tôi” tiểu tư sản yếm thế, trốn
tránh thời cuộc, mà được xem là “cái nôi làm xuất hiện nhiều nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt
Nam hiện đại, sẽ là dấu nối, là sự gắn nối liên tục, làm nên gương mặt thơ Việt Nam thế kỉ
XX”
(15)
. Thế hệ các nhà thơ chống Pháp, chống Mĩ với những đại diện xuất sắc của mình không
chỉ tiếp thu truyền thống yêu nước cách mạng, tính chiến đấu của các bậc tiền bối trong dòng thơ
ca Cách mạng 1930-1945, mà ẩn sâu trong tiềm thức sáng tác của họ, đằng sau mỗi dòng thơ họ
vẫn cảm nhận được cái mã cốt di truyền từ Nguyễn Du qua Thơ mới.
Xuất phát từ sự nhìn nhận lại vai trò của văn học công khai 1930-1945, những đóng góp
to lớn của nó đối với sự nghiệp hiện đại hoá văn học dân tộc, với cái nhìn tổng hoà, quan niệm về
tính thống nhất, sự phát triển liên tục của văn học, Phong Lê đã đặt và lí giải lại gần như toàn bộ
hệ vấn đề của lí luận và lịch sử văn học như mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, văn học và
chính trị, chức năng văn học, nhân vật – con người mới trong văn học, vấn đề chủ thể sáng tạo và
phản ánh sự thật… Ngay cách đặt tên các tiểu mục của công trình cũng làm nổi bật tính chất
“nhận thức lại” của nó, chẳng hạn như Nhận thức lại vị trí của chủ nghĩa hiện thực và vấn đề chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Có thể coi tiểu mục- bài viết này là “phản đề” của tổng
quan Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa viết năm 1980 nêu trên. Nếu
như trong “tổng quan”, chủ nghĩa hiện thực, nhất là hiện thực xã hội chủ nghĩa, được coi là
“phương pháp sáng tác tốt nhất” (trên thực tế là duy nhất), các phương pháp sáng tác còn lại như
chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện đại… đều bị coi là “những nấm độc sặc
sỡ trên thân cây gỗ mục”, đều thuộc “những thứ chủ nghĩa suy đồi”, thì ở phần này quan niệm
đó bị xem như một sự “nghèo hoá” di sản văn học nhân loại, ngăn chặn sự phát triển phong phú,
đa dạng của văn học dân tộc. Vấn đề về chức năng văn học được bàn đến khá kĩ trong một tiểu
mục khác với nhan đề khá dài Hệ quả của một cuộc giao lưu văn hoá Đông Tây trong câu
chuyện về chức năng văn học. Ở phần này tác giả lí giải vì sao chức năng giáo huấn lại được đề
cao tuyệt đối trong truyền thống văn học dân tộc và hệ lụy kéo dài của nó. Với cách nhìn mới, tác
giả đã đặt cả ba chức năng: giáo dục, nhận thức và chức năng thẩm mĩ lên cùng một bình diện,
xuất phát từ đặc trưng của văn học nghệ thuật với tư cách một lĩnh vực riêng biệt của hoạt động
tinh thần, đồng thời nhấn mạnh sự gắn kết hữu cơ và tính liên đới giữa chúng, bởi thiếu một
trong những chức năng đó sẽ mất đi tính chỉnh thể của tác phẩm nghệ thuật. Để làm rõ điều này,
trong bài Phê bình và tự phê bình, Phong Lê nói tới những băn khoăn, day dứt, thậm chí là bi
kịch của các văn sĩ lớn, trong đó có Nam Cao, Hoài Thanh và Nguyễn Đình Thi, khi phải lựa
chọn giữa nhà văn - chiến sĩ và nhà văn - nghệ sĩ, giữa “phổ cập và nâng cao, kịp thời và lâu dài,
tuyên truyền và nghệ thuật”. Sự “nhận thức lại” cũng thể hiện rất rõ trong bài viết Vấn đề con
người nhìn từ sự nghiệp đổi mới đất nước. Phê phán chủ nghĩa lạc quan dễ dãi, tính khuôn mẫu,
sơ lược trong xây dựng con người mới – nhân vật trung tâm của văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa, Phong Lê khẳng định: “… nói đến một chân dung con người Việt Nam của thời đại thì
chúng ta lại dè dặt. Dường như để gây một ấn tượng, tạo một ám ảnh, thì có phần chắc con người
trong văn học lại đến từ những trang sách khác, thuộc thời gian khác, và không gian khác, chứ
chưa phải của ta, hôm nay”
(16)
. Nguyên nhân của sự thiếu vắng những nhân vật lớn trong văn học
Việt Nam hiện đại tác giả nhìn thấy ở việc “chưa có hoặc chưa đủ độ một thế giới nghệ thuật về
con người, một thế giới bắt nguồn từ đời sống, nhưng lại cao hơn đời sống, dựa vào đời sống
nhưng lại thoát ra khỏi đời sống”
(17)
. Như vậy nhân vật “người thật, việc thật”, “người tốt, việc
tốt” một thời ca ngợi, không có chỗ đứng ở đây, bởi đó mới chỉ là chất liệu thô mộc, chưa được
bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ tạo thành “thế giới nghệ thuật về con người” có sức quyến rũ,
ám ảnh lâu bền.
Còn rất nhiều vấn đề lí luận và văn học sử được tác giả “đặt lại”, “nhận thức lại” mà trong
phạm vi bài viết chúng tôi không thể đề cập hết được. Có thể nói, cảm hứng chủ đạo trong các
bài viết thời kì Đổi mới của Phong Lê là cảm hứng “phê bình và tự phê bình”. Nghiên cứu văn
học, qua những công trình của Phong Lê sau Đổi mới, dần từng bước trở lại vị trí của mình - một
chuyên ngành khoa học. Và nói theo ngôn ngữ của lí luận hiện đại, thì đây là thời kì của “giải cấu
trúc”, tức không phải chịu sự hướng tâm nghiệt ngã, mang tính độc lập nhất định, không “minh
hoạ”, “ăn theo” sáng tác; “siêu diễn ngôn” máy móc một thời dần chuyển sang ngôn ngữ của đời
sống, sinh động và năng sản. “Nhận thức lại” là bước quá độ để nghiên cứu Phong Lê chuyển
sang cấp độ khoa học cao hơn - cấp độ “nghĩ tiếp”.
Khi viết về Phong Lê không thể không đề cập tới những tiểu luận phê bình - chân dung
văn học đặc sắc - phân nửa gia tài của anh, bởi những công trình này cung cấp cho chúng ta bức
tranh sinh động về văn học Việt Nam thế kỉ XX qua những gương mặt cụ thể, những người “in
được dấu ấn rõ nét trong nền văn học Việt Nam hiện đại, ở tư cách người khai phá – tiên phong,
hoặc đứng ở vị trí hàng đầu, nói cách khác, là những giá trị văn chương bền vững, các vị trí văn
chương đỉnh cao”
(18)
. Những chân dung này còn là sự bổ sung quan trọng cho những chuyên
luận nghiêng về lí thuyết nêu trên, làm cho nhiều luận điểm khoa học trong đó trở nên sáng rõ
hơn, tạo cơ sở cho việc xây dựng bộ Lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Trong những tiểu luận –
chân dung văn học ta bắt gặp một Phong Lê khác, đời hơn, thơ hơn, có lẽ do sự tiếp xúc trực tiếp
với văn và với “người trong văn”. Quá trình viết bài này, mỗi khi mệt mỏi vì giòng thác diễn
ngôn cuồn cuộn với quá nhiều những “cần, phải” ở những trang viết trước Đổi mới, tôi lại tìm tới
những chân dung văn học được viết bởi một thứ ngôn ngữ bình dị, mềm mại và trong sáng - thứ
ngôn ngữ của Hoài Thanh, để cho tim, óc dịu đi. Ở đây tôi không có tham vọng (đúng hơn là
không thể) viết về tất cả những chân dung văn học của Phong Lê
(19)
. Tôi chỉ nói tới những chân
dung mà bản thân yêu thích, xem đó là những chân dung quan trọng, được viết kì công và hay
nhất.
Đó là những chân dung Nguyễn Ái Quốc, Nam Cao và Hoài Thanh - những nhà văn hội
tụ đầy đủ phẩm chất của “người khai phá – tiên phong”, “vị trí hàng đầu” và “giá trị bền vững”.
Những chân dung này được viết đi viết lại nhiều lần và chiếm số trang khá lớn trong các công
trình của Phong Lê từ năm 2001 tới nay.
Ngay trong Lời nói đầu cuốn Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu
biểu (2001), Phong Lê bầy tỏ lòng “mong muốn làm sáng tỏ chân dung văn học Hồ Chí Minh
trong tầm vóc của một anh hùng dân tộc và danh nhân văn hoá; người đứng ở đỉnh cao nền văn
thơ cách mạng Việt Nam; người gắn tuyệt vời cả hai phương diện văn hoá và cách mạng, cả hai
yêu cầu cách mạng hoá và hiện đại hoá”
(20)
. Trong quá trình viết, luận điểm này được Phong Lê
nhấn mạnh nhiều lần, trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những nghiên cứu của anh về Nguyễn Ái
Quốc - tác giả Việt Nam đầu tiên, từ những năm 20 đã góp công đầu vào việc giải quyết hai yêu
cầu lịch sử nói trên, tạo cơ sở để khắc phục những so le lịch sử giữa dân tộc và thời đại
(21)
. Để
thấy được vai trò lịch sử to lớn này của Nguyễn Ái Quốc đối với văn học dân tộc, trước khi đi
vào phân tích sáng tác của Người, Phong Lê đã khái quát tình hình mà anh cho là “mâu thuẫn”,
khi “văn học công khai, không có điều kiện đặt trực diện những vấn đề cơ bản của thời đại, hoặc
có lúc chủ tâm tránh, thì mang những đổi mới trong hình thức; còn văn học cách mạng trực tiếp
phô diễn nguyện vọng cơ bản của quần chúng, thì về hình thức, lại chưa thể hoặc không đặt yêu
cầu phải hướng tới sự cách tân
(22)
. Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc, theo Phong
Lê, tránh được “mâu thuẫn” trên và với sáng tác của Người hai dòng chủ lưu của văn học 1930-
1945 – công khai và cách mạng, vốn tồn tại song song, đã bắt đầu có sự hoà nhập.
Để chứng minh luận điểm của mình Phong Lê đã đưa ra những bài viết công phu về sự
nghiệp thơ văn của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt là Nhật kí trong tù. Tác phẩm này được Phong Lê
nghiên cứu khá kĩ, từ khảo sát văn bản trong cuộc hành trình kéo dài của nó trước khi tới được
tay độc giả, tới những phân tích văn bản, giúp độc giả có cái nhìn mới về tác phẩm lớn ngày càng
có nguy cơ bị “nhà trường hoá” này. Nhật kí trong tù, trên thực tế, là một tác phẩm rất khó tiếp
cận, bởi đây là một tác phẩm thơ dịch từ tiếng Hán, dù bản dịch có “đỉnh” tới mức nào, vẫn
không thể chuyển tải hết hồn cốt, tinh thần những bài thơ cũng như vẻ đẹp toát lên từ sự dung dị,
cô đọng của ngôn ngữ viết ra nó… Chính vì vậy khi đọc những trang tâm huyết của Phong Lê
người đọc vẫn muốn tác giả đi sâu hơn nữa vào phương diện nghệ thuật của tác phẩm, phát hiện
vẻ đẹp của sự đối cực nghệ thuật: tính hiện đại trong hình thức thơ cổ điển.
Bên cạnh đó, Phong Lê còn dành nhiều công sức và trang viết cho mảng văn xuôi của
Nguyễn Ái Quốc, bởi tìm thấy ở đấy sự cách tân sáng tạo rõ nét, tính cách mạng và tính hiện đại
đan bện. Tất nhiên, không phải Phong Lê là người đầu tiên đề cập tới vấn đề này. Ngay từ năm
1960, một người nước ngoài, khi đọc thơ văn Nguyễn Ái Quốc, đã nhận xét về sự kết hợp giữa
một “cốt cách cổ điển” với những “sáng tạo hiện đại”, giữa truyền thống và cách tân, giữa
phương Đông và phương Tây
(23)
. Một số chuyên gia khác về Nguyễn Ái Quốc cũng đã có những
chuyên luận, bài viết riêng về vấn đề này. Song, ở Phong Lê, đặc điểm sáng tác của Nguyễn Ái
Quốc, với tư cách người đóng vai trò rút ngắn “những so le của lịch sử”, được nhìn nhận một
cách tổng hợp, gắn với một hệ những vấn đề liên quan tới hai dòng văn học, công khai và cách
mạng, trước hết là vấn đề tiếp nhận của chủ thể sáng tạo vốn văn hoá nhân loại, truyền thống văn
hoá dân tộc, vấn đề tiếp nhận của người đọc và sự tác động của văn chương… Trong bài viết dài
hơi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh: Hành trình thơ văn - Hành trình dân tộc, Phong Lê đưa ra
nhận xét: “Nguyễn Ái Quốc đã viết với phong cách hiện đại sắc sảo, chủ yếu cho công chúng
chính quốc ở phương Tây. Nguyễn Ái Quốc đã viết trong ý thức học tập cách viết của Anatôn
Phrăngxơ, Anphôngxơ Đôđe, Lỗ Tấn, Tônxtoi, những truyện kí, tiểu phẩm “hiện thực” lên án
chủ nghĩa thực dân. Nhưng chính người viết với phong cách hiện đại ấy rồi đây cũng sẽ là người
rất mực giản dị trong cách chọn lời, chọn chữ cho một áng văn chính trị như Đường Kách
mệnh (1927), hoặc chọn thể văn sao cho thích hợp với đông đảo quần chúng như trong Nhật kí
chìm tàu (1930)”
(24)
. Trong những phần tiếp theo, bên cạnh việc phân tích tác phẩm của Nguyễn
Ái Quốc gắn với những vấn đề chính trị xã hội, Phong Lê đã có những trang viết chủ yếu nói về
các hình thức, thể loại đa dạng trong văn xuôi Nguyễn Ái Quốc, trong đó nổi bật chùm tác phẩm
sáng tác theo kiểu viễn tưởng, thông qua cái kì ảo, motíp giấc mơ phản ánh thực tại (Lời than vãn
của bà Trưng Trắc), hoặc tiên đoán tương lai (Con người biết mùi hun khói hay Nhật kí chìm
tàu, Giấc ngủ mười năm). Đáng tiếc số lớn những tác phẩm nêu trên đã bị thất lạc, chính vì vậy
tác giả công trình đã không có điều kiện khảo cứu, nghiên cứu trực tiếp văn bản, điều hạn chế
những phân tích nhằm làm nổi bật hơn nữa những cách tân sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc, chẳng
hạn phân tích những ảnh hưởng do tiếp xúc trực tiếp sáng tác của A. France, đặc biệt những tiểu
thuyết bất hủ Trên đá trắng (1904); Cuộc nổi dậy của những thiên thần (1914) của đại văn hào
này đối với chùm tác phẩm viễn tưởng nêu trên; hoặc so sánh loại hình chùm tác phẩm này
vớiGiấc mộng con và Giấc mộng lớn viết trước đó, vào thập niên đầu thế kỉ, của Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu, người ngay khi ấy đã nhận thức và sử dụng loại văn viễn tưởng để chuyển tải những
nội dung chính trị, xã hội cấp bách, phù hợp với sự tiếp nhận của công chúng bạn đọc vốn quen
với những kiểu truyện như Từ Thức gặp tiên hay những truyện thần tiên, kì ảo khác trong kho
tàng văn học dân tộc. Công việc sưu tầm, tìm kiếm những văn bản quý giá này đặt lên vai thế hệ
nghiên cứu trẻ tuổi và chúng ta hy vọng họ sẽ tiếp nối công việc của các vị tiền bối một cách
khoa học hơn.