Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu luận Tiết Học Nhóm 2: Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho ta sự thông thái (pdf)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.88 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM

TIỂU LUẬN

TRIẾT HỌC


ĐỀ TÀI 01 : KHOA HỌC CHO CHÚNG TA TRI THỨC, NHƯNG
CHỈ TRIẾT HỌC MỚI CÓ THỂ CHO CHÚNG TA SỰ THÔNG THÁI

GVHD: Thầy Bùi Xuân Dũng
HVTH: Nguyễn Ánh Cao
MSHV: 1980802
LỚP : XDC19B
LHP : PHIL530219_01

Thành phố Hồ Chí Minh tháng 2 năm 2020

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................3
NỘI DUNG ............................................................................................................4
Chương 1. Lý luận chung......................................................................................4

1.1 Khoa học cho chúng ta tri thức ................................................................4
1.1.1. Khái niệm khoa học ............................................................................4
1.1.2 Khái niệm tri thức...............................................................................4

1.2. Chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thông thái ...................................5
1.2.1. Khái niệm triết học ................................................................................5
1.2.2. Khái niệm thông thái.............................................................................5


Chương 2. Nội dung được hiểu trong triết học của câu nói ................................6
2.1. Tính triết học của “khoa học cho chúng ta tri thức” ................................6
2.1.1. Tính kết cấu của tri thức......................................................................6
2.1.2. Mối quan hệ giữa khoa học và tri thức.................................................7
2.2 Tính triết học của “triết học mới có thể cho chúng ta sự thơng thái”.........8
2.2.1. Tính liên hệ giữa triết học với sự thông thái .......................................8
2.2.2. Làm cách nào để trở thành người thông thái ? ..................................9

Chương 3. Vận dụng – ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm .....................10
3.1. Vận dụng ...................................................................................................10
3.1.1. Triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng trong
hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. .....................................................10
3.1.2. Triết học là khoa học cung cấp nội dung những tri thức triết học;
nhờ đó, tư duy con người có thể tạo ra một trí tưởng tượng tích cực trong
hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. .....................................................11
3.2. Ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm.................................................13

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 1

Chương 4. Kết luận .............................................................................................13
Tài liệu tham khảo ..............................................................................................15

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 2

LỜI MỞ ĐẦU

“Tri thức con người đã trở nên quá rộng đến độ khơng thể xử lý nổi: kính
viễn vọng phát hiện những ngôi sao và những thiên hà mà đầu óc con người khơng
thể đếm xuể hay đặt tên; địa chất học nói về hàng triệu năm, trong khi trước đây ta
chỉ nghĩ đến con số hàng nghìn; vật lý học tìm ra cả một vũ trụ trong nguyên tử,

cịn sinh vật học tìm ra một tiểu vũ trụ trong tế bào; sinh lý học phát hiện sự huyền
vi khôn lường trong từng mỗi cơ quan và tâm lý học trong từng mỗi cơn mơ; nhân
loại học tái tạo thời tiền sử của con người; khảo cổ học khai quật những đơ thành
đã bị tan thành mây khói và những xứ sở đã bị lãng quên; sử học chứng minh bao
câu chuyện là sai… cịn thần học thì đang đổ vỡ…” “Tri thức con người đã trở
nên quá lớn đối với trí tuệ con người. “Những sự kiện” đã thế chỗ cho sự cảm
thông và kiến thức – vỡ vụn ra thành hàng nghìn mảnh – khơng cịn là sự minh triết
được tích hợp lại nữa rồi. Mơn khoa học nào và chuyên ngành triết học nào cũng
phát triển một thuật ngữ chuyên môn chỉ dành riêng cho một ít kẻ đặc tuyển: người
càng học rộng hiểu nhiều càng không biết làm cách nào để giãi bày cho đồng bào
mình những gì mình đã học được”.

Will Durant xem khoa học như là sự “phân tích”, cịn triết học như là sự
“tổng hợp”. Vì thế, ơng kết luận: “Khoa học là sự mơ tả kiểu phân tích, trong khi
triết học là sự lý giải kiểu tổng hợp. Vì lẽ, một sự kiện khơng bao giờ là hồn chỉnh
trừ khi được đặt vào mối quan hệ với một mục đích và với cái tồn bộ. Vì vậy, tơi
xin chọn câu nói của Will Durant làm đề tài tiểu luận: “Khoa học cho chúng ta tri
thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thông thái”

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 3

NỘI DUNG

Chương 1. Lý luận chung

1.1 Khoa học cho chúng ta tri thức

1.1.1. Khái niệm khoa học

Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới,

học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới này,
tốt hơn, có thể thay thế dần những cái cũ, khơng cịn phù hợp. Thí dụ: Quan niệm
thực vật là vật thể khơng có cảm giác được thay thế bằng quan niệm thực vật có
cảm nhận.

Như vậy, khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất
và sự vận động của vật chất, những qui luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ
thống tri thức này hình thành trong lịch sử và khơng ngừng phát triển trên cơ sở
thực tiễn xã hội.

1.1.2 Khái niệm tri thức

Tri thức bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả, hay kỹ năng có được
nhờ trải nghiệm thơng qua giáo dục. Tri thức có thể chỉ sự hiểu biết về một đối
tượng, về mặt lý thuyết hay thực hành. Nó có thể ẩn tàng, chẳng hạn những kỹ
năng hay năng lực thực hành, hay tường minh, như những hiểu biết lý thuyết về
một đối tượng, nó có thể ít nhiều mang tính hình thức hay có tính hệ thống. Phân
biệt ra 2 hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.

a.Tri thức kinh nghiệm: là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động sống
hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với
thiên nhiên. Quá trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý thiên

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 4

nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã hội. Tri thức kinh
nghiệm được con người không ngừng sử dụng và phát triển trong hoạt động thực
tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa thật sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy
được hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong giữa sự vật và con
người. Vì vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất

định, nhưng tri thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
b. Tri thức khoa học: là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống
nhờ hoạt động NCKH, các họat động này có mục tiêu xác định và sử dụng phương
pháp khoa học. Không giống như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên
kết quả quan sát, thu thập được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra
ngẫu nhiên trong hoạt động xã hội, trong tự nhiên. Tri thức khoa học được tổ chức
trong khuôn khổ các ngành và bộ môn khoa học (discipline) như: triết học, sử học,
kinh tế học, toán học, sinh học,…

1.2. Chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thơng thái

1.2.1. Khái niệm triết học

- Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con
người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có
kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ.

- Triết học được phân biệt với những mơn khoa học khác bằng cách thức
mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có
hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.

1.2.2. Khái niệm thông thái

Thông thái là thuật ngữ chỉ sự am hiểu sâu rộng các kiến thức về nhiều lĩnh
vực khác nhau trong đời sống xã hội. Do đó, chúng ta vẫn thường được nghe nhắc

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 5

đến các nhà thơng thái nổi tiếng, đây chính là những người uyên bác, sâu sắc, có
tầm hiểu biết chuyên sâu, rộng rãi.


Sự thông thái không phải là phẩm chất, đức tính bẩm sinh mà được tạo ra từ
những kinh nghiệm, trải nghiệm, từ quá trình tìm hiểu, học hỏi trong khoảng thời
gian dài. Người thơng thái là người có khả năng tiếp thu, thẩm thấu và làm chủ
được những kiến thức, nhìn nhận các vấn đề một cách chính xác, hiểu rõ được sự
đúng sai và có cách hành xử, giải quyết các vấn đề một cách hợp lý, khéo léo nhất.

Chương 2. Nội dung được hiểu trong triết học của câu nói

2.1. Tính triết học của “khoa học cho chúng ta tri thức”

2.1.1. Tính kết cấu của tri thức

Sự giao thoa hiện nay giữa các bộ môn xã hội là một xu thế thế giới lớn
khơng có cách gì ngăn cản nổi. Xu thế ấy địi hỏi phải có những tri thức cơ sở sâu
rộng và vững chắc chỉ có như vậy mới có thể hịa nhập các bộ mơn khoa học.
Chẳng hạn, sự phát triển của địa chất học trước sau trải qua ba lần đột phá quan
trọng: Lần thứ nhất đưa sinh học vào địa chất học căn cứ vào sự tiến hóa của sinh
vật cổ đại xác định thứ tự trước sau của địa tầng, hình thành “quan điểm sinh học”.
Lần thứ hai đưa hóa học vào trong địa chất học, phân tích cấu tạo hóa học và sự
biến đổi hóa học của các bộ phận Trái Đất hình thành “quan điểm địa chất hóa
học”. Lần thứ ba đưa vật lý học vào trong địa chất học, nghiên cứu sự biến đổi của
Trái Đất thông qua cấu tạo và các q trình vật lý trong lịng Trái Đất, hình thành
“quan điểm địa vật lý”. Ta thử tưởng tượng nếu như nhà nghiên cứu địa chất học
không đồng thời có những tri thức cơ sở vững chắc về sinh học, hóa học, vật lý học
thì làm sao có thể ứng dụng lý luận và kỹ thuật của sinh học, hóa học, vật lý học và

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 6

địa chất học, từ đó đẩy mạnh sự phát triển của địa chất học? Rõ ràng, ở đây đòi hỏi

phải có những tri thức cơ sở rộng và sâu.

Khơng có tri thức chuyên môn sâu sắc dĩ nhiên không thể trở thành nhân tài
kiệt xuất trong lĩnh vực chun mơn đó được. Thế nhưng, một trong những đặc
trưng quan trọng của sự phát triển tri thức hiện đại là tính tổng hợp. Đặc trưng này
địi hỏi kết cấu tri thức khơng chỉ bó hẹp ở một lĩnh vực chun mơn nào đó mà
phải vừa có tầm sâu vừa có bề rộng, kết hợp giữa sâu và rộng.

Trong cuộc sống có rất nhiều sự kiện cho thấy rằng nắm vững thêm một
lĩnh vực tri thức và kinh nghiệm phong phú càng dễ gây nảy sinh trong óc những
liên tưởng mới và những ý tưởng độc đáo hơn so với những người chỉ có một loại
tri thức và kinh nghiệm. Một người có tương đối nhiều tri thức về cấu tạo khơng
gian thì trí tưởng tượng không gian mạnh mẽ hơn và phong phú hơn rất nhiều so
với những người chỉ biết chỉ nhìn thấy hình học phẳng, chỉ có những tri thức về cấu
trúc hai mặt mà thơi. Nếu chỉ bó hẹp trong việc nghiên cứu một lĩnh vực chuyên
môn hạn chế, tri thức cũng chỉ đóng khung ở đó, sẽ rất khó vươn dài tư duy của
mình sang các lĩnh vực khác, đồng thời hấp thụ những kiến thức, những chất dinh
dưỡng, những gợi mở bất ngờ từ các lĩnh vực khoa học ấy. Vì thế, những nhà khoa
học có những cống hiến độc đáo đều là những con người có diện tri thức rộng và đa
dạng.

2.1.2. Mối quan hệ giữa khoa học và tri thức

Từ xưa đến nay, khoa học và tri thức ln gắn bó chặt chẽ với nhau. Khi
nói đến tri thức người ta hiểu ngay trong đó có khoa học. Trong cơng nghệ trí tuệ,
tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Ngược lại những tri thức
khoa học hiện đại khơng thể có được nếu thiếu trợ giúp của công nghệ, đặc biệt là

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 7


cơng nghệ thơng tin. Vì sự phát triển của khoa học chính là thước đo trình độ phát
triển tư duy của con người. Từ đây cho thấy rằng giữa thông tin và khoa học có mối
quan hệ hết sức sức chặt chẽ, hữu cơ với nhau. Thông tin vừa là nội dung khoa học
vừa là hình thức biểu hiện của nó vì nó lưu giữ và chuyển tải thơng tin tri thức khoa
học là bằng công nghệ thông tin.

Hầu hết các nhà khoa học đều thừa nhận tri thức khoa học bao gồm tri thức
kinh nghiệm và tri thức lý luận. Trong đó tri thức kinh nghiệm là trình độ thấp cịn
tri thức lý luận là trình độ cao của tri thức khoa học, giữa hai trình độ này các tri
thức khoa học có mối quan hệ mật thiết với nhau làm tiền đề, cơ sở cho nhau cùng
phát triển, phản ánh ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sắc hơn về thế
giới vật chất đang vận động khơng ngừng.

2.2 Tính triết học của “triết học mới có thể cho chúng ta sự thơng thái”

2.2.1. Tính liên hệ giữa triết học với sự thông thái

Người Hy Lạp cổ quan niệm về hai loại thông thái: thông thái thực tiễn,
hoặc sự “cẩn trọng” và thông thái tư biện hoặc thông thái mang tính triết học. Họ
cho là một người khơn ngoan về thực tiễn nếu anh ta đánh giá những tình huống
một cách đúng đắn và chọn những biện pháp thích hợp nhất để bảo đảm đạt được
những mục đích của mình. Tuy nhiên Aristotle khẳng định rằng những mục đích đó
phải tốt về mặt đạo đức. Theo quan điểm của ông, sự thông thái thực tiễn phải gắn
liền với phẩm chất đạo đức.

Người Hy Lạp coi một người thông thái về mặt triết học nếu như người đó
hiểu những nguyên lý cốt yếu hoặc nguồn cội của sự việc. Sự thơng thái theo nghĩa
này là hình thức tri thức cao nhất. Nó là đỉnh cao của việc đi tìm chân lý của con
người. Nó cho anh ta sự thanh thản kèm theo sự thỏa mãn hoàn toàn. Plotinus tuyên


Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 8

bố rằng sự thông thái đem lại sự thanh thản trọn vẹn, vì nó là tri thức mà trí óc ta
muốn vươn tới. Và Samuel Johnson nhận xét rằng “con người thơng thái về mặt
triết học” khơng có nhu cầu, vì anh ta tồn mãn.

Truyền thống tôn giáo của chúng ta đánh giá cao sự thơng thái. Người Hy
Lạp coi nó là một thuộc tính siêu phàm. Socrates cho rằng chỉ có mình Thượng Đế
mới thơng thái và rằng con người có thể u hoặc tìm kiếm sự thơng thái nhưng
khơng bao giờ có được nó. Sách Châm ngơn (trong Kinh thánh) ca tụng sự thông
thái như một nguyên lý vĩnh cửu duy trì và dẫn dắt trật tự tự nhiên và cuộc sống
con người.

Kinh Thánh cũng ca tụng sự thông thái như cách hành xử khơn ngoan và
chính trực những cơng việc hàng ngày. Ở đây một lần nữa sự thông thái vừa là một
kiểu tri thức vừa là một mặt của tính cách đạo đức. Nhưng ở đây Chúa là người
thầy, và sự thơng thái có được qua việc lắng nghe điều người dạy – chứ không phải
chỉ qua sự tìm kiếm mang tính trí tuệ.

2.2.2. Làm cách nào để trở thành người thơng thái ?

2.2.2.1. Tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm

Sự thơng thái vốn khơng tự sinh ra mà nó phải được hình thành từ q trình
học hỏi, tích lũy kinh nghiệm trong khoảng thời gian dài, thậm chí là cả đời. Và để
làm được điều đó, bạn cần phải đặt ra cho bản thân những mục tiêu, tạo ra sự trải
nghiệm ở tất cả các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội.

2.2.2.2. Học hỏi từ những người thông thái khác


Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 9

Bên cạnh tự khám phá, trải nghiệm để có thêm những kiến thức, hiểu biết
thì việc học hỏi tực tiếp từ những người thông thái khác là một cách rất hay giúp
bạn đạt đến sự thông thái.

2.2.2.3. Thực hành sự thông thái trong đời sống hằng ngày

Điều quan trọng nhất sau khi đã học hỏi và trau dồi được những kinh
nghiệm về đời sống xã hội đó là bạn phải thực hành chúng ra sao. Rất nhiều người
học tập và nắm rất vững lý thuyết nhưng khi thực hành thì lại khơng làm được. Do
đó, đây là bước rất quan trọng quyết định bạn phải có đủ khả năng, bản lĩnh dể trở
thành người thông thái hay không.

Chương 3. Vận dụng – ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm

3.1. Vận dụng

3.1.1. Triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng trong hoạt
động nhận thức và cải tạo thế giới.

Năng lực tư duy trừu tượng mà triết học cung cấp chính là những khả năng,
như thấy được cái bản chất thơng qua những hiện tượng; tìm được tính tất nhiên
thông qua vô vàn những ngẫu nhiên phong phú; chỉ ra được những nguyên nhân
đích thực của những kết quả đang hiện tồn; phát hiện tính quy luật của sự vận động
hỗn mang; sự thích ứng nhanh và tự điều chỉnh của khả năng nhận thức... Tóm lại,
nó là tất cả những gì mà trên cơ sở lĩnh hội từ các tri thức triết học, những năng lực
đó được nảy ra.

Chính nhờ những năng lực trừu tượng và khái quát hoá đặc trưng này mà

khoa học triết học mới liên tục tạo ra những diện mạo mới về mặt nhận thức trên
con đường nhận thức và cải tạo thế giới. Cũng chẳng thể và không nên liệt kê ra

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 10

những vấn đề mà triết học có thể giải quyết, bởi nó sẽ ln xảy ra 3 khả năng:
thiếu, thừa, hoặc “lấn” sang các khoa học khác. Khi có được năng lực tư duy trừu
tượng, con người tự khắc lý giải để từ đó có thể giải quyết được những vấn đề đã,
đang và sẽ đặt ra. Sự thích ứng nhanh chóng của nhận thức trước sự biến đổi của
hiện thực cũng là sự thể hiện năng lực của tư duy trừu tượng.

Trong những chiêm nghiệm về sự nhận thức đối với hiện thực, mặc dù có
thể khơng muốn (nhất là với các nhà tư tưởng tư sản không cùng ý thức hệ), nhưng
mỗi khi thế giới có những biến động mang tính sự kiện thì người ta lại lật giở lại
những tư tưởng kinh điển của triết học Mác để đối chiếu, so sánh và thử tìm cách lý
giải. Sự khủng hoảng tài chính năm 2008 và sự trở lại nghiên cứu bộ Tư bản của
C.Mác là một ví dụ. Điều này chứng tỏ một chân lý khách quan không thể bác bỏ
để giải thích sự thắng thế của các quan niệm duy vật biện chứng của C.Mác trong
từng giai đoạn xác định, bởi thực tiễn được dùng để kiểm chứng ln đem lại sự
khẳng định về tính đúng đắn ở tầm lý luận, trong sự phát triển và bổ sung của học
thuyết này.

3.1.2. Triết học là khoa học cung cấp nội dung những tri thức triết học; nhờ
đó, tư duy con người có thể tạo ra một trí tưởng tượng tích cực trong hoạt
động nhận thức và cải tạo thế giới.

Trí tưởng tượng này khơng phải là sự tưởng tượng một cách duy tâm, tách
khỏi sự tồn tại của đối tượng mà nhận thức phản ánh. Trong đó, một mặt, nó dựa
vào việc nhận thức được tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của đối tượng
(sự tồn tại và biến đổi tất yếu của đối tượng), trên cơ sở kết quả nghiên cứu của các

khoa học cụ thể; mặt khác, quan trọng hơn là nó phải dựa vào chính năng lực của
nhận thức, vào sự mường tượng ra thế giới theo đúng cách mà thế giới đang tồn tại.

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 11

Phải chăng trong sự tư biện của mình, tư duy thiên tài của Hêghen vẫn có giá trị bởi
chính năng lực tưởng tượng trừu tượng đó

Dự báo về sự tồn tại và phát triển của đối tượng thật không dễ, ngay cả trên
nền tảng của những tri thức đã biết về đối tượng. Nhân loại đã và đang có nhiều
cách luận giải khác nhau về tương lai của đối tượng. Có những quan điểm (có thể
vì hy vọng và mong muốn, cũng có thể vì khơng nhận thức được gì hơn) nghĩ rằng,
tương lai là sự tiếp tục của quá khứ. Bởi vậy, những giá trị của quá khứ đều có thể
ảnh hưởng và chi phối tương lai. Những quan điểm khác (bị chi phối bởi yếu tố tôn
giáo, tâm lý và nhiều khi chỉ đơn thuần bị tác động bởi các sự kiện đang diễn ra ở
hiện tại) cho rằng, khơng có tương lai, xã hội lồi người đang bước những bước
cuối cùng tới sự huỷ diệt.

Trí tưởng tượng có được trước hết phải dựa trên cơ sở nắm được những tri
thức triết học để biết rằng, mọi kết quả đều có ngun nhân, nhưng khơng phải mọi
sự kiện đều có thể tìm được ngun nhân của nó. Ví như đến một ngày người ta
không thể dùng quan hệ nhân quả để giải thích các sự kiện thì lúc đó, chỉ có năng
lực trừu tượng của những suy tư triết học mới có thể và cần phải tưởng tượng ra
một chìa khố vạn năng mới nhằm giải thích và hành động cho phù hợp với hiện
thực, chẳng hạn, trong trường hợp trên, cái cần tìm kiếm phải là một quy luật rộng
hơn tính nhân quả…

 Tóm lại, triết học cung cấp cho con người năng lực tư duy trừu tượng và
khả năng tưởng tượng ra thế giới trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Để
có được điều này, trước hết người ta cần và phải có sự tích luỹ tri thức, đặc biệt là

dựa trên kết quả của các khoa học cụ thể. Nhưng phép cộng giản đơn trong các
thành tựu của khoa học cụ thể tự nó lại khơng thể tạo thành năng lực tư duy trừu
tượng. Đó là lý do các khoa học cụ thể không thể thay thế cho triết học và triết học

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 12

cũng không thể làm được công việc của các khoa học cụ thể. Chính nội dung của
những tri thức triết học và chỉ có nó mới làm sản sinh trong năng lực nhận thức của
con người cách suy nghĩ và hành động phù hợp với hiện thực được phản ánh.

3.2. Ý nghĩa trong cuộc sống và kinh nghiệm

- Vật lý học đã và đang tìm kiếm được những lý thuyết đầy thuyết phục nhằm
thống nhất những quy luật vật lý quản lý toàn vũ trụ.

- Sinh học đã xây dựng được bản đồ gien con người.

- Y học có khả năng thay thế tạo hố bằng cách nhân bản chính bản thân con
người.

- Công nghệ nano (công nghệ mà độ chính xác đạt tới mức một phần tỷ mét)
có lẽ sẽ tạo được những rơbốt ngun tử tự phân chia và làm được mọi thứ, từ khai
thông mạch máu tới diệt tế bào ung thư, từ đảo ngược q trình trái đất nóng lên tới
chữa lành mọi bệnh tật.

Chương 4. Kết luận

“Khoa học cho chúng ta tri thức” Vì Khoa học là quá trình nghiên cứu khám phá
ra những kiến thức mới, học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Nhờ vậy chúng
ta mới có sự hiểu biết thực tế, có Tri thức qua sự trải nghiệm về một đối tượng

được chứng minh qua quá trình thực hành nghiên cứu và khám phá. Nhưng khoa
học lại không giải quyết được các vấn đề chung và cơ bản của con người và thế
giới quan. Mà chỉ tập trung nghiên cứu cụ thể vào một vào một sự vật hoặc một
hiện tượng.

Do đó: “chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thơng thái ” Vì Triết học nghiên
cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan. Đồng thời cách

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 13

thức mà Triết học giải quyết những vấn đề, đó là ở tính phê phán, tiếp cận có hệ
thống chung nhất. Nhờ vậy ta mới có thể am hiểu sâu rộng các kiến thức về nhiều
lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội bằng sự thông thái mà chúng ta có được
qua học tập và nghiên cứu

Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 14

Tài liệu tham khảo
Câu truyện triết học _ Tác giả Will Durant
/>cuu/su_thong_thai_xem_nhu_muc_dich_cua_giao_duc_khai_phong.html
/> /> /> />
Nguyễn Ánh Cao_Lớp: XDC19B_MSSV: 1980802 15


×