Phong Lê và một số vấn đề lịch sử
văn học Việt Nam hiện đại
Viết về nhà nghiên cứu Văn học đầu đàn Phong Lê.
Viết về Phong Lê khó, bởi tôi không cùng chuyên môn với anh,
mà tôi lại muốn viết về anh không chỉ ở phương diện tính cách,
con người (về Viện Văn sau anh nhiều năm, song tôi và anh cùng
thuộc “dân bản địa” biết nhau đã nhiều, hiểu nhau cũng lắm), mà
chủ yếu viết về anh với tư cách một trong những chuyên gia đầu
ngành về văn học Việt Nam hiện đại trong thời điểm hiện tại.
Viết về Phong Lê tôi có ý thức thông qua một trong những đại
diện của giới nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại thấy được
cuộc hành trình xuyên suốt thế kỉ của nó với những nhọc nhằn
tìm kiếm, những thành công và những hạn chế không tránh khỏi.
Viết về Phong Lê tôi đồng thời muốn nhấn mạnh đóng góp của
anh xung quanh việc xây dựng Lịch sử văn học với tư cách một
bộ môn khoa học, đặc biệt từ sau thời kì Đổi mới.
Đọc những công trình của Phong Lê rất dễ nắm bắt ý đồ học
thuật của anh, bởi nó thường được trình bầy khái quát rõ ràng
ngay từ Lời nói đầu. Trong Lời nói đầu cuốn Văn học Việt Nam
hiện đại - lịch sử và lí luận (Nxb Khoa học xã hội, 2003) Phong Lê
xác định nội dung phương pháp, cách thức tiếp cận đối tượng
nghiên cứu – văn học Việt Nam hiện đại, đó là “khảo sát đối
tượng trên bình diện thể loại, qua các giai đoạn lịch sử, gắn với
sự nhận diện gương mặt các tác gia tiêu biểu cho mỗi khu vực,
mỗi thời kì; sự miêu tả lịch sử về đối tượng gắn với việc đề xuất
các vấn đề lí luận”(1). Định hướng học thuật này đã manh nha
ngay từ trong chuyên đề và tiểu luận đầu tiên của anh: Mấy vấn
đề văn xuôi Việt Nam 1945-1975 (Nxb Khoa học xã hội, 1972) và
Văn và người (Nxb Văn học, 1976). Sự song hành “chuyên luận”
– “tiểu luận – phê bình” này kéo dài cho tới tận hôm nay(2), sau
gần 50 năm, và tôi có cảm giác sự giao nhau giữa chúng, chính
xác hơn, sự kết hợp của chúng, sẽ cho ra bộ Lịch sử văn học
Việt Nam hiện đại - nỗi khát khao dằn vặt, món “nợ đời” mà
Phong Lê phải trả, là cái đích để anh hướng tới. Có cảm giác bất
cứ thời điểm nào vào lúc này anh cũng có thể làm cho hai đường
thẳng song song này cắt nhau và trình làng bộ Lịch sử, song điều
đó vẫn chưa xảy ra(3), bởi những cuốn sách trong tương lai gần
mà anh cho biết vẫn là “cặp bài trùng – chuyên luận Hiện đại hoá
và Đổi mới văn học Việt Nam thế kỉ XX(4) và tiểu luận – phê bình
Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại(5)? Sự cấn cứ này,
theo tôi, có thể xuất phát từ chỗ Phong Lê, với tư cách một
chuyên gia, ý thức được rằng thời điểm chín muồi cho bộ Lịch sử
như mong muốn chưa tới, rằng để xây dựng Lịch sử văn học như
một khoa học, đòi hỏi khảo sát sâu hơn nữa đối tượng nghiên
cứu – văn học Việt Nam hiện đại, trên tất cả các khu vực, nắm
được yêu cầu lịch sử cơ bản của mỗi chặng đường trong tiến
trình một thế kỉ phát triển của nó và những tìm tòi nghệ thuật đáp
ứng những yêu cầu đó, soi rọi chúng dưới ánh sáng lí luận và
phương pháp luận hiện đại, đặng tìm ra những quy luật tương
đồng với quy luật phát triển văn học thế giới và những đặc trưng
dân tộc của nền văn học này. Đối với anh, cũng như hầu hết các
nhà nghiên cứu cùng thời, một thời gian dài là môn đệ trung
thành của phê bình mác-xít, tiếp cận đối tượng theo quan điểm
xã hội học thuần tuý, thì sự thay đổi cách nhìn và tiếp nhận
những phương pháp, lí luận mới, quả là điều không mấy dễ dàng.
Anh đã vượt được chính mình. Vẫn trên cơ sở định hướng
nghiên cứu nêu trên, vẫn tuân thủ phương pháp luận mà anh đã
chọn và có lẽ sẽ theo đến trọn đời, song trong những công trình
gần đây, Phong Lê đã tạo một khoảng cách cần thiết đủ để nhìn
nhận đối tượng một cách khách quan ở những phương vị khác
nhau và triển khai nghiên cứu bằng cách thức tổng hợp và đa
dạng hơn, trên một nền tri thức lịch sử - văn hoá - xã hội rộng mở
hơn. Từng bước một, rốt ráo, song kiên nhẫn và chắc chắn anh
đang tiến tới mục đích khoa học chính của đời mình: xây dựng bộ
Lịch sử.
Bước ngoặt quan trọng trong nghiên cứu của Phong Lê diễn ra
ngay từ những năm đầu Đổi mới. Điều này khiến không chỉ người
ngoài mà chính anh cũng cảm thấy ngỡ ngàng. Trong cuốn Văn
học Việt Nam hiện đại - lịch sử và lí luận, Phong Lê chân thành
thổ lộ: “Năm 1987, và nói đúng hơn, từ năm 1990, với khởi đầu là
công trình Văn học và hiện thực (Nxb Khoa học xã hội, 1990) là
một giai đoạn mới trong công việc nghiên cứu của tôi – sau 30
năm sống và viết trong một bối cảnh, một quán tính quen thuộc -
tưởng cứ thế, và không có gì thay đổi. Thế rồi, gần như một phép
lạ… Những năm 90 thế kỉ XX, trong đó hơn một nửa thời gian
làm công tác quản lí, là những năm tôi được gội trong một bầu
không khí của sự nghiệp Đổi Mới - những năm kích thích rất
nhiều cho những suy ngẫm, tìm tòi, qua nhiều hội thảo và công
trình, để nửa sau 90 khi được thôi công việc quản lí, tôi có điều
kiện dồn toàn tâm sức cho viết và đọc”(6). Với anh, người trong
cuộc, có thể đó là phép lạ, và, “phép lạ” này có được là nhờ ở
công cuộc Đổi mới (đại đa số người Việt chúng ta, mỗi khi có sự
thay đổi gì trong cuộc sống thường đổ cho khách quan, nếu mất
thì tại số mệnh, nếu được thì là nhờ “công lao” của những lực
lượng siêu hình và siêu nhiên). Trên thực tế, công cuộc Đổi mới -
kết quả của sự nỗ lực toàn dân tộc, trong đó có sự đóng góp
đáng kể của giới trí thức, chỉ là “cú huých giải phóng năng
lượng”, là cơ hội để những gì từng e dè ấp ủ trong anh có được
chỗ đứng đích thực dưới ánh mặt trời để mà đơm hoa kết trái.
Quá trình thay đổi về chất trong nghiên cứu của Phong Lê, theo
tôi, xuất phát từ chính bản thân anh. Nếu không đau đáu với đời,
không sống chết vì nghiệp, không đủ tư chất nhà nghiên cứu, thì
Đổi mới cũng chỉ là cơn gió thoáng qua trên mặt nước hồ phẳng
lặng mà thôi. Những thay đổi diễn ra trong sự nghiệp của Phong
Lê không mấy khó hiểu, bởi anh không chỉ được “gội trong bầu
không khí của Đổi mới”, mà trước tiên, và điều này quan trọng
hơn, anh có may mắn ngay từ lúc khởi nghiệp đã được gội trong
bầu không khí học thuật của Viện Văn học thời Đặng Thai Mai,
Hoài Thanh và những chuyên gia - những nhân cách lớn khác.
Một người say mê văn tài Nam Cao, kính trọng sự uyên bác hàn
lâm của họ Đặng, ngưỡng mộ Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam
và coi họ là bậc thầy của mình, một người cảm phục Vũ Ngọc
Phan, có ý thức học hỏi những bậc đàn anh tài năng như Cao
Huy Đỉnh(7), người đó sớm muộn cũng sẽ thoát khỏi hành lang
chật hẹp của chủ nghĩa công lợi trong nghiên cứu vốn coi văn
học chỉ là “đinh ốc nhỏ”, là công cụ giáo dục và tuyên truyền, tiến
dần tới những giá trị thẩm mĩ đích thực, coi “văn học phải là văn
học”.
Những người thầy, những bậc đàn anh ấy không chỉ cung cấp
cho Phong Lê tri thức chuyên môn, phương pháp nghiên cứu, mà
còn là những tấm gương, qua đó đã hình thành trong anh những
phẩm chất quan trọng của nhà nghiên cứu, đó là tinh thần dân
chủ, sự cởi mở, thực sự cầu thị trong chuyên môn. Thiếu tư chất
này hẳn anh đã không thể đón nhận Đổi mới và đứng vào hàng
ngũ của những người tiên phong của phong trào này, và tất nhiên
không thể cho ra được những công trình quan trọng từ sau 1995
cho tới nay.
Chỉ cần đọc cuốn Văn học Việt Nam hiện đại – lịch sử và lí luận
ta cũng nhận thấy rõ điều này. Cuốn sách xuất bản năm 2003,
tức hơn một thập niên sau Đổi mới, có 2 phần chính(8). Phần I
gồm cụm bài về đề tài văn học Việt Nam hiện đại viết vào những
năm 1970 và bài tổng quan dài hơi: Văn xuôi Việt Nam trên con
đường hiện thực xã hội chủ nghĩa viết năm 1980 kết thúc cái thời
kì mà anh gọi là “chặng đường học tập, tìm tòi, thể nghiệm”. Phần
II bắt đầu bằng công trình Văn học và hiện thực viết năm 1990
mang tính bước ngoặt nêu trên và kết thúc bằng Văn học Việt
Nam trên hành trình của thế kỉ XX - tập hợp những bài viết từ
năm 1991 tới 1997 – giai đoạn chín muồi của Phong Lê với tư
cách nhà nghiên cứu. Với cấu trúc cuốn sách như vậy tác giả
dường như không có ý định che giấu những cực đoan, thậm chí
ấu trĩ trong một số những nhận định chủ quan một thời của mình
về một số vấn đề lí luận và văn học sử. Có cảm giác anh chủ tâm
cho người đọc thấy anh không “phủ nhận sạch trơn” những gì
từng tâm huyết, mà làm việc theo cách: những gì chưa đúng thì
nhìn nhận lại, những gì sơ lược thì làm sâu sắc hơn, chưa đủ thì
bổ sung thêm và… nghĩ tiếp! (ít nhất có hai công trình, một do
anh chủ trì (về Nam Cao), một của cá nhân, mang tiêu đề “nghĩ
tiếp”). Đồng thời, với cấu trúc sách như vậy Phong Lê đã tạo điều
kiện cho người đọc có được sự so sánh dễ dàng hai giai đoạn
nghiên cứu, trước và sau Đổi mới, để thấy được sự đổi mới trong
tư duy, sự trưởng thành không chỉ bản thân anh.
Đặc điểm nổi bật của nghiên cứu giai đoạn đầu của Phong Lê đó
là sự hướng tâm triệt để cộng với “siêu diễn ngôn”. Nó làm ta liên
hệ tới chủ nghĩa cấu trúc hiểu một cách đơn giản nhất. Tuy nhiên,
khác với “trung tâm” theo chế định của chủ nghĩa cấu trúc,
thường mang tính nội tại, “trung tâm” mà phê bình, nghiên cứu
Phong Lê hướng tới mang tính ngoại biên, nằm ngoài văn học(9).
Trung tâm này chi phối toàn bộ sự nhìn nhận, đánh giá hai bộ
phận chính của đối tượng nghiên cứu: văn học nửa đầu thế kỉ XX
và văn học 1945-1975 và những lí giải về các vấn đề cốt yếu của
lí luận văn học, trong đó nổi bật là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa.
Trong tổng quan Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã
hội chủ nghĩa (1980), ở phần “dẫn luận”, văn học giai đoạn 1930-
1945 (văn học công khai) được đề cập lướt qua với mục đích làm
nổi bật tính ưu việt của văn học Cách mạng và nhằm khẳng định
những nguyên tắc mới - hiện thực xã hội chủ nghĩa trong sáng
tác của các giai đoạn tiếp sau. Định tính văn học công khai thời kì
này, dựa vào luận điểm của Mác và Angghen trong Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản, Phong Lê viết: “Chính sách văn hoá của bọn đế
quốc đối với thuộc địa, nhằm tạo một thế giới “theo hình ảnh của
mình” chỉ nhằm phát triển các mặt tiêu cực, phản động cho phù
hợp với mục tiêu nô dịch của chúng. Do vậy vào những năm 20
và 30, nếu văn học Việt Nam, trong phần chính thống của nó, có
chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây, thì sự tiếp thu ấy, trên
cơ sở ý đồ thực dân, cũng chỉ là một sự cưỡng ép nhằm sao
chép y nguyên bộ mặt của văn hoá chính quốc, với các dạng của
chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực, chủ nghĩa tự nhiên và các thứ chủ
nghĩa suy đồi khác mà thôi. Nói cách khác, đó là bộ phận có khả
năng phục vụ đắc lực nhất cho kiến trúc thượng tầng của chế độ
thuộc địa”(10). Nhận định này có phần cực đoan, nhưng nó cần
thiết để đặt trong thế đối lập một bộ phận không nhỏ trong văn
học công khai 1930-1945 với văn học Cách mạng cùng thời,
nhằm phủ nhận cái trước, khẳng định, đề cao cái sau, chứng
minh tính ưu việt vượt trội của phương pháp sáng tác hiện thực
xã hội chủ nghĩa trong văn học. Và cái lôgíc thực dụng: cái gì
không cần cho ta, cái ấy xấu, hoặc cái cần là cái tốt, gần như
xuyên suốt những nhận định tiếp theo: từ nhận định vấn đề lí luận
chung như chức năng văn học, phản ánh hiện thực, tới những
vấn đề cụ thể như đề tài, mô hình nhân vật – con người mới,
thuyết phi bi kịch, chủ nghĩa lạc quan… trong văn học hiện thực
xã hội chủ nghĩa. Thứ lôgíc này không chỉ riêng của Phong Lê, nó
là lôgíc của một thời, cái thời xem “văn học như một phương
tiện”, “một bánh xe”, “một đinh ốc” trong sự nghiệp cách mạng
của giai cấp vô sản”(11).
Đọc Phong Lê ở phần I công trình này người ta có cảm giác bị
cuốn tuột theo dòng thác ngôn từ của những nhận định liên tiếp,
những nhận định có thể bắt gặp ở bất cứ ở đâu: đài, báo, ti vi,
trên các cuộc họp, các cuộc tranh luận, trong trường học, trên
các giảng đường, trong bài viết và các công trình Từ cái dòng
thác ngôn từ này hình thành “siêu diễn ngôn” - một thứ “vô thức
lịch sử”, trong đó “cái biểu đạt” và “cái được biểu đạt” liên hệ với
nhau theo một kiểu thức nhất định, lặp đi lặp lại, khiến “chưa đọc
đã hiểu”. Thứ “siêu diễn ngôn” có mặt khắp mọi nơi này nhập vào
văn Phong Lê thời kì đầu khiến có cảm giác nó “cứ phăng phăng”
(nhận xét của Trịnh Bá Đĩnh). Khoa học là sự tìm tòi, vật lộn khổ
ải để tiếp cận chân lí, thế nên ngôn ngữ biểu hiện nó thường là
thứ ngôn ngữ đắn đo, cân nhắc. Ngôn ngữ một thời “phăng
phăng”, bởi chân lí đã có sẵn, lại dường như bất biến, vĩnh hằng,
chỉ cần minh hoạ… là đủ.
Từ điểm nhìn hiện tại, có khá nhiều luận điểm trong phần I công
trình Văn học Việt Nam hiện đại - lịch sử và lí luận có thể tranh
luận, phản bác. Tuy nhiên, chúng ta không phải làm việc đó, bởi
chính tác giả đã tự tranh luận, phản bác và đặt lại nhiều vấn đề
ngay trong phần II cuốn sách mang tiêu đề Văn học và hiện thực
viết năm 1990, mười năm sau bài tổng quan Văn xuôi Việt Nam
trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa nêu trên. Trong Văn
học và hiện thực, lần đầu tiên Phong Lê đặt vấn đề hiện đại hoá,
bên cạnh cách mạng hoá, như một yêu cầu cơ bản, cấp thiết của
phát triển văn học Việt Nam hiện đại. Vấn đề hiện đại hoá văn
học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX được nhiều nhà nghiên cứu đề
cập tới từ cuối thập niên 1990 cho tới nay và mỗi người có cách
tiếp cận và cách thức nghiên cứu riêng(12). Với cách đặt vấn đề
của mình, Phong Lê đưa văn học công khai giai đoạn 1920-1945
trở về đúng vị trí của nó. Văn học công khai được xếp ngang
hàng với văn học cách mạng, và nếu có sự “so le”, thì cũng do
“có lúc yêu cầu này trội lên, có lúc nhường cho yêu cầu kia”.
Đánh giá lại văn học công khai nói chung, Thơ mới nói riêng,
Phong Lê viết: “ cũng có lúc, và kéo khá dài, một bộ phận sáng
tác của trào lưu này còn bị phê phán là quay lưng, hoặc thoát li
thời cuộc, thậm chí còn bị kết tội là sự cổ vũ cho nhu cầu hưởng
lạc, cho sinh hoạt cá nhân tư sản. Nhưng trên khoảng lùi của thời
gian, và với cái nhìn tổng thể các yêu cầu lịch sử thì không phủ
nhận một sự thật là: sự hiện diện của mảng văn học đó cũng là
nhằm thoả mãn một yêu cầu lịch sử, cũng có những đóng góp
nhất định trên các mục tiêu giải phóng, trong đó có sự giải phóng
con người; và nhất là trên sự canh tân mạnh dạn của thể loại,
ngôn ngữ, đưa tới những đóng góp lớn trên con đường hiện đại
hoá nội dung và hình thức văn chương”(13). Đặt trên cùng một
bình diện, Phong Lê nhấn mạnh sự cần thiết như nhau của hai
dòng văn học – Cách mạng và công khai, với tư cách là những
bộ phận hữu cơ của một cơ thể sống động bao gồm nhiều
khuynh hướng sáng tác, kể cả chủ nghĩa tự nhiên và lãng mạn
mà trước đó không lâu anh còn xếp vào hàng ngũ “những thứ
chủ nghĩa suy đồi”. Nền văn học đa dạng đó làm cho người đọc
“không thể hết kinh ngạc về sức chấn động của Bản án thực dân
Pháp hoặc câu chuyện Nhật kí chìm tàu của Nguyễn Ái Quốc từ
hải ngoại truyền về vào những năm 20 và 30; nhưng cũng không
thể bỏ qua sức ám ảnh bền lâu của những câu thơ Tản Đà nói về
một hiện thực khác, với những tâm trạng khác”(14). Như vậy, văn
học Việt Nam 1930-1945 cho tới lúc này đã được nhìn nhận một
cách tổng thể, bức tranh văn học không bị xé lẻ và trong quan hệ
với hiện thực mỗi dòng văn học trong nó “có những biểu hiện,
mục tiêu khác nhau”, song với những thành tựu đạt được, chúng
vừa là sự khởi đầu, vừa là điểm tiếp nối tạo thành một dòng
mạch chung chảy suốt thế kỉ. Điều này thể hiện rõ nét trong đánh
giá Thơ mới 1932-1945, một phong trào không còn bị coi là nơi
trú ngụ của cái “tôi” tiểu tư sản yếm thế, trốn tránh thời cuộc, mà
được xem là “cái nôi làm xuất hiện nhiều nhà thơ tiêu biểu của
văn học Việt Nam hiện đại, sẽ là dấu nối, là sự gắn nối liên tục,
làm nên gương mặt thơ Việt Nam thế kỉ XX”(15). Thế hệ các nhà
thơ chống Pháp, chống Mĩ với những đại diện xuất sắc của mình
không chỉ tiếp thu truyền thống yêu nước cách mạng, tính chiến
đấu của các bậc tiền bối trong dòng thơ ca Cách mạng 1930-
1945, mà ẩn sâu trong tiềm thức sáng tác của họ, đằng sau mỗi
dòng thơ họ vẫn cảm nhận được cái mã cốt di truyền từ Nguyễn
Du qua Thơ mới.
Xuất phát từ sự nhìn nhận lại vai trò của văn học công khai 1930-
1945, những đóng góp to lớn của nó đối với sự nghiệp hiện đại
hoá văn học dân tộc, với cái nhìn tổng hoà, quan niệm về tính
thống nhất, sự phát triển liên tục của văn học, Phong Lê đã đặt và
lí giải lại gần như toàn bộ hệ vấn đề của lí luận và lịch sử văn học
như mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, văn học và chính trị,
chức năng văn học, nhân vật – con người mới trong văn học, vấn
đề chủ thể sáng tạo và phản ánh sự thật… Ngay cách đặt tên các
tiểu mục của công trình cũng làm nổi bật tính chất “nhận thức lại”
của nó, chẳng hạn như Nhận thức lại vị trí của chủ nghĩa hiện
thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Có thể coi
tiểu mục- bài viết này là “phản đề” của tổng quan Văn xuôi Việt
Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa viết năm 1980
nêu trên. Nếu như trong “tổng quan”, chủ nghĩa hiện thực, nhất là
hiện thực xã hội chủ nghĩa, được coi là “phương pháp sáng tác
tốt nhất” (trên thực tế là duy nhất), các phương pháp sáng tác
còn lại như chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa
hiện đại… đều bị coi là “những nấm độc sặc sỡ trên thân cây gỗ
mục”, đều thuộc “những thứ chủ nghĩa suy đồi”, thì ở phần này
quan niệm đó bị xem như một sự “nghèo hoá” di sản văn học
nhân loại, ngăn chặn sự phát triển phong phú, đa dạng của văn
học dân tộc. Vấn đề về chức năng văn học được bàn đến khá kĩ
trong một tiểu mục khác với nhan đề khá dài Hệ quả của một
cuộc giao lưu văn hoá Đông Tây trong câu chuyện về chức năng
văn học. Ở phần này tác giả lí giải vì sao chức năng giáo huấn lại
được đề cao tuyệt đối trong truyền thống văn học dân tộc và hệ
lụy kéo dài của nó. Với cách nhìn mới, tác giả đã đặt cả ba chức
năng: giáo dục, nhận thức và chức năng thẩm mĩ lên cùng một
bình diện, xuất phát từ đặc trưng của văn học nghệ thuật với tư
cách một lĩnh vực riêng biệt của hoạt động tinh thần, đồng thời
nhấn mạnh sự gắn kết hữu cơ và tính liên đới giữa chúng, bởi
thiếu một trong những chức năng đó sẽ mất đi tính chỉnh thể của
tác phẩm nghệ thuật. Để làm rõ điều này, trong bài Phê bình và
tự phê bình, Phong Lê nói tới những băn khoăn, day dứt, thậm
chí là bi kịch của các văn sĩ lớn, trong đó có Nam Cao, Hoài
Thanh và Nguyễn Đình Thi, khi phải lựa chọn giữa nhà văn -
chiến sĩ và nhà văn - nghệ sĩ, giữa “phổ cập và nâng cao, kịp thời
và lâu dài, tuyên truyền và nghệ thuật”. Sự “nhận thức lại” cũng
thể hiện rất rõ trong bài viết Vấn đề con người nhìn từ sự nghiệp
đổi mới đất nước. Phê phán chủ nghĩa lạc quan dễ dãi, tính
khuôn mẫu, sơ lược trong xây dựng con người mới – nhân vật
trung tâm của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, Phong Lê
khẳng định: “… nói đến một chân dung con người Việt Nam của
thời đại thì chúng ta lại dè dặt. Dường như để gây một ấn tượng,
tạo một ám ảnh, thì có phần chắc con người trong văn học lại đến
từ những trang sách khác, thuộc thời gian khác, và không gian
khác, chứ chưa phải của ta, hôm nay”(16). Nguyên nhân của sự
thiếu vắng những nhân vật lớn trong văn học Việt Nam hiện đại
tác giả nhìn thấy ở việc “chưa có hoặc chưa đủ độ một thế giới
nghệ thuật về con người, một thế giới bắt nguồn từ đời sống,
nhưng lại cao hơn đời sống, dựa vào đời sống nhưng lại thoát ra
khỏi đời sống”(17). Như vậy nhân vật “người thật, việc thật”,
“người tốt, việc tốt” một thời ca ngợi, không có chỗ đứng ở đây,
bởi đó mới chỉ là chất liệu thô mộc, chưa được bàn tay tài hoa
của người nghệ sĩ tạo thành “thế giới nghệ thuật về con người”
có sức quyến rũ, ám ảnh lâu bền.
Còn rất nhiều vấn đề lí luận và văn học sử được tác giả “đặt lại”,
“nhận thức lại” mà trong phạm vi bài viết chúng tôi không thể đề
cập hết được. Có thể nói, cảm hứng chủ đạo trong các bài viết
thời kì Đổi mới của Phong Lê là cảm hứng “phê bình và tự phê
bình”. Nghiên cứu văn học, qua những công trình của Phong Lê
sau Đổi mới, dần từng bước trở lại vị trí của mình - một chuyên
ngành khoa học. Và nói theo ngôn ngữ của lí luận hiện đại, thì
đây là thời kì của “giải cấu trúc”, tức không phải chịu sự hướng
tâm nghiệt ngã, mang tính độc lập nhất định, không “minh hoạ”,
“ăn theo” sáng tác; “siêu diễn ngôn” máy móc một thời dần
chuyển sang ngôn ngữ của đời sống, sinh động và năng sản.
“Nhận thức lại” là bước quá độ để nghiên cứu Phong Lê chuyển
sang cấp độ khoa học cao hơn - cấp độ “nghĩ tiếp”.
Khi viết về Phong Lê không thể không đề cập tới những tiểu luận
phê bình - chân dung văn học đặc sắc - phân nửa gia tài của anh,
bởi những công trình này cung cấp cho chúng ta bức tranh sinh
động về văn học Việt Nam thế kỉ XX qua những gương mặt cụ
thể, những người “in được dấu ấn rõ nét trong nền văn học Việt
Nam hiện đại, ở tư cách người khai phá – tiên phong, hoặc đứng
ở vị trí hàng đầu, nói cách khác, là những giá trị văn chương bền
vững, các vị trí văn chương đỉnh cao”(18). Những chân dung này
còn là sự bổ sung quan trọng cho những chuyên luận nghiêng về
lí thuyết nêu trên, làm cho nhiều luận điểm khoa học trong đó trở
nên sáng rõ hơn, tạo cơ sở cho việc xây dựng bộ Lịch sử văn
học Việt Nam hiện đại. Trong những tiểu luận – chân dung văn
học ta bắt gặp một Phong Lê khác, đời hơn, thơ hơn, có lẽ do sự
tiếp xúc trực tiếp với văn và với “người trong văn”. Quá trình viết
bài này, mỗi khi mệt mỏi vì giòng thác diễn ngôn cuồn cuộn với
quá nhiều những “cần, phải” ở những trang viết trước Đổi mới, tôi
lại tìm tới những chân dung văn học được viết bởi một thứ ngôn
ngữ bình dị, mềm mại và trong sáng - thứ ngôn ngữ của Hoài
Thanh, để cho tim, óc dịu đi. Ở đây tôi không có tham vọng (đúng
hơn là không thể) viết về tất cả những chân dung văn học của
Phong Lê(19). Tôi chỉ nói tới những chân dung mà bản thân yêu
thích, xem đó là những chân dung quan trọng, được viết kì công
và hay nhất.
Đó là những chân dung Nguyễn Ái Quốc, Nam Cao và Hoài
Thanh - những nhà văn hội tụ đầy đủ phẩm chất của “người khai
phá – tiên phong”, “vị trí hàng đầu” và “giá trị bền vững”. Những
chân dung này được viết đi viết lại nhiều lần và chiếm số trang
khá lớn trong các công trình của Phong Lê từ năm 2001 tới nay.
Ngay trong Lời nói đầu cuốn Văn học Việt Nam hiện đại - những
chân dung tiêu biểu (2001), Phong Lê bầy tỏ lòng “mong muốn
làm sáng tỏ chân dung văn học Hồ Chí Minh trong tầm vóc của
một anh hùng dân tộc và danh nhân văn hoá; người đứng ở đỉnh
cao nền văn thơ cách mạng Việt Nam; người gắn tuyệt vời cả hai
phương diện văn hoá và cách mạng, cả hai yêu cầu cách mạng
hoá và hiện đại hoá”(20). Trong quá trình viết, luận điểm này
được Phong Lê nhấn mạnh nhiều lần, trở thành sợi chỉ đỏ xuyên
suốt những nghiên cứu của anh về Nguyễn Ái Quốc - tác giả Việt
Nam đầu tiên, từ những năm 20 đã góp công đầu vào việc giải
quyết hai yêu cầu lịch sử nói trên, tạo cơ sở để khắc phục những
so le lịch sử giữa dân tộc và thời đại(21). Để thấy được vai trò
lịch sử to lớn này của Nguyễn Ái Quốc đối với văn học dân tộc,
trước khi đi vào phân tích sáng tác của Người, Phong Lê đã khái
quát tình hình mà anh cho là “mâu thuẫn”, khi “văn học công khai,
không có điều kiện đặt trực diện những vấn đề cơ bản của thời
đại, hoặc có lúc chủ tâm tránh, thì mang những đổi mới trong
hình thức; còn văn học cách mạng trực tiếp phô diễn nguyện
vọng cơ bản của quần chúng, thì về hình thức, lại chưa thể hoặc
không đặt yêu cầu phải hướng tới sự cách tân(22). Những tác
phẩm tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc, theo Phong Lê, tránh được
“mâu thuẫn” trên và với sáng tác của Người hai dòng chủ lưu của
văn học 1930-1945 – công khai và cách mạng, vốn tồn tại song
song, đã bắt đầu có sự hoà nhập.
Để chứng minh luận điểm của mình Phong Lê đã đưa ra những
bài viết công phu về sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Ái Quốc, đặc
biệt là Nhật kí trong tù. Tác phẩm này được Phong Lê nghiên cứu
khá kĩ, từ khảo sát văn bản trong cuộc hành trình kéo dài của nó
trước khi tới được tay độc giả, tới những phân tích văn bản, giúp
độc giả có cái nhìn mới về tác phẩm lớn ngày càng có nguy cơ bị
“nhà trường hoá” này. Nhật kí trong tù, trên thực tế, là một tác
phẩm rất khó tiếp cận, bởi đây là một tác phẩm thơ dịch từ tiếng
Hán, dù bản dịch có “đỉnh” tới mức nào, vẫn không thể chuyển tải
hết hồn cốt, tinh thần những bài thơ cũng như vẻ đẹp toát lên từ
sự dung dị, cô đọng của ngôn ngữ viết ra nó… Chính vì vậy khi
đọc những trang tâm huyết của Phong Lê người đọc vẫn muốn
tác giả đi sâu hơn nữa vào phương diện nghệ thuật của tác
phẩm, phát hiện vẻ đẹp của sự đối cực nghệ thuật: tính hiện đại
trong hình thức thơ cổ điển.
Bên cạnh đó, Phong Lê còn dành nhiều công sức và trang viết
cho mảng văn xuôi của Nguyễn Ái Quốc, bởi tìm thấy ở đấy sự
cách tân sáng tạo rõ nét, tính cách mạng và tính hiện đại đan
bện. Tất nhiên, không phải Phong Lê là người đầu tiên đề cập tới
vấn đề này. Ngay từ năm 1960, một người nước ngoài, khi đọc
thơ văn Nguyễn Ái Quốc, đã nhận xét về sự kết hợp giữa một
“cốt cách cổ điển” với những “sáng tạo hiện đại”, giữa truyền
thống và cách tân, giữa phương Đông và phương Tây(23). Một
số chuyên gia khác về Nguyễn Ái Quốc cũng đã có những
chuyên luận, bài viết riêng về vấn đề này. Song, ở Phong Lê, đặc
điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc, với tư cách người đóng vai
trò rút ngắn “những so le của lịch sử”, được nhìn nhận một cách
tổng hợp, gắn với một hệ những vấn đề liên quan tới hai dòng
văn học, công khai và cách mạng, trước hết là vấn đề tiếp nhận
của chủ thể sáng tạo vốn văn hoá nhân loại, truyền thống văn
hoá dân tộc, vấn đề tiếp nhận của người đọc và sự tác động của
văn chương… Trong bài viết dài hơi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh: Hành trình thơ văn - Hành trình dân tộc, Phong Lê đưa ra
nhận xét: “Nguyễn Ái Quốc đã viết với phong cách hiện đại sắc
sảo, chủ yếu cho công chúng chính quốc ở phương Tây. Nguyễn
Ái Quốc đã viết trong ý thức học tập cách viết của Anatôn
Phrăngxơ, Anphôngxơ Đôđe, Lỗ Tấn, Tônxtoi, những truyện kí,
tiểu phẩm “hiện thực” lên án chủ nghĩa thực dân. Nhưng chính
người viết với phong cách hiện đại ấy rồi đây cũng sẽ là người rất
mực giản dị trong cách chọn lời, chọn chữ cho một áng văn chính
trị như Đường Kách mệnh (1927), hoặc chọn thể văn sao cho
thích hợp với đông đảo quần chúng như trong Nhật kí chìm tàu
(1930)”(24). Trong những phần tiếp theo, bên cạnh việc phân tích
tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc gắn với những vấn đề chính trị xã
hội, Phong Lê đã có những trang viết chủ yếu nói về các hình
thức, thể loại đa dạng trong văn xuôi Nguyễn Ái Quốc, trong đó