Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Khai thác mục “có thể em chưa biết” trong chương trình vật lí 8 thcs góp phần nâng cao hiệu quả trong dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 22 trang )

Phần 1. Đặt vấn đề

1. Lý do chọn đề tài

Theo đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa Nhà nước dành khá nhiều
ngân sách cho việc soạn thảo và biên tập SGK và một Hội đồng với nhiều nhà
khoa học giáo dục dưới sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện để cho ra
một bộ SGK đáp ứng mục tiêu. Vì vậy việc làm thế nào để các GV và học sinh sử
dụng và khai thác có hiệu quả kiến thức sách giáo khoa

Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mà thực tế việc sử dụng và
khai thác SGK ở nhiều nơi còn chưa thực sự đạt hiệu quả.

Trong sách giáo khoa, sau mỗi bài học có mục “Có thể em chưa biết”, đây
lại là phần học sinh rất thích đọc và tìm hiểu vì nó đáp ứng được trí tị mị về
những điều chưa biết và những ứng dụng thực tế liên quan đến nội dung bài học...
Tuy nhiên mức độ sử dụng, cách thức khai thác, sử dụng vẫn còn chưa triệt để.

nhiều giáo viên chưa chú trọng khai thác sự tìm hiểu của học sinh khi đọc mục
này.

Trên cơ sở những lý do đã trình bày ở trên và để nâng cao hiệu quả trong
q trình dạy học, đồng thời góp phần phân tích, xây dựng cách khai thác sử dụng
có hiệu quả sách giáo khoa, tôi đã lựa chọn đề tài “Khai thác mục “Có thể em
chưa biết” trong chương trình Vật lí 8 THCS góp phần nâng cao hiệu quả trong
dạy học” với hi vọng cùng đồng chí, đồng nghiệp trao đổi, đóng góp ý kiến để có
những phương pháp xây dựng và thực hiện dạy học một cách có hiệu quả, nâng
cao chất lượng dạy, học môn Vật lý THCS.

2. Tính mới trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm
Khai thác và sử dụng mục “Có thể em chưa biết” chương trình Vật lý 8 vào


tất cả hoạt động dạy học như Khởi động; Hình thành kiến thức; Luyện tập; Vận
dụng và Kiểm tra đánh giá.

Phần 2. Nội dung nghiên cứu

1. Cơ sở lý luận

Môn vật lý ở THCS giúp học sinh đạt được những tiêu chuẩn về kiến thức
và kỹ năng theo chương trình giáo dục phổ thơng và định hướng phát triển năng
lực cho học sinh như: Năng lực tự học; Năng lực giải quyết vấn đề (Đặc biệt quan
trọng là NL giải quyết vấn đề bằng con đường thực nghiệm hay còn gọi là NL thực
nghiệm); Năng lực sáng tạo; Năng lực giao tiếp và hợp tác;...

Sách giáo khoa Vật lý 8 gồm có 2 chương: Cơ học và Nhiệt học. Trong đó,
Mỗi bài đều có cấu trúc chung sau đây:

+ Phần vào bài: Cung cấp thơng tin để GV tổ chức tình huống học tập. Có
thể một hình vẽ, một câu đố, một mẫu chuyện vui…

1

+ Phần chính của bài: Phần chính của bài có từ một đến hai đơn vị kiến
thức. Mỗi đơn vị kiến thức được trình bày dưới dạng định hướng hoạt động theo
trình tự logic như sau:

- Thu thập thông tin.

- Xử lí thơng tin

- Vận dụng: C… Câu hỏi.


C…* Câu hỏi, bài tập khó.

- Ghi nhớ.

+ Phần mở rộng: Chính là mục “Có thể em chưa biết” phần này cung cấp
thêm những ứng dụng thực tế, những nội dung sâu hơn hoặc rộng hơn những nội
dung đã học.

Mục “ có thể em chưa biết” được sắp xếp ở cuối bài học, sau phần ghi nhớ.
Đúng với tên gọi của nó, mục “Có thể em chưa biết” cung cấp những kiến thức
liên quan đến nội dung của bài học mà đa số các em chưa biết, cũng có khả năng
các em đã được biết thơng qua chương trình truyền hình, radio, hay trên internet.
Các kiến thức trong mục “Có thể em chưa biết” rất đa dạng, nó có thể đơn giản chỉ
là thơng tin mở rộng về một loại đơn vị khác được sử dụng trong một lĩnh vực của
đời sống (ví dụ như một loại đơn vị đo của vận tốc - “nút” được dùng trong ngành
hằng hải ), thông tin về giá trị của một số đại lượng, một sự vật hiện tượng xảy ra
trong thực tiễn, vai trò hay ứng dụng của đại lượng vật lý trong đời sống và kĩ
thuật hoặc những câu chuyện lịch sử của vật lý học, …

Có thể nói, mặc dù nội dung mục “Có thể em chưa biết” không quy định bắt
buộc phải đề cập hay giảng dạy trên lớp, tuy nhiên nó có những tác dụng thiết thực
góp phần làm cho bài giảng hay hơn, cuốn hút hơn giống như là những gia vị được
thêm vào món ăn để món ăn thêm hấp dẫn hơn. Hãy tưởng tượng xem món thịt
kho mà khơng có hành thì sức hấp dẫn của nó sẽ giảm đi tới mức nào mặc dù chất
lượng về dinh dưỡng của món ăn không thay đổi nhiều. Đây là phần bài học được
học sinh rất thích đọc vì nó chứa đựng nội dung gợi mở những ứng dụng thiết thực,
hay những hiện tượng lí thú xảy ra trong đời sống, những câu chuyện về các nhà
bác học vĩ đại.


Mục “Có thể em chưa biết” nếu được sử dụng hợp lý thì sẽ giúp học sinh:

+ Kích thích sự ham học hỏi, ham hiểu biết gây hứng thú để học bài mới.

+ Tạo hứng thú đối với bài học cũng như đối với bộ môn.

+ Mở rộng vốn hiểu biết về các vấn đề trong cuộc sống cho học sinh.

+ Kích thích sự tìm tịi, nghiên cứu khoa học trong các em.

+ Biết vận dụng nội dung đã học vào giải thích các hiện tượng tự nhiên.

+ Nắm kiến thức của bài được chắc chắn hơn.

2

2. Cơ sở thực tiễn

Để tìm hiểu về thực trạng khai thác và sử dụng mục “Có thể em chưa biết”
vào nội dung bài học của giáo viên và học sinh tôi đã làm phiếu điều tra 17 GV
đang giảng dạy Vật lý tại các trường THCS trên địa bàn huyện Qùy Châu cùng với
một số trường ở các huyện lân cận và 75 em học sinh lớp 8 tại các lớp 8A1; 8A2;
8A3 trường PTDTNT THCS Quỳ Châu và đạt kết quả như sau:

 Kết quả phiếu điều tra giáo viên:

Câu hỏi Nội dung câu hỏi Tỷ lệ

1 Các thầy (cơ) có hay sử dụng mục “Có thể em chưa 100%


biết” trong quá trình giảng dạy không?

□ Thường xuyên 70,6%

□ Đôi khi 29,4%

□ Ít khi 0%

□ Không sử dụng 0%

2 Các thầy (cô) sử dụng mục “Có thể em chưa biết” để: 100%

□ Đặt vấn đề vào bài mới 100%

□ Xây dựng kiến thức mới 17,6%

□ Củng cố, mở rộng 100%

□ Kiểm tra, đánh giá 0%

□ Giao việc về nhà 100%

□ Đỡ cháy giáo án 35,3%

3 Theo thầy (cơ) mục “Có thể em chưa biết” có cần thiết 100%

không?

□ Rất cần thiết 0%


□ Cần thiết 29,4%

□ Bình thường 70,6%

□ Không 0%

4 Theo thầy (cô) nếu sử dụng mục “Có thể em chưa biết” 100%

có tác dụng cho học sinh:

3

□ Kích thích hứng thú học tập 100%

□ Củng cố, khắc sâu kiến thức 100%

□ Mở rộng vốn hiểu biết 100%

□ Vận dụng kiến thức vào vấn đề mới 17,6%

5 Theo thầy (cơ) mục “Có thể em chưa biết” có phù hợp 100%

với nội dung bài dạy không?

□ Phù hợp 70,6%

□ Đôi khi chưa phù hợp 29,4%

□ Chưa phù hợp 0%


6 Thầy (cơ) có bổ sung, mở rộng thêm mục “Có thể em 100%

chưa biết” để phù hợp nội dung bài dạy không?

□ Thường xuyên 11,7%

□ Thỉnh thoảng 35,3%

□ Không 53%

7 Thầy (cô) đánh giá thế nào về hiệu quả sử dụng “Có 100%

thể em chưa biết” trong việc nâng cao chất lượng dạy

học Vật lý ở trường THCS?

□ Không hiệu quả 0%

□ Hiệu quả không đáng kể 59%

□ Có hiệu quả 35,3%

□ Có hiệu quả cao 5,7%

Để tìm hiểu đánh giá của giáo viên về vai trò của việc sử dụng phần “có thể
em chưa biết” trong giảng dạy, tôi đã hỏi câu hỏi:

Theo thầy (cơ) mục “Có thể em chưa biết”có cần thiết không? Với câu hỏi
này, đa số giáo viên được hỏi cho rằng mức độ cần thiết (29,4%), 70,6% giáo viên
cho rằng là bình thường, khơng có giáo viên nào cho rằng nó rất cần thiết cũng như

là khơng cần thiết tức là khơng có giáo viên nào tuyệt đối hóa vai trị cũng như là
khơng chú ý tới vai trị của nó.

Để tìm hiểu khả năng sử dụng mục “Có thể em chưa biết” trong từng bài dạy
và trong cả quá trình, chúng tơi đã hỏi câu hỏi: Thầy (cơ) đánh giá thế nào về hiệu
quả sử dụng “Có thể em chưa biết” trong việc nâng cao chất lượng dạy học Vật lý

4

ở trường THCS? Phần lớn giáo viên cho rằng hiệu quả sử dụng là không đáng kể
so với việc không sử dụng (59%), cịn một số ít giáo viên đánh giá là có hiệu quả
(35,3%), từ đó có thể dự đoán rằng cách thức sử dụng phần này của giáo viên chưa
hợp lý để có thể khai thác hết vai trị của nó. Với câu hỏi: Theo thầy (cơ) nếu sử
dụng mục “Có thể em chưa biết” có tác dụng gì cho học sinh? Tất cả các giáo viên
được hỏi đều cho rằng nó kích thích hứng thú học tập; củng cố, khắc sâu kiến thức
cho học sinh và mở rộng vốn hiểu biết cho các em. Có ít giáo viên cho rằng nó
giúp để vận dụng vào vấn đề mới.

Để tìm hiểu mức độ và cách thức sử dụng mục “Có thể em chưa biết”,
chúng tôi đã đặt câu hỏi 1: Các thầy (cơ) có hay sử dụng mục “Có thể em chưa
biết” trong q trình giảng dạy khơng? và câu hỏi 2: Các thầy (cơ) sử dụng
mục“Có thể em chư em chưa biết”a biết” để:t” để em chư:

□ Đặt vấn đề vào bài mới

□ Xây dựng kiến thức mới

□ Củng cố, mở rộng

□ Kiểm tra, đánh giá


□ Giao việc về nhà

□ Đỡ cháy giáo án

Với câu hỏi 1, phần lớn giáo viên cho biết đã thường xuyên sử dụng nó
(70,6%) và có một số giáo viên ít khi sử dụng (29,4%). Điều này là phù hợp với
mức độ nhận thức của giáo viên về vai trò của nó. Khi đã nhận thức vai trị của
phần “Có thể em chưa biết” thì giáo viên sẽ thường xuyên sử dụng nó. Và đa số
giáo viên đã sử dụng nó để đặt vấn đề vào bài mới, củng cố mở rộng và giao việc
về nhà. Tuy nhiên cũng có khơng ít giáo viên sử dụng nó nhằm mục đích để đỡ
cháy giáo án, tức khi còn thừa thời gian thì cho học sinh đọc nếu khơng thì khơng
đề cập đến nó. Rất ít giáo viên (17,6%) sử dụng nó để xây dựng kiến thức mới.

Để tìm hiểu khả năng phân tích so sánh của giáo viên về phần “Có thể em
chưa biết” với nội dung bài dạy, chúng tôi đặt câu hỏi: Theo thầy (cơ) mục “Có thể
em chưa biết”có phù hợp với nội dung bài dạy không? Phần lớn giáo viên (70,6%)
cho rằng nội dung là phù hợp. Điều này cũng dễ hiểu vì việc đưa những nội dung
vào trong SGK đã được một hội đồng các nhà khoa học giáo dục nghiên cứu, thẩm
định. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên – kinh tế, điều kiện vùng, miền, điều kiện
văn hóa, xã hội mà có thể có những nội dung chưa được phù hợp với hầu hết tất cả
các đối tượng học sinh. Và cũng do SGK được sử dụng trong nhiều năm, nên có
thể ở những hồn cảnh mới, điều kiện mới mà những vấn đề trở nên xưa, cũ cần
được bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp. Điều đó cũng được thể hiện thơng qua câu
hỏi tìm hiểu ý kiến giáo viên có bổ sung, mở rộng cho phù hợp thì có 47% giáo
viên được hỏi có chỉnh sửa và bổ sung, cịn trên 50% giáo viên khơng bổ sung,

5

chỉnh sửa mặc dù có thể họ cho rằng chưa phù hợp. Lý do có thể việc ngại cập

nhật, đổi mới, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin hạn chế,…

Như vậy, thông qua 7 câu hỏi thăm dò ý kiến giáo viên về mục “Có thể em
chưa biết” cho thấy giáo viên nhận biết vai trị của nó góp phần kích thích hứng thú
học tập, kích thích sự say mê, tìm tịi, khám phá chiếm lĩnh tri thức của học sinh từ
đó nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên mức độ sử dụng, cách thức khai thác,
sử dụng vẫn còn chưa triệt để.

 Kết” để:t quả điều t điều tra hu tra học sinhc sinh

Câu hỏi Nội dung câu hỏi Tỷ lệ

1 Em có hay đọc mục “Có thể em chưa biết” trong sách 100%

giáo khoa không?

□ Thường xuyên 38,2%

□ Thỉnh thoảng 24,6%

□ Ít khi 29,5%

□ Không đọc 7,7%

2 Đọc mục “Có thể em chưa biết”, em cảm thấy thế nào? 100%

□ Rất thích, rất lơi cuốn 38,2%

□ Bình thường 48,3%


□ Khơng thích. 13,5%

3 Đọc mục “Có thể em chưa biết” giúp em: 100%

□ Hiểu bài hơn 28%

□ u thích mơn học hơn 26,8%

□ Thu nhận nhiều kiến thức 25,5%

□ Cảm thấy bài học đỡ nhàm chán 17,8%

□ Khơng giúp được gì. 1,9%

4 Em đọc mục “Có thể em chưa biết” khi nào? 100%

□ Trên lớp, trong tiết học vật lý khi cô yêu cầu 29%

□ Trên lớp, trong tiết học vật lý ngay cả khi cô 33,6%
không yêu cầu

□ Ở nhà, sau khi đã học bài trên lớp 7,4%

□ Ở nhà, trước khi học bài mới trên lớp. 30%

6

+ Tỷ lệ đọc mục “Có thể em chưa biết” trong SGK thường xuyên (38,2%),
thỉnh thoảng (24,6%). Đa số các em cảm thấy hứng thú, lôi cuốn trong khi đọc
(38,2%). Việc đọc phần đó giúp các em thu nhận nhiều kiến thức (25,5%); u

thích mơn học hơn (26,8%); hiểu bài hơn (28%). Và phần lớn các em đọc phần đó
ở trên lớp trong tiết học vật lý ngay cả khi cô yêu cầu (29%) và cô không yêu cầu
(33,6%) hoặc các em đọc ở nhà trước khi học bài mới trên lớp (30%). Chứng tỏ
các em cũng quan tâm nhất định tới mục “Có thể em chưa biết”, các em cũng
muốn khám phá, tìm tịi những vấn đề mà các em khơng biết. Vì vậy việc mở rộng,
khác thác mục “ Có thể em chưa biết” vào nội dung bài học rất thiết thực. Nó góp
phần kích thích trí tị mị, nghiên cứu, hứng thú lôi cuốn tiếp thu kiến thức mới
cũng như củng cố kiến thức. Các em tự giác đọc, hiểu, tìm tịi phần đó ngay cả khi
thầy cơ khơng u cầu. Thậm chí các em cịn đọc trước khi học bài mới trên lớp.
Đây cũng là một thuận lợi nếu như chúng ta khai thác mục “Có thể em chưa biết”
vào nội dung bài học chính. Việc khai thác phần này vào dạy học cũng cần phải
làm thế nào cho hợp lý, cho phù hợp với nội dung bài học, vừa truyền đạt, củng cố
được kiến thức cho các em, vừa mở rộng nhiều kiến thức cho các em. Đồng thời
vẫn đảm bảo thời gian trên lớp. Không nên cho quá nhiều như thế sẽ thiếu thời
gian hoặc không nên cho q ít như thế thì chưa truyền đạt được điều mình mong
muốn cho các em.

Căn cứ vào thực trạng khai thác và sử dụng mục “Có thể em chưa biết” vào
nội dung bài học của giáo viên và học sinh chúng ta cần tìm ra những biện pháp tối
ưu nhất để sử dụng có hiệu quả mục “Có thể em chưa biết” vào việc dạy học trong
chương trình vật lý THCS.

3. Xây dựng, sử dụng và khai thác mục “Có thể em chưa biết” chương
trình Vật lý 8

3.1. Khai thác mục “Có thể em chưa biết” chương trình Vật lí 8.

Vì nội dung của mục “Có thể em chưa biết” bao gồm kiến thức thuộc nhiều
lĩnh vực, chứa đựng các kiến thức thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau và ở nhiều
cấp độ khác nhau. Vì tính đa dạng của nội dung nên GV sẽ phải biết cách khai thác

nó một cách phù hợp. Ví dụ, nó có thể là một câu chuyện hay truyền thuyết
(Truyền thuyết về Ác-si-mét) nếu giáo viên chỉ dùng máy tính trình chiếu nội dung
lên màn hình cho học sinh đọc hay cho học sinh về nhà đọc thì sẽ khơng khai thác
được sự kích thích tính ham học của học sinh thơng qua câu chuyện thay vì bằng
cách dùng lối kể chuyện lơi cuốn, hấp dẫn kết hợp với những hình ảnh trình chiếu
trên màn hình về nhà bác học, về hình ảnh minh họa cách dùng lực đẩy Ác-si-mét
để chứng minh chiếc vương miện của nhà vua khơng làm bằng vàng ngun chất
mà có pha bạc. Và từ đó GV cũng có thể cho học sinh đóng vai nhà bác học để
trình bày cách chứng minh. Với mục “Có thể em chưa biết” có thể là các bảng giá

7

trị của một đại lượng vật lí. Nếu chỉ nhìn các con số mà khơng có các phân tích,
nhận xét đánh giá thì sẽ khơng có nhiều ý nghĩa đối với bài học....

3.2. Lựa chọn cách sử dụng mục “Có thể em chưa biết” vào tiến trình dạy
học

Để đảm bảo tính logic, khoa học, hợp lí về mặt khối lượng kiến thức, thời
lượng, thời gian phân phối cho từng bài dạy nên nội dung của mục “có thể em chưa
biết” trong sách giáo khoa chỉ là những vấn đề được chọn lọc, tiêu biểu. Tuy nhiên
giáo viên hồn tồn có thể lựa chọn những vấn đề, nội dung khác khơng có trong
nội dung sách giáo khoa - tương tự như mục “Có thể em chưa biết” để sử dụng
cho một tiến trình nào đó của bài dạy.

Trên cơ sở nắm được mục tiêu của bài học, lựa chọn phương pháp giảng
dạy, phương tiện sử dụng, và lựa chọn nội dung vấn đề với mức độ “có thể em
chưa biết” giáo viên có thể sử dụng vào các tiến trình khác nhau của bài dạy, cụ thể
là:


+ Khởi động bài học

+ Hình thành kiến thức mới

+ Luyện tập, vận dụng

+ Tìm tịi mở rộng

+ Kiểm tra đánh giá

Tuy nhiên để sử dụng mục “Có thể em chưa biết” vào bài học có hiệu quả
trước tiên tơi phải tìm hiểu, nghiên cứu kĩ mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái độ
và định hướng phát triển năng lực cho học sinh trong mỗi bài. Đọc và nghiên cứu
mục “Có thể em chưa biết” ở mỗi bài (nếu có) để biết phần đó mở rộng kiến thức
cho cả bài hay chỉ cho một nội dung trong bài. Từ đó, biên soạn sử dụng phần đó
vào mục đích gì trong mỗi bài. Ví dụ:

3.2.1. Khởi động bài mới hoặc mục mới tạo hứng thú cho học sinh

Bài 3: “Chuyển động đều- Chuyển động không đều”

Một số vận tốc trung bình:

Con rùa: 0,055m/s (0,2km/h)

Người đi bộ: 1,5m/s (5,4km/h)

Tàu hỏa: 15m/s (54km/h)

Tàu điện ngầm nhanh nhất (Trung Quốc): 135km/h


Âm thanh trong khơng khí: 340m/s

Ánh sáng trong khơng khí: 3.10 8 m/s

(Có hình ảnh minh họa kèm theo)

8

Vậy có phải lúc nào các phương tiện đó cũng đi với vận tốc như vậy không?
Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu bài 3”

Bài 5 : “Sự cân bằng lực – Quán tính"

Dưới tác dụng của trọng lực, con người và mọi sinh vật khác trên Trái Đất
đều chuyển động theo Trái Đất. Ở gần xích đạo vận tốc của chuyển động này là
khoảng 465m/s (khoảng 1674km/h). Hãy tưởng tượng nếu khơng cịn lực hút của
Trái Đất thì con người và mọi sinh vật khác sẽ như thế nào? Khi đó do quán tính
con người và mọi sinh vật ở vùng xích đạo sẽ bị văng ra khỏi Trái Đất và chuyển
động thẳng đều với vận tốc 1674km/h, nghĩa là bằng vận tốc của một máy bay
phản lực chiến đấu. Tất nhiên, đây chỉ là tưởng tượng thơi! Vậy qn tính là gì?

Và vì sao đó chỉ là tưởng tượng. Chúng ta cùng tìm hiểu bài 5

(Có hình ảnh minh họa kèm theo)

Bài 9: “Áp suất khí quyển”

Càng lên cao khơng khí càng lỗng nên áp suất khí quyển càng giảm. Với
những độ cao khơng lớn lắm thì cứ lên cao 12m, áp suất khí quyển lại giảm khoảng

1mmHg. Dựa vào mối liên hệ giữa độ cao và áp suất khí quyển, người ta chế tạo ra
một loại dụng cụ đo áp suất khí quyển để suy ra chiều cao gọi là “cao kế”. Cao kế
được dùng khi leo núi, trong máy bay, trong các khí cầu…

Áp suất khí quyển tại một nơi thay đổi theo thời gian và những thay đổi này
ảnh hưởng tới thời tiết của nơi đó.

Các trạm khí tượng được trang bị các máy tự động ghi áp suất của khí quyển
sau những khoảng thời gian xác định.

- Một số hình ảnh bổ sung cho các câu hỏi phần vận dụng

Bài 10: “Lực đẩy Ác-Si-Mét”

- Truyền thuyết về Ác-si-mét

Nhà vua Hê-rôn xứ Si-ra-cuýt (306 – 215 TCN) giao vàng cho một người
thợ kim hoàn để làm cho nhà vua một cái vương miện đặc. Nhà vua nghi ngờ
người thợ đã ăn bớt vàng nên giao cho Ác-si-mét kiểm tra xem người thợ có pha
bạc vào vàng để làm vương miện không. Ác-si-mét ngày đêm lo lắng, suy nghĩ làm
thế nào để thực hiện được việc nhà vua giao.

Một hôm, trong khi đang nằm trong bồn tắm đầy nước, ông chợt phát hiện ra
rằng khi nhấn chìm người trong nước càng nhiều thì lực đẩy ơng lên càng mạnh.
Từ đó, ông thấy được cách giải quyết bài toán về chiếc vương miện của nhà vua.
Ông nhảy khỏi bồn tắm và cứ thế trần truồng chạy ra đường, vừa chạy vừa kêu :
“Ơ rê ca ! Ơ rê ca !” (tìm ra rồi). (Có hình ảnh minh họa kèm theo)

Vậy ông đã làm thế nào để phát hiện ra?


Bài 20: Nguyên tử, phân tử chuyển động hay đứng yên?

9

Ở nhiệt độ 00c các phân tử hiđrô chuyển động với vận tốc trung bình khoảng
1700m/s, nghĩa là khoảng 6120 km/h, nhanh gấp hơn năm lần các máy bay phản
lực hiện đại.

Các phân tử khí chuyển động trong phịng với vận tốc trung bình từ 100m/s
đến 2000 m/s. Tại sao khi mở lọ nước hoa ở đầu lớp thì phải vài giây sau ở cuối
lớp mới ngửi thấy mùi nước hoa? Đó là vì, các phân tử nước hoa không chuyển
động thẳng từ đầu lớp đến cuối lớp, mà chuyển động dích dắc từng đoạn rất ngắn
do bị va chạm vào các phân tử khơng khí, giống như một người đi trong đám đông,
hết chạm phải người này lại va phải người kia. (Có hình ảnh minh họa). Vậy sự va
chạm đó phụ thuộc vào những yếu tố nào, ta đi tìm hiểu phần III.

Bài 23: Đối lưu – Bức xạ nhiệt

Phích (bình thủy) là một bình thủy tinh hai lớp. Giữa hai lớp thủy tinh này là
chân không để ngăn cản sự dẫn nhiệt. Hai mặt đối diện của hai lớp thủy tinh được
tráng bạc để phản xạ các tia nhiệt trở lại nước đựng trong phích. Phích được đậy
nút thật kín. Vậy vì sao phích giữ được nước nóng lâu dài? Hay đèn kéo quân quay
được là nhờ đâu? Để trả lời câu hỏi này ta cùng tìm hiểu bài hơm nay (Có hình ảnh
minh họa).

Bài 25: Phương trình cân bằng nhiệt

Cơ thể con người tuy khơng ngừng truyền nhiệt với mơi trường bên ngồi
nhưng ln luôn giữ nhiệt độ không đổi vào khoảng 370C dù nhiệt độ bên ngồi có
thể giảm xuống dưới 00C hoặc tăng lên trên 500C. Nhiệt từ cơ thể con người có thể

truyền ra bên ngồi bằng nhiều cách trong đó có dẫn nhiệt, đối lưu và bức xạ.
Trung bình cơ thể con người tỏa ra mơi trường bên ngồi dưới dạng nhiệt khoảng
17% năng lượng mà người đó tỏa ra được. Nếu trời ẩm thì tỉ lệ này tăng lên. (Có
hình minh họa)

3.2.2. Xây dựng kiến thức mới

Bài 1: Chuyển động cơ học

- Trong các em có thể có nhiều người cho rằng chuyển động của đầu van xe
đạp là đơn giản vì đó là chuyển động trịn xung quanh trục bánh xe. Thực ra không
đơn giản như vậy vì đầu van xe đạp vừa chuyển động trịn xung quanh trục bánh
xe, vừa cùng với xe đạp chuyển động thẳng trên đường. Như vậy việc chọn vật làm
mốc không những quyết định tính chất đứng yên hay chuyển động của một vật mà
cịn quyết định nhiều tính chất khác nữa của chuyển động.

Bài 12 : Sự nổi

Tàu ngầm là loại tàu có thể chạy ngầm dưới mặt nước. Phần đáy tàu có
nhiều ngăn, có thể dùng máy bơm để bơm nước vào hoặc đẩy nước ra. Nhờ đó,
người ta có thể làm thay đổi trọng lượng riêng của tàu để làm cho tàu lặn xuống, lơ
lửng trong nước hoặc nổi lên trên mặt nước. Vậy vì sao tàu có thể lặn, lơ lửng hoặc
nổi trên mặt nước được? chúng ta tìm hiểu bài 12

10

Bài 16 : Cơ năng

Độ lớn của một số giá trị động năng


Động năng của Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời : 2,7.1033J

Động năng của vệ tinh quay trên quỹ đạo: 3.10 9 J

Động năng của cầu thủ bóng đá đang chạy : 4500J

Động năng của con ong đang bay : 0,002J

Động năng của con sên đang bò : 0,0000001J

Bài 24: Cơng thức tính nhiệt lượng

Để xác định nhiệt lượng trong phịng thí nghiệm, người ta dùng một dụng cụ
riêng gọi là nhiệt lượng kế. Nhiệt lượng kế là một bình hai vỏ, ở giữa có một lớp
khơng khí để ngăn cản sự truyền nhiệt của các chất đặt trong bình với mơi trường
bên ngồi. Trong bình có một nhiệt kế và 1 que khuấy. (Có hình ảnh minh họa).
Vậy muốn xác định nhiệt lượng mà không cần dùng dụng cụ đo thì ta làm thế nào?
Tìm hiểu bài 24

3.2.3. Luyện tập, vận dụng và mở rộng kiến thức

Bài 2 : Vận tốc

- Trong hàng hải, người ta thường dùng “nút” làm đơn vị đo vận tốc. Nút là
vận tốc của một chuyển động mỗi giờ đi được 1 hải lí. Biết độ dài của 1 hải lí là
1,852km ta dễ dàng tính được nút ra km/h và m/s : 1nút = 1,852km/h = 0,525m/s.

Các tàu thủy có lắp cánh ngầm lướt trên sóng rất nhanh nhưng cũng khơng mấy tàu
vượt qua được vận tốc 30 nút.


- Vận tốc ánh sáng là 300000km/s. Trong vũ trụ, khoảng cách giữa các thiên
thể là rất lớn, vì vậy trong thiên văn người ta hay biểu thị những khoảng cách đó
bằng “năm ánh sáng”. Năm ánh sáng là quãng đường ánh sáng truyền đi trong thời
gian một năm.

Một năm ánh sáng ứng với khoảng cách bằng:

3.105.365.24.3600 = 9,4608.1012km.

Trong thiên văn, người ta lấy tròn một năm ánh sáng bằng 1016m

(10 triệu tỉ mét).

Thế mà khoảng cách từ Trái Đất tới ngôi sao gần nhất cũng lên tới 4,3 năm ánh
sáng!

Bài 6: Lực ma sát

- Ma sát có ý nghĩa quan trọng trong thực tế. Nó có thể có hại nhưng cũng có
thể có ích. Do đó, ta cần biết cách làm giảm cũng như làm tăng ma sát. Nhờ dầu
mỡ bôi trơn, ma sát trượt giảm từ 8 đến 10 lần. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp

11

lực ma sát vẫn cịn lớn và cần có giải pháp giảm lực này. Để giảm ma sát người ta
phát minh ra các ổ trục, ổ bi lăn, chúng có tác dụng giảm ma sát từ 20 đến 30 lần.
(hình ảnh)

- Hãy thử hình dung bỗng nhiên ma sát biến mất thì hiện tượng gì sẽ xảy ra?
Ta khơng đứng vững, cũng khơng ngồi vững được. Sách vở, đồ đạc rất khó nằm

yên trên bàn. Ta khơng cầm nổi vật gì trên tay vì mọi cái đều trơn tuột. Đinh rời
khỏi tường. Sợi không kết thành vải. Người và động vật không đi lại được. Xe
không chạy được. Vật nào đang chuyển động thì sẽ chuyển động mãi mãi. (Hình
ảnh)

Bài 7 : Áp suất

Áp suất ánh sáng là áp suất mà ánh sáng tác dụng lên vật được rọi sáng. Áp
suất này rất bé, cỡ một phần triệu Pa. Năm 1899, nhà vật lí Lê-bê-đép ( người Nga)
lần đầu tiên đã đo được áp suất ánh sáng bằng thí nghiệm rất tinh vi. Chính áp suất
của ánh sáng mặt trời đã làm cho đuôi sao chổi bao giờ cũng hướng từ phía Mặt
Trời ra.

(Giải thích sự hình thành đi sao chổi: Khi sao chổi tiến về gần Mặt Trời,
bức xạ điện từ của Mặt Trời khiến các lớp băng bên ngồi bắt đầu thăng hoa. Dịng
bụi và khí bay ra tạo nên "bầu khí quyển" lỗng bao quanh sao chổi gọi là phần
đầu sao chổi. Khi khoảng cách đến mặt trời thu hẹp, dưới tác động của áp suất bức
xạ và gió Mặt Trời, “bầu khí quyển” được kéo dài ra tạo hai đi bụi và khí riêng
rẽ ở hai phương hơi lệch nhau trong đó đi bụi cong theo đường cong của quỹ
đạo do các hạt bụi có khối lượng lớn nên ít chịu lực tác động của gió mặt trời trong
khi đi khí (gồm các khí đã bị ion hóa) gồm các hạt ion nhẹ chịu nhiều ảnh hưởng
của gió Mặt Trời và bị thổi theo phương thẳng đến Mặt Trời rồi đi theo đường sức
từ trong khơng gian. Hạt nhân sao chổi có thể được coi như những hạt vật thể đen
nhất trong hệ mặt trời (có thể có độ phản xạ ánh sáng thấp hơn so với nhựa đường)
và gồm những khoáng chất nặng và chất hữu cơ cao phân tử. Phần đầu sao chổi có
thể lớn hơn cả Mặt Trời. Đi sao chổi có thể kéo dài tới hàng đơn vị thiên văn.

Bài 8 : Áp suất chất lỏng – Bình thơng nhau

Theo nguyên lí Pa-xcan, chất lỏng chứa đầy một bình kín có khả năng

truyền ngun vẹn áp suất bên ngồi tác dụng lên nó. Đặc điểm này được sử dụng
trong các máy dùng chất lỏng.

Khi tác dụng một lực f lên pit-tơng nhỏ có diện tích s, lực này gây áp suất p = f/s

lên chất lỏng. Áp suất này được chất lỏng truyền nguyên vẹn tới pit-tơng lớn có

diện tích S và gây nên lực nâng F lên pit-tông này :
suy ra Ff  Ss .
F  p.S  f .S
s

Như vậy pit-tông lớn có diện tích lớn hơn pit-tơng nhỏ bao nhiêu lần thì lực

nâng F có độ lớn hơn lực f bấy nhiêu lần. Nhờ đó mà có thể dùng tay để nâng cả

một chiếc ôtô.

12

Bài 10: Lực đẩy Ác-Si-Mét

- Phần ghi nhớ được đóng khung ở trên khơng chỉ được áp dụng đối với chất
lỏng mà còn được áp dụng cả đối với chất khí. Điều này giải thích tại sao những
quả bóng hoặc khí cầu được bơm một lọai khí nhẹ hơn khơng khí có thể bay được.

Bài 13 : Công cơ học

Công của trái tim


Bằng các phép đo và phép tính người ta xác định được cơng của trái tim.
Trung bình mỗi giây trái tim của người thực hiện một công khoảng 0,12 J để bơm
khoảng 90cm3 máu nuôi cơ thể.

Các em đừng vội nghĩ công của trái tim là quá bé nhỏ! Vì trái tim phải làm
việc liên tục khơng ngừng nên trong một ngày, trung bình nó thực hiện một cơng
lên tới 10368J để bơm 7776 lít máu ni cơ thể. Nếu một người chỉ sống có 70
năm thơi thì trái tim người đó đã thực hiện một công không dưới 260 000 000J để
bơm khoảng 200 000 000 lít máu ni cơ thể.

Nếu biết với công 260 000 000J người ta có thể nâng một chiếc xe ơ tơ 2,5
tấn lên cao 10 000m (10km), thì các em sẽ thấy trái tim của chúng ta “vất vả” biết
chừng nào!

Bài 15: Công suất

Để đo cơng suất, ngồi oát, người ta còn dùng đơn vị khác nữa là mã lực
(sức ngựa). Mã lực là đơn vị cũ để đo cơng suất, trước đây rất thơng dụng, nay ít
dùng. Một mã lực Pháp (kí hiệu CV) xấp xỉ bằng 736W, cịn một mã lực Anh (kí
hiệu là HP) xấp xỉ bằng 746W.

Công suất của tên lửa đẩy con tàu vũ trụ Phương Đông chở nhà du hành vũ trụ đầu
tiên của Trái Đất Ga-ga-rin, công dân Liên Xô là 15 000MW.

Công suất của con người khi lao động chân tay trong nhưng điều kiện bình thường
trung bình vào khoảng từ 70 đến 80W. Khi đi bộ, công suất trung bình của người
là 300W. Khi chạy thi 100m, cơng suất của vận động viên có thể lên tới 730W.

Nước ta có nhiều nhà máy thủy điện. Hiện nay, nhà máy thủy điện Hịa Bình có
cơng suất lớn nhất là 1 920MW.


Bài 17: Sự chuyển hóa và bảo tịan năng lượng

Các nguồn nước ở trên cao có thế năng rất lớn. thế năng này có thể chuyển
hóa thành động năng làm quay các máy phát điện. Hiện nay, người ta mới sử dụng
chưa tới 10% nguồn năng lượng dự trữ khổng lồ này. Gió có động năng rất lớn, là
nguồn năng lượng sạch và rẻ tiền. Nếu con người tận dụng được hết động năng của
gió thì gió có thể cung cấp cho con người năng lượng còn lớn hơn năng lượng do
nước cung cấp. Từ xưa, người ta đã biết sử dụng động năng của gió để chạy các
cối xay gió.

13

Bài 19: Các chất được cấu tạo như thế nào?

Khối lượng của Trái Đất lớn hơn khối lượng của quả cam bao nhiêu lần thì
khối lượng của quả cam lớn hơn khối lượng của phân tử Hiđrô bấy nhiêu lần.

Nếu xếp một trăm triệu phân tử nước nối liền nhau thành một hàng thì cũng chưa
dài đến 2cm.

Nếu tưởng tượng mỗi vật đều lớn lên gấp một triệu lần, nghĩa là một con
muỗi sẽ trở thành một con vật khổng lồ dài tới 10km thì kích thước của mỗi phân
tử vẫn chưa lớn bằng một dấu chấm (.)(Có hình ảnh minh họa).

Bài 21: Nhiệt năng

Phải mất nhiều thế kỉ, con người mới trả lời được câu hỏi về bản chất của
nhiệt là gì? Vào đầu thế kỉ thứ XVIII, người ta cho rằng nhiệt là một chất đặc biệt
gọi là “chất nhiệt”. Đó là một chất lỏng vơ hình, khơng có trọng lượng, thấm sâu

vào mọi vật và có thể truyền dễ dàng từ vật này sang vật khác. Thuyết chất nhiệt có
thể giải thích được một số hiện tượng nhiệt trong đó có sự truyền nhiệt, nhưng
khơng giải thích được hiện tượng khác trong đó có hiện tượng thay đổi nhiệt năng
bằng cách thực hiện công.

Đồng thời với thuyết chất nhiệt cịn có thuyết cho rằng bản chất của nhiệt là
do chuyển động của các hạt vật chất. Trong số những người ủng hộ thuyết này có
các nhà vật lý nổi tiếng như Niu-tơn (người Anh), Ma-ri-ôt (người Pháp), Lô-mô-
nô-xốp (người Nga), Jun (người Anh). Tuy nhiên phải chờ đến đầu thế kỉ XI, khi
thuyết về vật chất được cấu tạo từ các nguyên tử, phân tử ra đời người ta mới công
nhận bản chất của nhiệt là do chuyển động của các hạt vật chất cấu tạo nên vật.
(Có hình ảnh minh họa).

Bài 22: Dẫn nhiệt

Nết” để:u coi khả điều t năng dẫn ng dẫn nhiệtn nhiệt của kt của khônga không khí là 1 thì 1 thì khả điều t năng dẫn ng dẫn nhiệtn nhiệt của kt
của khônga một số cht số chất n chất như st nhưa biết” sau:

Chất Khả năng dẫn nhiệt Chất Khả năng dẫn nhiệt

Len 2 Nước đá 88
Thép 2860
Gỗ 7 Nhôm 8770
Đồng 17370
Nước 25 Bạc 17720

Thủy tinh 44

Đất 65


Bài 24: Công thức tính nhiệt lượng

Trong kĩ thuật và đời sống, người ta còn dùng calo làm đơn vị nhiệt lượng.
Calo là nhiệt lượng cần thiết để làm cho 1 gam nước ở 4 0C nóng lên thêm 10C.
Như vậy, 1 calo = 4,2 jun.

14

3.2.4. Kiểm tra, đánh giá mức độ sáng tạo của học sinh

Bài 14 : Định luật về công

Trong thực tế, ở các máy cơ đơn giản bao giờ cũng có ma sát. Vì vậy, cơng

mà ta phải tốn (A2) để nâng vật lên bao giờ cũng lớn hơn công (A1) dùng để nâng

vật khi khơng có ma sát, đó là vì phải tốn một phần cơng để thắng ma sát.
Cơng A2 là cơng tồn phAần. Cơng A1 là cơng có ích. Tỉ số AA1 gọi là hiệu suất của
máy, kí hiệu là H : H  1 100% 2

A2
Vì A2 ln lớn hơn A1 nên hiệu suất ln nhỏ hơn 100%.

Từ đó đưa ra các bài tập liên quan đến hiệu suất của máy

Bài 22: Dẫn nhiệt

Nếu có ai nói là tóc đốt khơng cháy thì chắc các em khơng tin. Nhưng các
em thử làm thí nghiệm sau: Lấy một sợi tóc cuốn chặt quanh một que sắt dài rồi
dùng diêm đốt, tóc khơng cháy, chỉ có que sắt nóng lên thơi. Nếu cuốn tóc quanh

một thanh tủy tinh hoặc gỗ thì khi đốt, tóc sẽ cháy ngay. Hãy giải thích tại sao?
Yêu cầu HS về nhà làm và giải thích.

Bài 24: Cơng thức tính nhiệt lượng

Nhiệt dung riêng của đất nhỏ hơn nhiệt dung riêng của nước nhiều lần. Do
đó, ban ngày khi nhận được bức xạ nhiệt từ Mặt trời, đát liền nóng lên nhanh hơn
nước biển. kết quả là khơng khí trên mặt đất nóng lên, nhẹ đi, bay lên cao cịn
khơng khí từ ngồi biển lạnh hơn di chuyển vào đất liền tạo nên gió biển. hãy giải
thích tại sao về đêm gió lại thổi rừ đất liền ra biển? (Có hình ảnh minh họa)

3.2.5. Soạn thảo tiến trình dạy học bài có sử dụng và khai thác mục “Có
thể em chưa biết”

Trên cơ sở phân tích vai trị, cách thức khai thác và sử dụng của mục “Có
thể em chưa biết” vào bài giảng, tơi đã thiết kế bài giảng “Áp suất khí quyển” –
Bài 9 – Vật lí 8 có với tiêu chí khai thác và sử dụng hợp lý mục “Có thể em chưa
biết ”. Hình ảnh của bài giảng:

Slide 1: Kiểm tra bài cũ Slide 2: Giới thiệu bài mới

Slide 3: GV sử dụng video thí nghiệm Slide4: Giới thiệu về bầu khí quyển
15

tạo tình huống có vấn đề. (Khai thác
phần “Có thể em chưa biết” đặt vấn đề
vào bài mới)

Giáo viên làm thí nghiệm thực tế


Slile 5: Ngun nhân có áp suất khí Slile 6: Áp suất khí quyển tác dụng lên

quyển Trái Đất theo mọi phương.

Slide 7: Thí nghiệm 1 Slide 8: Thí nghiệm 2

Slide 9: Thí nghiệm 2 Slide 10: Thí nghiệm 3

16

Slide 11: Thí nghiệm 3 Slide 12: Thí nghiệm 3

Slide 13: Thí nghiệm với núm cao su Slide 14: Thí nghiệm với núm cao su
chứng tỏ sư tồn tại của áp suất khí quyển chứng tỏ sư tồn tại của áp suất khí

quyển

Slide 15: Giải thích phần đặt vấn đề Slide 16: Ví dụ (Sử dụng phần “Có thể
em chưa biết” thông qua các hình ảnh)
để mở rộng kiến thức cho học sinh.

Slide 17: Vận dụng Slide 18: Trị chơi ơ chữ

17

Slide 19: Ghi nhớ Slide 20: Khai thác, có bổ sung phần
“Có thể em chưa biết” trong SGK.
SGK chỉ nêu thông tin sự giảm mật độ
khơng khí khi lên cao dẫn đến áp suất
khí quyển giảm theo độ cao và thể hiện

bằng số liệu độ lớn áp suất khí quyển
ứng với các độ cao so với mặt nước
biển trên bảng 9.1 và giới thiệu tên của
thiết bị đo áp suất theo độ cao là cao
kế. Ở đây chúng tôi đã bổ sung một
đoạn video mô phỏng sự thay đổi áp
suất theo độ cao một cách trực quan.

Slide 21: Hình ảnh video mơ phỏng sự Slide 22: Khai thác có bổ sung phần

thay đổi áp suất theo độ cao “có thể em chưa biết” bằng hình ảnh

trạm khí tượng Láng.

Slide 23: Hướng dẫn về nhà Slide 24: Kết thúc bài

18

4. Hiệu quả mang lại của sáng kiến

Để tìm hiểu hiệu quả của việc sử dụng mục “Có thể em chưa biết”, tơi đã
biên soạn và sử dụng mục “Có thể em chưa biết” trong dạy học vật lý 8, giảng dạy
bộ môn Vật lý 8 tại trường bản thân đang công tác.

Thu đưa biết”ợc kết qc kết” để:t quả điều t nhưa biết” sau:

Tỷ lệ
hỏi Câu Nội dung câu hỏi Trước khi áp Sau khi áp
dụng dụng


Sau khi học xong tiết học mà cô dạy 100% 100%
em cảm thấy thế nào?

□ Hiểu bài hơn 51,7% 96%

□ u thích mơn học hơn 48,8% 98%

□ Thu nhận nhiều kiến thức 46,6% 89%

□ Cảm thấy bài học đỡ nhàm 32,6% 100%
chán

□ Không giúp được gì. 13,3% 1,1%

* Đối với GV: Sau khi biên soạn có bổ sung mục “Có thể em chưa biết” và
thực hiện giảng dạy thì tơi nhận thấy đem lại tác dụng rất lớn cho học sinh trong
việc: kích thích hứng thú học tập, củng cố, khắc sâu kiến thức, mở rộng vốn hiểu
biết.

* Đối với học sinh: Sau khi học xong 1 tiết học có biên soạn, sử dụng mục “
có thể em chưa biết” các em đầu cảm thấy rằng: Hiểu bài hơn, u thích mơn học
hơn, thu nhận được nhiều kiến thức hơn, bài học đỡ nhàm chán.

Như vậy việc khai thác và sử dụng mục “ có thể em chưa biết” trong dạy học
là cần thiết và mang lại hiệu quả thiết thực cho cả giáo viên và học sinh.

Phần 3. Kết luận

1. Qúa trình nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 9/2019 đến tháng 12/2020

Đối tượng: Học sinh lớp 8 năm học 2019 – 2020; 2020 – 2021
2. Ý nghĩa của đề tài

Việc nắm được nội dung và biết cách khai thác sử dụng SGK một cách toàn
diện, phù hợp song song với việc đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng
CNTT sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.

19

Mục “Có thể em chưa biết” trong SGK không quy định bắt buộc giảng dạy
nhưng lại có vai trị giúp cho việc kích thích hứng thú học tập của học sinh, tạo các
tình huống có vấn đề của bài học, góp phần mở rộng các kiến thức của bài học nên
cần được GV quan tâm và khai thác một cách hợp lý hơn.

Chương trình Vật lí lớp 8 THCS gồm những nội dung phong phú, đa dạng
và có nhiều ứng dụng trong trong thực tế. Các bài học đều có thể sử dụng mục “Có
thể em chưa biết” để nâng cao chất lượng bài dạy.

Việc áp dụng mục “Có thể em chưa biết” vào dạy học góp phần:

+ Thực hiện được mục tiêu giáo dục – đào tạo những con người tích cực,
năng động.

+ Giúp học sinh cũng như giáo viên bổ sung kiến thức.

+ Đào sâu hơn những kiến thức được học.

+ Mở rộng những kiến thức chưa được biết.

+ Không gây nhàm chán, mà gây hứng thú cho người học.


+ Định hướng cho giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch môn học.

+ Giúp học sinh vận dụng, ứng dụng những điều đó vào cuộc sống hàng
ngày

+ Cách để góp phần rèn cho học sinh khả năng tự học, kích thích sự tìm tịi
nghiên cứu các vấn đề trong cuộc sống, cũng như nghiên cứu khoa học kĩ thuật,
phát triển tư duy.

Bên cạnh đó việc Khai thác phần “Có thể em chưa biết” chương Cơ học vật
lí 8 THCS góp phần nâng cao hiệu quả trong dạy học” đem lại một số lợi ích sau:

+ Giúp giáo viên có nhiều hướng dạy khác nhau trong một bài học, đặc biệt
là việc dẫn dắt và khắc sâu kiến thức vừa khơng máy móc gây nhàm chán, vừa gây
hứng thú học tập cho học sinh.

+ Tạo sự ham học, ham nghiên cứu, tạo môi trường phát triển tư duy, năng
lực tự đọc và tự học.

+ Đặc biệt học sinh có thể giải thích các hiện tượng khó trong tự nhiên.
3. Phạm vi áp dụng: Căn cứ vào kết quả đã đạt được của đề tài và dựa vào
điều kiện thực tiễn ở nhà trường, tôi nhận thấy đề tài có thể áp dụng cho cả chương
trình vật lý THCS và chương trình vật lý THPT. Hơn nữa giáo viên các mơn học
khác đều có thể chủ động tìm hiểu, nghiên cứu và sử dụng mục “Có thể em chưa
biết” trong bài dạy.

4. Kiến nghị đề xuất

Để việc áp dụng kết quả nghiên cứu của đề tài vào thực tiễn có hiệu quả, tơi

có một số kiến nghị sau:

20


×