Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Mục lục
Lời nói đầu
Ngày nay, cùng với vai trò quan trọng của nguồn lực con người, tài nguyên thiên
nhiên, có thể nói, đầu tư là yếu tố có vai trò quan trọng mang tính quyết định đối với sự
phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói chung và các chủ thể kinh tế khác trong nền
kinh tế nói riêng
Đầu tư, thực chất là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm
làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản
xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Nguồn lực cho đầu tư là tiền vốn, theo
nghĩa rộng là tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị, tài nguyên. Nguồn lực này,
thông qua hoạt động đầu tư do chủ thể đầu tư thực hiện nhằm đạt được mục đích của đầu tư
là phát triển. Vì vậy, hoạt động đầu tư chính là một quá trình, diễn ra trong một thời kỳ dài,
bao gồm nhiều nội dung, tuỳ theo cách tiếp cận.
Xuất phát từ quá trình và thực hiện đầu tư, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư
cho các hoạt động chuẩn bị đầu tư, đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư, đầu tư trong giai
đoạn vận hành.
Do những đặc thù của hoạt động đầu tư mà trong hoạt động đầu tư đã tồn tại khái
niệm "độ trễ thời gian". Đây là một trong những mấu chốt để giải quyết vấn đề hiệu quả
hoạt động đầu tư, một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng của hoạt động đầu tư
1
1
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ ĐỘ TRỄ
THỜI GIAN TRONG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1.1. Các vấn đề cơ bản của đầu tư phát triển
1.1.1. Đầu tư
Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự bỏ ra hay sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để
tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt các kết quả, thực hiện được các mục tiêu nhất định
trong tương lai.
Mục tiêu của hoạt động đầu tư: bao gồm những lợi ích về mặt tài chính gắn liền với
doanh nghiệp chủ đầu tư; những lợi ích về mặt kinh tế và những lợi ích về mặt xã hội mà do
hoạt động đầu tư tạo nên.
Đối tượng của hoạt động đầu tư: Đầu tư vào tài sản hữu hình (tài sản vật chất), đầu tư
vào tài sản vô hình (nghiên cứu và phát triển, dịch vụ, quảng cáo, thương hiệu), đầu tư vào
tài sản sản xuất hay đầu tư vào tài sản lâu bền.
1.1.2. Đầu tư phát triển
- Khái niệm: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn
lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ
tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân
lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì
tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế-xã hội,
tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư phát triển làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển
giữa đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế.
1.1.3. Vốn đầu tư
Căn cứ theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng: Vốn đầu tư được hiểu là tiền tích
lũy của xã hội của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ là tiền tiết kiệm của dân cư và
vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy
trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.
1.1.4. Nguồn vốn đầu tư
2
2
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm
nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
1.2. Nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển
Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư. Đứng trên góc độ vĩ
mô, nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn
nước ngoài.
1.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ nền kinh
tế. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực dân doanh:
a, Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn
tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan trọng cho hoạt động đầu tư phát
triển kinh tế Việt Nam thời gian qua.
Vốn ngân sách đầu tư hiện nay chia làm hai loại:
+ Vốn ngân sách TW dùng để đầu tư xây dựng các dự án (trồng rừng đầu nguồn,
rừng phòng hộ, các công trình chủ yếu của nền kinh tế…)
+ Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đầu tư vào những vấn đề quan
trọng của địa phương.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển :
Tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay để đảm bảo
các khảon chi của ngân sách đồng thời nhà nước cũng là người cho vay để đảm bảo các
chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế. Là nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển
của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà
nước. Ngoài ra nó còn có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu
quả đầu tư vì với cơ chế tín dụng các doanh nghiệp vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn
trả vốn vay. Do có yếu tố ưu đãi nên khuyến khích các DN đầu tư theo định hướng của nhà
nước
3
3
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
- Nguồn vốn tự huy động của các DNNN: Là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế, các DNNN vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Trong những
năm 2001-2004 vốn này chiếm 32,3% so với tổng vốn đầu tư nhà nước,trong đó chủ yếu là
vốn khấu hao cơ bản của các doanh nghiệp,trích lợi nhuận sau thuế cho ĐTPT và một phần
vay từ các tổ chức tín dụng.Nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp dùng để đầu tư cho phát
triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Theo đánh giá nguồn vốn nguồn vốn khu vực nhà nước trong nhiều năm nay chiếm
tỷ trọng trên 56,6% tổng số vốn đầu tư.
b, Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy
của các doanh nghiệp dân doanh, của hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế ngoài
nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để.
c, Thị trường vốn:
Là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán chứng khoán và các giấy ghi nợ trung hạn và
dài hạn. Đây không phải là các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ
tay của một chủ thể này sang tay một chủ thể khác một cách đơn thuần nếu nhìn nhận từ
bên ngoài. Về thực chất, đây là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ - là quá trình
chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng
khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi
nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ TW và chính
quyền địa phương tạo ra một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi
thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được.
2.1.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu
chuyển vốn quốc tế đó là quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên
thế giới. Theo tính chất lưu chuyển của vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài
chính như sau:
- Tài trợ phát triển chính thức ODF: nguồn vốn này bao gồm viện trợ phát triển
chính thức ODA và các hình thức tái trợ phát triển khác. Dòng vốn này phải qua chính phủ
4
4
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
quốc gia tiếp nhận hoặc được bảo lãnh chính thức, dòng vốn phải đáp ứng cho đầu tư phát
triển, duy trì và tạo mới để đảm bảo sự hoạt động của nền kinh tế và các cơ sở, nó không
bao hàm các nguồn vốn mang tính chất nhân đạo như cứu nạn thiên tai…mà nó mang tính
chất dài hạn, trong đó ODA chiếm phần lớn trong ODF .
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức
tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Nguồn vốn
này thường lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu
cầu kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên tiếp nhận vốn này thường gắn với sự trả
giá về mặt chính trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu sử dụng không hiệu qủa vốn vay và
nếu thực hiện không nghiêm ngặt việc trả nợ vay.
Mặc dù có tính ưu đãi cao song sự ưu đãi của loại vốn này thường đi kèm với các
điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và
thị trường…). Vì vậy chúng ta cần xem xét kỹ khi tiếp nhận viện trợ và cần có nghệ thuật
thỏa thuận để có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc.
- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu
tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển. Nguồn
vốn này khác cơ bản với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận này không phát
sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được
phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy
phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghiệp
hay cần nhiều vốn. Do vậy để sử dụng hiệu quả vốn đầu FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách
thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không phải ở ý đồ của
người đầu tư.
- Thị trường vốn quốc tế: Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kết ngày càng tăng
của của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc gia đã tạo ra vẻ đa dạng
của các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi
toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng
5
5
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn
khác.
1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển: là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật
chất.nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua
sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hện
chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực mới
cho nền kinh tế -xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã
hội .
Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, là
một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật
của nền kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ
phận trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy
trì sự hoạt động của cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện có và vì thế, là điều kiện để phát triển sản
xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác,
đó là:
1.3.1. Đòi hỏi vốn lớn, ứ đọng trong thời gian dài
Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số lượng vốn lao động, vật tư lớn. Nguồn
vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư. Vì vậy trong quá trình đầu tư chúng ta
phải có kế hoạch huy động và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý đồng thời có kế hoạch
phân bổ nguồn lao động, vật tư thiết bị phù hợp đảm bảo cho công trình hoàn thành trong
thời gian ngắn chồng lãng phí nguồn lực.
1.3.2. Thời gian dài với nhiều biến động
Thời gian tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy tác
dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
1.3.3. Có giá trị sử dụng lâu dài
6
6
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Các thành quả của thành quả đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài, có khi hàng
trăm, hàng nghìn năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới như
vườn Babylon ở Iraq, tượng nữ thần tự do ở Mỹ, kim tụ tháp cổ Ai cập, nhà thờ La Mã ở
Roma, vạn lý trường thành ở Trung Quốc, tháp Angcovat ở Campuchia, …
1.3.4. Cố định
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt
động ở ngay nơi mà nó đựơc tạo dựng cho nên các điều kiện về địa lý, địa hình có ảnh
hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư, cũng như việc phát huy kết quả đầu tư. Vì vậy
cần được bố trí hợp lý địa điểm xây dựng đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng, phải
phù hợp với kế hoạch, qui hoạch bố trí tại nơi có điều kiện thuận lợi, để khai thác lợi thế so
sánh của vùng, quốc gia, đồng thời phải đảm bảo được sự phát triển cân đối của vùng lãnh
thổ .
1.3.5. Liên quan đến nhiều ngành
Hoạt động đầu tư phát triển rất phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực.
Diễn ra không những ở phạm vi một địa phương mà còn nhiều địa phương với nhau. Vì vậy
khi tiến hành hoạt động này, cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong
quản lý quá trình đầu tư, bên cạnh đó phải qui định rõ phạm vi trách nhiệm của các chủ thể
tham gia đầu tư, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo được tính tập trung dân chủ trong quá trình
thực hiện đầu tư.
1.4. Vai trò của đầu tư phát triển
Nhìn một cách tổng quát: đầu tư phát triển trước hết là hoạt động đầu tư nên cũng có
những vai trò chung của hoạt động đầu tư như: tác động đến tổng cung và tổng cầu, tác
động đến sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng cường khả năng khoa học và
công nghệ của đất nước.
Ngoài ra với tính chất đặc thù của mình, đầu tư phát triển là điều kiện trước tiên và
cần thiết cho phát triển nền kinh tế, có những ảnh hưởng vai trò riêng đối với nền kinh tế và
với từng cơ sở sản xuất. Đó là :
- Đầu tư phát triển đảm bảo tính tương ứng giữa cơ sở vật chất kỹ thuật và phương
thức sản xuất.
7
7
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
- Đầu tư phát triển là điều kiện phát triển các ngành kinh tế và thay đổi tỷ lệ cân đối
giữa chúng .
Khi đầu tư phát triển được tăng cường, cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành tăng sẽ
làm tăng sức sản xuất vật chất và dịch vụ của ngành. Phát triển và hình thành những ngành
mới để phục vụ nền kinh tế quốc dân. Như vậy đầu tư phát triển đã làm thay đổi cơ cấu và
quy mô phát triển của ngành kinh tế, từ đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn bộ nền kinh
tế. Đây là điều kiện tăng nhanh giá trị sản xuất và tổng giá trị sản phẩm trong nước, tăng
tích luỹ đồng thời nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân lao động, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ cơ bản về chính trị, kinh tế - xã hội.
Do những đặc thù của hoạt động đầu tư mà trong hoạt động đầu tư đã tồn tại khái
niệm "độ trễ thời gian". Đây là một trong những mấu chốt để giải quyết vấn đề hiệu quả
hoạt động đầu tư, một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng của hoạt động đầu tư.
Vốn đầu tư phát triển được đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, độ trễ về thời gian
phát huy tác dụng để tăng trưởng kinh tế cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, nếu đầu tư cho sản
xuất thì có những lĩnh vực phát huy tác dụng ngay trong năm như vốn mua sắm phương tiện
vận tải, vốn đầu tư xây dựng khách sạn, nhà hàng, Song nếu đầu tư cho việc trồng cây lâu
năm như cao su, trồng quế, thì phải từ 7 đến 10 năm sau mới có kết quả. Còn nếu như
đầu tư cho giáo dục - đào tạo, đầu tư cho nghiên cứu khoa học thì thời gian của độ trễ còn
dài hơn so với đầu tư cho sản xuất.
1.5. Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển
Dự án đầu tư bao gồm nội dung từ việc đề xuất việc bỏ vốn để tạo mới, sử dụng hoặc
cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc
nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định.
Dự án đầu tư là cơ sở cho việc quyết định của các chủ đầu tư có đầu tư hay không,
việc cho phép thực hiện hay không thực hiện của các cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án,
cho vay hay không cho vay của các tổ chức tín dụng, quyết định tài trợ hay không của các
nhà tài trợ…Do vậy, việc khảo sát điều tra để lập nên một dự án đầu tư là hết sức quan
trọng bởi vì nó liên quan đến các khâu sau này của việc thực hiện dự án. Một dự án đầu tư
được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư.
8
8
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Chu kỳ của hoạt động đầu tư là các giai đoạn mà một dự án phải trải qua từ chuẩn bị
đầu tư, giai đoạn đầu tư (thực hiện đầu tư) và giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư. Như
vậy, hoạt động đầu tư bao gồm nhiều giai đoạn thực hiện và do đặc điểm của nó mà phát
sinh độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư.
1.5.1 Khái niệm
Độ trễ thời gian nói chung là khả năng xảy ra chậm trễ trong quá trình thực hiện
công việc nào đó trong một chuỗi công việc mà qua đó có thể ảnh hưởng tới tiến độ thực
hiện hoặc hiệu quả của các bước hoặc các công việc khác có liên quan.
Độ trễ thời gian trong đầu tư là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư và thời
gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được
trong tương lai
1.5.2. Bản chất
Từ khái niệm trên ta đã hiểu được bản chất của độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư,
đó là đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai.
Thời gian đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn
thành và đưa vào hoạt động. Tuỳ theo tính chất, nội dung, qui mô của dự án mà thời gian
đầu tư có thể dài hay ngắn. Thông thường, một dự án bắt đầu với công việc là chuẩn bị mặt
bằng (công việc này liên quan đến việc thẩm định, điều tra mặt bằng môi trường xung
quanh, điều tra tình hình thị trường, nghiên cứu triển vọng tương lai của dự án…). Bên cạnh
đó, chủ đầu tư còn phải tìm kiếm nguồn lực cho việc thực hiện dự án. Nguồn lực đó bao
gồm: tiền vốn, nhân lực, vật lực…Trong đó, việc huy động tiền vốn là một vấn đề rất quan
trọng. Có những dự án qui mô lớn cần nguồn tiền lớn, việc huy động vốn mất rất nhiều thời
gian, có thể huy động trong nội bộ công ty, huy động thông qua phát hành cổ phiếu, trái
phiếu, vay vốn ngân hàng…Mặt khác, có những dự án, chủ đầu tư phải bỏ thời gian, tiền
bạc…đào tạo được đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân có đủ tay nghề, trình độ để thực hiện
dự án (ví dụ như dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất…). Ngoài ra, khi thực hiện
dự án, chủ đầu tư phải tìm nguồn nguyên vật liệu cung cấp đầu vào với giá cả phải chăng,
đảm bảo chất lượng và cung ứng đảm bảo đủ số lượng khi thực hiện dự án…Đây là những
9
9
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
yếu tố có vai trò hết sức quan trọng đối với việc thực hiện dự án đầu tư, nó liên quan đến
tiến độ hoàn thành của dự án. Do vậy mới có những dự án có thời gian đầu tư kéo dài hàng
chục năm.
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi đưa công trình vào hoạt động
cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải. Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư
chưa chắc đã phát huy ngay trong năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm
kế tiếp.
Như vậy, thời gian đầu tư và vận hành kết quả đầu tư là sự nối tiếp nhau đã tạo nên
độ trễ thời gian. Có nhiều công trình phát huy tác dụng lâu dài, thậm chí tồn tại vĩnh viễn.
Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu tác động hai mặt, cả tích cực lẫn
tiêu cực của các yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế - xã hội…Đặc điểm này của đầu tư cần
được quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển.
1.5.3. Tính thích ứng
Do bản chất và đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển: thời kỳ đầu tư kéo dài, thời
gian vận hành kết quả đầu tư cũng kéo dài do đó không phải bất cứ sự gia tăng đầu tư nào
cũng đem lại kết quả ngay trong ngắn hạn, nhất là đối với các dự án thực hiện trong nhiều
năm. Đây là đặc điểm riêng có của hoạt động đầu tư phát triển có ảnh hưởng lớn đến
công tác quản lý hoạt động đầu tư. Và rất khó khăn cho các nhà hoạch định để đưa ra
những chính sách thích ứng với đăc điểm này nhằm khắc phục những tác động tiêu cực của
nó đến hoạt động đầu tư.
Có thể thấy tác động của độ trễ thời gian trong đầu tư ngay ở việc xác định hiệu
quả của hoạt động đầu tư thông quả hệ số ICOR. Đây là hệ số cho ta biết muốn có một
đơn vị tăng trưởng thì cần bao nhiêu đơn vị vốn đầu tư. Như vậy theo hệ số ICOR thì
nói quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng là thuận chiều. Tuy nhiên, có những trường hợp
đầu tư chưa đem lại hiệu quả ngay như đầu tư vào các dự án trung, dài hạn hay các dự
án cơ sở hạ tầng. Vì thế hệ số này sẽ không phản ánh 1 cách chính xác hiệu quả của
đồng vốn bỏ ra ngay tại thời điểm bỏ vốn, mà một trong các nguyên nhân chính là do
yếu tố độ trễ thời gian.
10
10
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Như vậy để đánh giá đúng kết quả và hiệu quả cảu hoạt động ĐTPT thì yêu cầu
phải quan tâm đúng mức đến vấn đề độ trễ thời gian như việc áp dụng phương thức quản
lý đảm bảo kết hợp hài hòa giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động sang tạo của
chủ đầu tư, cần có sự thống nhất hợp lý với cac chỉ số kinh tế, kỹ thuật của dựa trên đầu
tư. Quán triệt đặc điểm này cần nâng cao hiệu quả công tác đánh giá kết quả, chi phí,
hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần
được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và toàn xã hội.
1.5.4. Nguyên nhân của Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư
Từ thực chất của độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư, ta có thể hiểu được những
nguyên nhân gây ra độ trễ trong hoạt động đầu tư:
- Một nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm của hoạt động đầu tư đó là đầu tư cần một
nguồn lực lớn về vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư. Trong mỗi giai đoạn,
quá trình của hoạt động đầu tư đều phải có sự tham gia của các nguồn lực.
- Một nguyên nhân nữa, do quá trình thực hiện đầu tư và thời kỳ vận hành các kết quả
đầu tư chịu ảnh hưởng lớn từ các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội, do vậy, việc nghiên
cứu, qui hoạch, thiết kế công trình, dự án tại một địa điểm để khởi công công trình là một
trong những vấn đề đầu tiên phải làm và tiêu tốn khá nhiều thời gian của các chủ đầu tư,
nếu không có sự nghiên cứu này, sai lầm xảy ra sẽ gây tổn thất rất lớn cho chủ đầu tư.
- Việc khởi công một công trình, một dự án chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố, đặc biệt
là yếu tố khách quan (như thời tiết, giá cả nguyên vật liệu…) gây ảnh hưởng không nhỏ đến
tiến độ thực hiện dự án.
- Hoạt động đầu tư là do con người thực hiện, do vậy, thời gian đầu tư và thời gian
vận hành kết quả đầu tư do con người quyết định. Có những dự án đầu tư bị chậm trễ là do
ý thức chủ quan của con người, đó có thể là do tình trạng tham ô, lãng phí, là trình độ, năng
lực thẩm định dự án, giám sát, tuyển chọn nhà thầu hay nhà thầu kém năng lực…Chính
11
11
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
những nguyên nhân này góp phần không nhỏ làm kéo dài thời gian đầu tư, làm độ trễ thời
gian hoạt động đầu tư càng sâu hơn.
Như vậy, độ trễ thời gian là một tất yếu của hoạt động đầu tư, vấn đề ở đây chính là
hiểu bản chất của khái niệm này, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp làm giảm đi ở
mức tối ưu độ trễ nhằm tăng hiệu quả đầu tư, tăng hiệu quả nguồn lực đã bỏ ra, phát huy
một cách nhanh nhất thành quả của hoạt động đầu tư.
Chương II: Thực trạng về độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát
triển của Việt Nam
Để làm rõ vấn đề độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư của Việt Nam trong thời
gian qua, chúng ta hãy đi vào những nét nổi bật của những dự án đầu tư được tài trợ từ các
nguồn khác nhau, qua đó thấy được thực trạng của vấn đề độ trễ thời gian của các loại dự án
có nguồn vốn khác nhau
Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển, cơ cấu và hiệu quả đầu tư
CHỈ TIÊU
NĂM
2003 2004 2005 2006 2007
1.Vốn đầu tư (tỷ VND)
(Chia theo các TPKT)
239.246 290.927 343.135 398.900 461.900
-Khu vực nhà nước
126.558 139.831 164.635 185.100 200.000
-Khu vực ngoài quốc doanh
74.388 109.754 130.398 150.500 187.800
-Khu vực có vốn ĐTNN
38.300 41.342 51.102 63.300 74.100
2.Cơ cấu (%)
100% 100% 100% 100% 100%
-Khu vực nhà nước
52,9 48,1 47,1 46,4 43,3
-Khu vực ngoài quốc doanh
31,1 37,7 38,0 37,7 40,7
-Khu vực có vốn ĐTNN
16,0 14,2 14,9 15,9 16,0
3.GDP (nghìn tỷ VND)
613,4 715,3 839,2 973,8 1.143,4
12
12
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Tăng so với năm trước (nghìn tỷ VND)
77,6 101,9 123,9 134,6 169,6
4.Hiệu quả đầu tư
Tỷ lệ VĐT so với GDP (%)
39,0 40,7 40,9 41,0 40,4
Để tăng 1 đồng GDP phải đầu tư (đồng)
3,73 3,5 3,8 4,3 4,47
(Nguồn: Vietnam Economic Times 2007 – 2008)
Theo báo cáo nghiên cứu đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 2006 - 2010, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã nhận định: Tỷ trọng vốn đầu tư nhà
nước vẫn là nguồn lực lớn nhất. Đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng tăng
dần từ 23,3% lên 29,3% năm 2007.
Đáng chú ý là thời gian gần đây các tập đoàn kinh tế và nhiều DNNN khác có xu thế
mở rộng đầu tư kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Trong khi đó, công tác giám sát, nhất là
về tài chính cũng như năng lực quản trị rủi ro của các tập đoàn đó không theo kịp.
2.1. Các dự án đầu tư có nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước
2.1.1. Thực trạng độ trễ thời gian của các dự án đầu tư có nguồn vốn từ Ngân
sách Nhà nước
Những vấn đề liên quan đến độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư hiện nay ở Việt
Nam có thể nêu ra sau đây liên quan đến vấn đề quản lý dự án, chậm trễ thực hiện dự án,
gây ra tình trạng thời gian đầu tư kéo dài, đặc biệt là các dự án có nguồn vốn từ ngân sách
nhà nước. Trong khi đó khu vực này đang chiếm gần nửa tổng đầu tư toàn xã hội (41 -
48%).
Bảng 2: Tỷ trọng vốn đầu tư thực hiện qua các năm
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tỷ trọng vốn Nhà nước so với
vốn đầu tư toàn xã hội (%)
59.8 57.3 52.9 48.1 47.1 45.7 39.9
13
13
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội so với GDP (%)
35.4 37.4 39.0 40.7 40.9 41.5 45.9
Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt 2007
Theo báo cáo, phần lớn các dự án sử dụng vốn nhà nước đều được thực hiện rất
chậm, thủ tục đầu tư xây dựng rườm rà, hiệu quả đầu tư của nhiều dự án thấp, còn thất
thoát, lãng phí so với đầu tư bằng nguồn vốn khác. Tình trạng bố trí vốn dàn trải còn phổ
biến. Các công trình sử dụng vốn nhà nước bị chậm tiến độ ngày càng tăng.
Năm 2005, có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư
trong năm. Một năm sau, con số này tăng lên thành 3.595 dự án, chiếm 13,1% và sang đến
năm 2007 là 3979 dự án (13,9%). Tình trạng thiếu điện, cắt điện kéo dài ròng rã nhiều năm
nhưng hàng chục dự án nhà máy điện của EVN chậm tiến độ đã ảnh hưởng đến tốc độ phát
triển kinh tế và đời sống người dân.
Năm 2008, hàng loạt các dự án do kém hiệu quả đã bị đình hoãn. Theo số liệu thống
kê sơ bộ, các địa phương đã tiến hành thực hiện việc rà soát, sắp xếp lại các công trình, dự
án theo Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17-4-2008 của Thủ tướng Chính phủ. Đã có 548
công trình, dự án đình hoãn và giãn tiến độ với tổng số vốn 1.763,8 tỷ đồng. Một số địa
phương có số công trình, dự án cắt giảm cao như: Hà Nội 49 dự án, với số vốn là 440,3 tỷ
đồng; TP Hồ Chí Minh 59 dự án, số vốn 381,9 tỷ đồng; Hà Tây 23 dự án, số vốn 65 tỷ
đồng; Tiền Giang 22 dự án, số vốn 66,3 tỷ đồng; Vĩnh Long 21 dự án, số vốn 68,8 tỷ
đồng
Có thể kể ra một số trường hợp như Dự án cầu Thanh Trì và tuyến phía Nam vành
đai 3 Hà Nội với số vốn đầu tư lên tới 7.660 tỷ đồng chậm trễ nhiều tháng, mỗi ngày phải
trả 1,5 tỷ đồng tiền vay. Cầu xây xong nhưng đường dẫn lên cầu vẫn chưa xong nên tốn
thêm cả chục tỷ đồng nữa để xây dựng đường tạm, song chất lượng vẫn kém và gây ách tắc.
Một trong những dự án có thể nói là lớn về qui mô cũng như tầm quan trọng của nó
là dự án về ngành điện. Ví dụ cụ thể là các dự án thuộc Tập đoàn điện lực Việt Nam đã có
đến vài chục dự án chậm tiến độ, chậm từ 1-2 năm do vậy người dân nơm nớp lo thiếu điện
20-30%, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân. Hiện có tới 6
14
14
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
công trình dự kiến phải lùi thời điểm phát điện thực tế sang năm 2010 như: Thuỷ điện Bản
Vẽ, thuỷ điện Buôn Tua Sah, nhiệt điện Hải Phòng 2…Lý do chủ yếu là do công tác chuẩn
bị chưa tốt, di dân tái định cư khó khăn, một số nhà thầu không đủ năng lực để triển khai.
Một điển hình nữa của sự chậm trễ trong việc thực hiện dự án đó là dự án Lọc dầu
Dung Quất, chậm trễ tới 7 năm (theo kế hoạch phải hoàn thành vào năm 2002 nhưng đến
đầu tháng 3 năm 2009, công trình mới phát huy hiệu quả của nó). Điều này đã gây ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội cho địa phương cũng như kinh tế trong nước. Bởi lẽ
nguồn vốn rót vào công trình này rất lớn .Một ví dụ nữa là dự án xây dựng cầu Nhật Tân
của Hà Nội. Theo kế hoạch đầu tiên của UBND TP Hà Nội, dự án cầu Nhật Tân sẽ phải
khởi công voà cuối năm 2006. Nhưng thời điểm đó dự án không thể khởi công vì dự án do
phí Bộ giao thông vận tải làm chủ đầu tư. Dự án này được dự kiến khởi công vào cuối năm
2007 nhưng thực tế vẫn chưa thực hiện như dự kiến. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ, đây là dự án trọng điểm của Hà nội sẽ phải khởi công vào ngày 2/9/2009 nhưng Bộ
Giao thông vận tải và các cơ quan liên quan hứa quyết tâm khởi công vào ngày 15/1/2009.
Vào ngày 14/1/2009, UBND huyện Đông Anh đã chính thức bàn giao mặt bằng phục vụ thi
công dự án cầu Nhật Tân và truyền tránh hai bên đầu cầu phía Đông Anh và mặt bằng trên
cũng được xác định là địa điểm để khởi công dự án nhưng Bộ Giao thông vận tải vẫn chưa
khởi công xây dựng công trình.
Cuối năm 2007, Bộ giao thông vận tải đã đăng ký giải ngân tới hơn 27.500 tỷ đồng.
Theo đó, hàng loạt dự án giao thông lớn được khởi công trong năm 2007 nhưng điều này lại
tạo nên nguy cơ khủng hoảng nhân lực và năng lượng tại các dự án này. Theo kế hoạch này,
hàng loạt các dự án đường cao tốc, các tuyến đường trục chính của các trung tâm kinh tế
lớn trên cả nước sẽ được khởi công trong năm 2007 theo chiến lược phát triển giao thông
vận tải đến năm 2020. Những dự án này được kỳ vọng sẽ làm thay đổi diện mạo hạ tầng
giao thông và đóng góp vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng địa phương nói riêng
và cả nước nói chung. Tuy nhiên, tình trạng thi công chậm trễ tại các công trình hạ tầng
giao thông lớn đã là một thực tế kéo dài trong nhiều năm qua, gây không ít khó khăn cho
sinh hoạt hàng ngày của người dân và ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư tại Việt
Nam, vì đây là cơ sở hạ tầng hết sức quan trọng.
15
15
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Đó là một số ví dụ điển hình của các dự án đầu tư có từ Ngân sách nhà nước. Có thể
nói việc chậm trễ thực hiện các dự án có vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước là một vấn đề
nổi cộm hiện nay của vấn đề quản lý vốn ngân sách nhà nước, liên quan đến vấn đề phát
triển kinh tế xã hội hiện nay của Việt Nam. Phát triển hạ tầng là một trong những giải pháp
hàng đầu để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, góp phần thu hút đầu tư nhưng chính tiến
độ chậm chạp tại các công trình lớn hiện nay đã tạo lực cản đối với nền kinh tế, nhất là công
trình giao thông. Sự chậm trễ trong việc khởi công thực hiện dự án đầu tư gây nên ách tắc
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát
triển kinh tế xã hội, ảnh hưởng đến đời sống dân sinh, nhất là những dự án về xây dựng cơ
sở hạ tầng, các công trình an sinh xã hội.
2.1.2. Nguyên nhân độ trễ thời gian của các dự án có vốn từ Ngân sách nhà nước
Phần lớn các dự án có vốn từ Ngân sách nhà nước có độ trễ thời gian sâu như vậy
nguyên nhân là do đâu? Có thể nói đây là một vấn đề mà nguyên nhân của nó bắt nguồn từ
rất nhiều phía.
2.1.2.1. Chất lượng Qui hoạch còn nhiều bất cập, chưa gắn kết chặt chẽ qui hoạch
phát triển ngành với vùng, địa phương. Qui hoạch chưa sát thực tế, còn chồng chéo, thiếu
tầm nhìn dài hạn, chưa chú trọng thỏa đáng yếu tố môi trường xã hội nên việc triển khai
thực hiện và khai thác hiệu quả thấp
- Trong ngành giao thông vận tải đó là việc bố trí nhiều sân bay, bến cảng gần nhau
mà chưa tính hết sự gắn kết trong việc khai thác hiệu quả tổng hợp, kết cấu hạ tầng hiện có
chưa phù hợp với khả năng phát triển kinh tế và nguồn vốn đầu tư của thời điểm đầu tư dẫn
đến nhiều đoạn đường, cảng biển, cảng sông, cảng sân bay khai thác hiệu quả thấp.
Qui hoạch phát triển ngành giao thông đến năm 2010 cần đến 300.000 tỷ đồng thiếu
tính khả thi, không phù hợp với nhu cầu khai thác và huy động vốn. Vì vậy 5 năm qua mới
huy động khoảng 60.000 tỷ đồng (# 20%).
+ Trong công nghiệp qui hoạch ngành chưa thống nhất qui hoạch vùng, địa phương.
Một số dự án không nằm trong qui hoạch vẫn được các điạ phương phê duyệt, triển khai.
- Một số địa phương quyết định đầu tư dự án sản xuất thép có công suất thấp không
theo qui hoạch, vùng Bắc Giang qui hoạch nhà máy bột giấy 200 ngàn tấn/năm, ván nhân
16
16
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
tạo 300 ngàn tấn/năm trong khi thời gian qua trước đó 3 năm đã có qui hoạch được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt vùng cung cấp gỗ mỏ 255 ngàn m
3
/năm. Dự án nhà máy bột
giấy Kon Tum công suất 130 ngàn tấn/năm (giai đoạn I), 260 ngàn tấn/năm (giai đoạn II)
được phê duyệt trước khi phê duyệt vùng nguyên liệu giấy nay phải ngừng triển khai theo
quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Qui hoạch phát triển các khu, cụm công nghiệp ở các địa phương còn tràn lan, chưa
cân đối, chưa có sự phối hợp tốt với các Bộ, ngành trong việc xây dựng qui hoạch tổng thể,
giữa khu công nghiệp với khu ngoài hàng rào khu công nghiệp về giao thông, nhà ở công
nhân, tập trung quá gần khu đô thị, ở nhiều địa phương nhiều dự án chưa quan tâm đến
việc xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường.
+ Trong nông nghiệp nhiều trường hợp qui hoạch đầu tư nhà máy chế biến lương
thực, thực phẩm, rau quả chưa gắn kết hoặc không phù hợp với vùng nguyên liệu và thị
trường, điển hình là các nhà máy đường xây dựng xong không đủ nguyên liệu bị thua lỗ.
hoặc phải di chuyển đi nơi khác. Nhiều dự án đầu tư nhà máy chế biến rau quả, hải sản công
suất khai thác rất thấp hoạt động không có hiệu quả.
+ Qui hoạch phát triển đô thị, khu dân cư, hạ tầng cơ sở ở các địa phương thiếu đồng
bộ, chưa có sự phối hợp giữa các ngành giao thông, bưu chính viễn thông, điện lực, cấp
thoát nước làm cho hạ tầng giao thông thường xuyên bị đào bới, hư hại gây lãng phí lớn.
Hệ thống bệnh viện Trung ương tại các thành phố lớn quá tải, các địa phương đều
đầu tư xây dựng đài phát thanh truyền hình nhưng thời lượng sử dụng và chương trình nội
dung rất hạn chế.
+ Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ qui hoạch phát triển và đầu tư chưa được chú
trọng thỏa đáng, qui hoạch đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch triển khai chậm, vốn đầu
tư còn thấp, còn vướng mắc với qui hoạch khác vì vậy đã hạn chế khai thác lợi thế và
chương trình quốc gia về du lịch
2.1.2.2. Đầu tư dàn trải, tiến độ thi công dự án chậm trễ, kéo dài
- Đầu tư dàn trải thể hiện ngay trong kế hoạch hàng năm.
Năm 2001 Có 6942 Dự án
Năm 2002 - 7605 -
17
17
tr thi gian trong hot ng u t phỏt trin: khỏi nim, bn cht, tớnh thớch ng
Nm 2003 - 10596 -
Nm 2004 - 12.355 -
Nm 2005 - 13.000 -
Nm 2006 - 15.678 -
Nm 2007 - 18.150 -
Nm 2008 - 21.810 -
( Ngun: Website: S k hoch u t H Ni)
S vn b trớ cho cỏc d ỏn nh, khụng v khụng khp gia k hoch u t v k
hoch vn.
S dn tri cũn th hin vic b trớ k hoch vn u t cho c cỏc d ỏn cha
th tc u t. Ch tớnh riờng cỏc d ỏn do Trung ng qun lý:
Nm 2001 Cú 375 D ỏn thiu th tc u t
Nm 2002 - 598 -
Nm 2003 - 365 -
Nm 2004 - 377 -
Nm 2005 - 380 -
Nm 2006 - -
Nm 2007 - -
Nm 2008 - -
( Nguồn: Website: Sở kế hoạch đầu t Hà Nội)
S d ỏn u t tng nhanh qua cỏc nm khụng tng xng vi tc tng trng ca
vn u t. Nhiu d ỏn cha th tc cng c ghi vn hoc ngc li khụng cú ngun
vn cng cho trin khai, nhiu d ỏn cụng trỡnh kộo di do thiu vn thm chớ khụng theo
k hoch.
- Tin thi cụng chm tr, kộo di, d ỏn treo m nguyờn nhõn l do:
+ Cụng tỏc qun lý hp ng sau khi u thu ca cỏc ch d ỏn ang tn ti nhiu
bt cp, yu kộm. Tớnh cha minh bch trong cụng tỏc u thu dn n nhiu d ỏn cú s
múc ngoc gia nh thu vi ch u t hay vi cỏn b u thu ginh d ỏn. Mt khỏc,
nng lc thm nh nh thu ca ch u t Vit Nam cũn kộm dn n giao thu cho nh
thu kộm nng lc, gõy ra nhng d ỏn chm tin .
Trong cỏc d ỏn chm tin , ni cm cỏc d ỏn xõy dng cỏc cụng trỡnh v in cú
nhng nguyờn nhõn na l s khụng thng nht v nh mc, tng d toỏn, khụng ký hp
ng nhng vn a thit b, cụng nhõn n ri lm l khi cụng "honh trỏng" khụng ỳng
18
18
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
với thiết kế được duyệt diễn ra ở khá nhiều công trình điện thời gian qua mới là mấu chốt
của bài toán chậm tiến độ.
+ Mặt bằng giải phóng chậm trễ chủ yếu do chính sách đền bù giải phóng còn nhiều
bất cập, việc chậm trễ xây dựng các khu tái định cư, giá đền bù không thoả đáng gây lãng
phí thất thoát, khiếu kiện kéo dài.
+ Bố trí dự án, dàn trải nguồn vốn bố trí không đáp ứng dẫn đến tình trạng mất cân
đối giữa nhu cầu và khả năng, mặc dù đã có những cố gắng chấn chỉnh nhưng tình hình nợ
đọng còn rất lớn, khối lượng đầu tư dở dang cao, công trình chậm đưa vào sản xuất sử dụng
gây lãng phí lớn. Mặt khác năng lực tài chính của nhà thầu còn hạn chế do đó nhiều doanh
nghiệp đang ở trong tình trạng hết sức khó khăn, một số doanh nghiệp bị phá sản. Tình
trạng này gây ra hiện tượng thất thoát vốn của nhà nước, gây mất niềm tin trong dân chúng,
làm chậm tiến độ thực hiện dự án trọng điểm có ý nghĩa kinh tế xã hội gây thiệt hại lớn cho
nền kinh tế.
Bên cạnh đó, do trong quá trình giám sát thi công, thực hiện dự án của chúng ta còn
chưa chặt chẽ, bị buông lỏng, do còn cả nể, dễ dãi trong khi thực hiện giám sát nên có thể
nói nguyên nhân này góp phần đáng kể vào việc làm chậm tiến độ thực hiện dự án.
Năm 2002 Có 67,5% Công trình đầu tư dở dang
Năm 2003 - 63,1% -
Năm 2004 - 70,6% -
Năm 2005 - 61% -
Năm 2006 - -
Năm 2007 - -
Năm 2008 - -
( Nguồn: Website: Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội)
Ngoài ra, một nguyên nhân nữa là do sự biến động giá cả. Chúng ta vừa đối mặt với
tình trạng lạm phát, vừa đối mặt với nguy cơ suy thoái kinh tế do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Chính điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện dự
án của các chủ đầu tư. Sự trượt giá này tác động mạnh đến chi phí của các dự án, chi phí
19
19
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
vay ngân hàng, chi phí nguyên nhiên vật liệu…đầu vào của dự án. Ví dụ như trong dự án
xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất, trong quá trình triển khai dự án, tổng mức đầu tư
tăng lên là do biến động giá cả. Do giá tăng làm vốn tăng theo, việc cung cấp nguồn vốn lớn
như vậy sẽ vấp phải khó khăn do việc huy động vốn cho dự án. Từ năm 2003, giá nguyên
vật liệu biến động không ngừng, giá dầu, giá thép đều tăng đột biến, toàn bộ mặt bằng giá bị
đẩy lên, làm vốn đầu tư cũng tăng lên, chiếm 58% Từ đó, nó ảnh hưởng hiệu quả của dự án
và khiến các chủ đầu tư sẽ chần chừ, hoãn lại việc thực hiện các dự án, làm giảm tiến độ
thực hiện các dự án đầu tư.
Đó là một số nguyên nhân dẫn đến việc làm chậm trễ tiến độ thực hiện các dự án có
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, làm tăng lên độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư do
việc kéo dài thời gian đầu tư. Ngoài ra, những nguyên nhân này còn có thể dẫn đến chất
lượng của kết quả đầu tư không được như thiết kế, do vậy, thời gian vận hành kết quả đầu
tư ngắn, bởi vì, tuổi thọ của công trình đầu tư không cao. Thời gian đầu tư dài, thời gian vận
hành kết quả đầu tư ngắn, độ trễ thời gian hoạt động đầu tư càng sâu. Đây là một bài toán
nan giải đối với những dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước. Bởi lẽ đây thường là những
công trình có tầm ý nghĩa kinh tế xã hội lớn đối với ngành, địa phương, vùng.
2.2. Các dự án đầu tư có nguồn vốn không từ ngân sách nhà nước
Có thể nói rằng, đối với các dự án đầu tư có nguồn vốn tài trợ từ các nguồn không
phải của ngân sách nhà nước thì tính hiệu quả của hoạt động đầu tư cao hơn nhiều, độ trễ
thời gian chỉ là vấn đề tất yếu (để hoàn thành một kết quả đầu tư phải có thời gian đầu tư
mới đến thời gian vận hành đầu tư, trong đó thời gian đầu tư được thực hiện một cách hiệu
quả, phù hợp với thiết kế của dự án).
Một vấn đề dễ nhận thấy là tăng trưởng đầu tư trong thời gian gần đây chủ yếu dựa
vào khu vực FDI. Kể từ năm 2006 đến nay, dũng FDI vào Việt Nam tăng đột biến, hàng
năm luôn đạt kỷ lục so với các năm trước.
Sau hai năm gia nhập WTO, nguồn vốn FDI đăng ký mới qua các năm của Việt Nam
tăng nhanh đột biến, từ 12 tỷ USD năm 2006 tăng lên 64 tỷ USD trong năm 2008, tức là
20
20
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
tăng gần 5 lần so với năm 2006. Tính chung đến nay nước ta còn hơ 10.500 dự án đầu tư
nước ngoài, từ 155 quốc gia với tổng vốn đăng ký trên 155 tỷ USD. Đã có hơn bốn nghìn
doanh nghiệp có vốn FDI đi vào hoạt động, đóng góp hơn 40% tổng giá trị sản xuất công
nghiệp toàn quốc. Năm 2008, sự bùng phát nguồn vốn FDI vào Việt Nam với con số kỷ lục
trên 64 tỷ USD, tăng 3 lần so với năm 2007, vốn giải ngân cũng đạt mức kỳ lục cao nhất từ
trước đến này (11,5 tỷ USD) đã chứng tỏ sức hấp dẫn của Việt Nam với nhà đầu tư nước
ngoài trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế do ảnh hưởng của cơn bão tài chính thế giới.
Các doanh nghiệp có vốn FDI đã góp phần đầy nhanh tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá
đất nước, chuyển dịch cơ cấu, nâng cao thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, theo dự báo do
khủng hoảng tài chính toàn cầu nên FDI vào Việt Nam sẽ suy giảm, dự báo vốn đăng ký
khoảng 20ỷ USD nhưng vốn thực hiện khoảng 11 - 12 tỷ USD. Như vậy, có thể nói việc
đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam là rất mạnh mẽ, các ngành nghề đầu tư rất đa
dạng, tuy nhiên, số liệu thực tế nói nên rằng, vốn FDI vào Việt Nam chủ yếu đầu tư vào lĩnh
vực xây dựng - bất động sản chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam.
Việc thực hiện các dự án đầu tư FDI rất khẩn trương, độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư
của dự án FDI phụ thuộc vào qui mô đầu tư nhưng có thể nói rất thấp. Bởi lẽ, các nhà đầu
tư nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam họ rất quan tâm đến đồng vốn của họ bỏ ra, do vậy
họ quan tâm đến tiến độ thực hiện vì nó liên quan đến thời gian sinh lời của kết quả đầu tư.
Trước khi họ vào Việt Nam, họ khảo sát thị trường, địa bàn dân cư, đặc điểm kinh tế xã hội
của địa phương, việc cung cấp các nguồn lực cho đầu tư (chủ yếu là lao động, thị trường
cung cấp nguyên vật liệu…) và sẽ quyết định địa điểm đầu tư hợp lý. Công việc giám sát thi
công, thực hiện dự án cũng được thực hiện triệt để đảm bảo thời gian thực hiện thi công dự
án không quá kéo dài (trừ hoàn cảnh khách quan). Công việc giám sát được thực hiện chặt
chẽ.
Những dự án FDI bị chậm trễ thực hiện có chăng là do phía khách quan. Đó là các
thủ tục hành chính, cấp phép, khâu giải phóng mặt bằng, biến động của giá cả thị trường,
thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước. Từ đó có thể làm thời gian bị kéo dài, gây khó
khăn cho việc thực hiện dự án.
21
21
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Đó là một số nét về vấn đề độ trễ thời gian của dự án FDI. Ngoài những thực tế vấn
đề này thuộc dự án có vốn từ ngân sách nhà nước và vốn FDI, những dự án có nguồn vốn
được tài trợ từ các nội bộ các doanh nghiệp, từ ngân hàng, từ các kênh huy động vốn của
các doanh nghiệp cũng có một số nét đáng nói.
Có thể khẳng định rằng, vấn đề độ trễ thời gian trong các dự án có nguồn tài trợ ngoài
ngân sách nhà nước và FDI, hay nói các khác là từ các doanh nghiệp, dân cư là vấn đề
mang tính chất nguyên lý, bởi có thực hiện đầu tư mới vận hành được kết quả đầu tư. Tuy
nhiên, vấn đề đáng nói ở đây chính là thời gian đầu tư của các dự án này. Do vốn là của họ
bỏ ra, hay huy động từ phát hành cổ phiếu, vay vốn ngân hàng nên thời gian thực hiện đầu
tư được đảm bảo sát tiến độ rất nhiều so với dự án có vốn từ ngân sách nhà nước. Khúc mắc
trong hoạt động đầu tư các dự án này nằm chủ yếu trong khâu huy động vốn đối với dự án
có qui mô lớn. Họ phải sử dụng các kênh huy động thêm ngoài vốn tự có như từ ngân hàng,
phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Việc huy động này mất khá nhiều thời gian. Bởi vì, phát
hành cổ phiếu phải tuân thủ theo qui định của Luật chứng khoán, các qui định của Uỷ ban
chứng khoán của nhà nước…Hay việc vay vốn ngân hàng được thực hiện phải qua qui trình
thẩm định chặt chẽ của ngân hàng. Đó là những công việc tưởng như đơn giản mà đôi khi
lại rất khó khăn, phức tạp cho các doanh nghiệp cần huy động thêm vốn.
Ngoài những vấn đề trên, trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp, chủ thể kinh
tế khác trong nền kinh tế khi thực hiện dự án đầu tư của mình là họ phải đối mặt với một
loạt các thủ tục hành chính của chính quyền địa phương nơi thực hiện đầu tư, các ban ngành
liên quan để được phép tiến hành xây dựng công trình, thực hiện dự án. Việc thực hiện các
thủ tục này cho đến thời điểm này có thể nói là khá nan giải đối với các doanh nghiệp mặc
dù chúng ta đã chủ trương cải cách thủ tục hành chính. Tuy nhiên, khâu này trong hoạt động
đầu tư đã khiến doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, mất thời gian, ảnh hưởng đến thời
gian thực hiện, thi công dự án, làm lãng phí tiền của của các chủ đầu tư.
3. Một số dự án đầu tư có độ trễ thời gian lớn ở việt nam
22
22
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
dự án vệ sinh môi trường TP.HCM - lưu vực Nhiêu Lộc - Thị Nghè (tạm gọi tắt là dự án Nhiêu Lộc -
Thị Nghè). Dự án có tổng mức đầu tư 188,8 triệu USD vay vốn Ngân hàng Thế giới. Theo dự đoán
của tư vấn giám sát, thời hạn hoàn tất hợp đồng của gói thầu này sẽ kéo dài đến cuối năm 2009, tức
là trễ ba năm
dự án xây dựng tòa nhà Trung tâm đào tạo với hai tháp cao 19 tầng và 13 tầng, được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt đầu tư từ năm 2003, khởi công từ năm 2006, nhưng đến nay mới thi công xong
phần thô của tầng thứ… 7.
23
23
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
Theo tiến độ dự kiến, dự án cầu Nhật Tân sẽ hoàn thành vào năm 2012. Thế nhưng, đến thời điểm
này, một số gói thầu vẫn chậm chạp nhúc nhích vì công tác giải phóng mặt bằng (GPMB) đang bị
chậm tiến độ. Vấn đề "muôn thuở" của các dự án xây dựng đang trở nên vô cùng bức xúc bởi nó kéo
theo nhiều hệ lụy khác.
4. Một số giải pháp
Từ lý luận và thực tế chúng ta đã hiểu rằng hoạt động đầu tư bao gồm cả thời gian
đầu tư và thời gian vận hành kết quả đầu tư. Độ trễ thời gian là do sự không trùng hợp giữa
hai giai đoạn này, điều đó là tất yếu, bởi lẽ có đầu tư mới có kết quả đầu tư để thực hiện
phát huy kết quả đó. Vấn đề đặt ra ở đây chính là mức độ của độ trễ này. Có thể cùng một
dự án, một qui mô nhưng nguồn vốn tài trợ dự án, đối tượng thực hiện dự án khác nhau thì
độ trễ thời gian sẽ khác nhau dẫn đến hiệu quả, chất lượng hoạt động đầu tư khác nhau.
Hiểu được độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư, công việc của chúng ta là phải tìm
ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư bằng giảm độ trễ thời gian. Từ những vấn
đề nêu trên có thể hiểu được nguyên nhân từ đâu mà có độ trễ thời gian trong hoạt động đầu
tư. Độ trễ thời gian là một thước đo quan trọng để đánh giá tính hiệu quả của dự án và chất
lượng của hoạt động đầu tư. Vậy làm thế nào để có được một dự án đầu tư hiệu quả, làm
sao để độ trễ thời gian không gây ra được những khó khăn, ách tắc của một công trình đầu
tư, nâng cao hiệu quả được nguồn lực đầu tư.
Các dự án đầu tư dù có nguồn vốn tài trợ là từ ngân sách nhà nước hay từ nguồn vốn
nước ngoài, doanh nghiệp trong nước…thì đều bắt nguồn từ hai vấn đề của hoạt động đầu
tư đó là thời gian đầu tư và thời gian vận hành kết quả đầu tư. Từ những nguyên nhân dẫn
đến sự chậm trễ trong tiến độ thực hiện dự án, chúng ta có thể đưa ra là một số giải pháp
sau:
- Để nâng cao hiệu quả đồng vốn cũng như các nguồn lực khác bỏ ra, tránh hiện
tượng đồng vốn bị khê đọng, cần có sự phân bổ, bố trí vốn và nguồn lực tập trung hoàn
thành dứt điểm từng hạng mục công trình. Khắc phục tình trạng thiếu vốn (bằng cách mở
rộng phương thức huy động vốn sao cho có hiệu quả, ít tốn kém, không mất nhiều thời
gian), đồng thời việc giải ngân vốn phải kịp thời, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, tránh ứ
đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng như chậm trễ trong việc giải ngân vốn.Từ đó có thể
24
24
Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: khái niệm, bản chất, tính thích ứng
đưa từng công trình đã hoàn thành vào sử dụng, tăng hiệu quả và tốc độ sử dụng vốn một
cách tối đa.
- Quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch đầu tư, tăng cường việc giám sát các khâu trong
quá trình thực hiện dự án đầu tư. Từ khâu khảo sát thiết kế nơi thực hiện dự án đến quá
trình thực hiện dự án, phải nắm bắt ngay được những khiếm khuyết, hạn chế khi thực hiện,
giải quyết các ách tắc để đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
- Một vấn đề quan trọng nữa là chú ý trong công tác quản lý hoạt động đầu tư cả đối
với dự án cấp quốc gia cũng như dự án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cần chú
ý:
+ Cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học cả cấp vĩ mô và vi mô về
nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư trong tương lai, khả năng cung hàng năm và
toàn bộ vòng đời dự án.
+ Quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa kết quả đầu tư vào sử dụng, hoạt
động tối đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình.
+ Huy động tối đa các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ hoạt động đầu tư, giảm đi ở
mức tối đa độ trễ thời gian của các quá trình đầu tư nhằm phát huy nhanh đồng vốn và các
nguồn lực khác đã bỏ ra nhằm tối thiểu hóa độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư. Trong
vấn đề này, chú ý đến việc huy động nguồn lực tại địa phương nơi thực hiện dự án, tận dụng
được thế mạnh vốn có tại địa phương để giảm thiểu chi phí phát sinh không đáng có.
- Ngoài những vấn đề nêu trên, chú ý nhất trong các dự án có vốn đầu tư là ngân sách
nhà nước là vấn đề chống lãng phí, tham ô, lãng phí của những người tham gia thực hiện dự
án. Đây là một vấn đề nổi cộm của Việt Nam trong thời gian qua gây nên sự thất thoát tiền
của, sự chậm trễ trong tiến độ thi công, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế an sinh xã hội,
mất lòng tin của người dân.
- Một vấn đề nữa là việc lựa chọn nhà thầu để thực hiện dự án. Lựa chọn ở đây không
chỉ là về tư cách pháp lý mà còn về năng lực tài chính, khả năng về nhân lực (bao gồm cả số
lượng và chất lượng của đội ngũ công nhân thực hiện cũng như kỹ sư, chuyên viên…tham
gia thực hiện dự án). Tránh tình trạng không đủ năng lực thi công vẫn cho thực hiện vừa
gây thất thoát tài sản vừa đình trệ quá trình thi công công trình. Trong vấn đề này, lưu ý
25
25