Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

CÂU HỎI ÔN THI MÔN QUAN HỆ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.58 KB, 47 trang )

1

ÔN TẬP MÔN QUAN HỆ QUỐC TẾ
Câu 1. Cạnh tranh quyền lực trong quan hệ quốc tế hiện nay và đối sách đối ngoại của Việt
Nam
Quyền lực trở thành vấn đề trung tâm trong nghiên cứu lý luận và thực tiễn quan hệ quốc tế vì
quyền lực là bản chất của chính tổ quốc tế và là tâm điểm lý luận của chủ nghĩa hiện thực cũng như tâm
điểm tranh luận của nhiều trường phái lý thuyết quan hệ quốc tế khác. Quyền lực là một lăng kính để giải
thích lịch sử quan hệ quốc tế cũng như là phương pháp luận để đánh giá tương quan lực lượng quốc tế và
dự báo sự vận động của trật tự quốc tế.
Khái niệm “quyền lực trong quan hệ quốc tế”: Quyền lực trong quan hệ quốc tế được hiểu là
khả năng của một quốc gia, hoặc một chủ thể quan hệ quốc tế kiểm soát, chi phối hoặc gây ảnh
hưởng đến các mặt của đời sống quốc tế và các chủ thể khác để bảo vệ lợi ích hoặc đạt được lợi ích
bên trong và bên ngoài phạm vi lãnh thổ của mình.
Phân loại quyền lực trong QHQT:
+ Cách phân loại dựa trên phương thức thực hiện quyền lực bao gồm: (1) quyền lực cứng là
khả năng một chủ thể có tiềm lực mạnh có khả năng cưỡng ép chủ thể khác thực hiện ý muốn của
mình bằng những cơng cụ hữu hình như qn sự và trừng phạt kinh tế; (2) quyền lực mềm là khả
năng dùng ảnh hưởng hay sự hấp dẫn để thuyết phục, lôi cuốn chủ thể khác làm theo ý muốn của
mình.
+ Cách phân loại dựa trên cơ sở thời gian gồm có: (1) quyền lực thực tại tức là quyền lực
hiện có như lực lượng quân sự, thu nhập quốc nội, trình độ khoa học - cơng nghệ, số lượng dân cư,
diện tích lãnh thổ; (2) quyền lực tiềm năng là khả năng quyền lực tăng lên trong tương lai dựa trên cơ
sở về khả năng phát triển vượt trội của năng lực nào đó.
+ Cách phân loại dựa trên hình thức biểu hiện của quyền lực gồm có: (1) quyền lực hữu hình
là những quyền lực mang tính vật chất, có thể đong đo, sờ thấy được như tài nguyên, lực lượng quân
sự quốc phịng, sản lượng kinh tế...; (2) quyền lực vơ hình là những quyền lực mang tính tinh thần,
những giá trị không sờ đếm được.
+ Cách phân loại dựa trên lĩnh vực hoạt động gồm có: quyền lực chỉnh trị, quyền lực quân
sự, quyền lực kinh tế... Cách phân loại này giúp các chủ thể dễ dàng nhận thấy mặt mạnh, mặt yếu,
sở trường hay sở đoản của bản thân chủ thể cũng như đối tác quan hệ để lựa chọn ưu tiên chính sách,


cơng cụ thực hiện và lĩnh vực quan hệ. Các loại quyền lực này có thể bổ sung và thay thế nhau trong
nhiều trường hợp.
+ Cách phân loại dựa trên khả năng tấn cơng hay phịng thủ gồm có: (1) quyền lực tấn công
là khả năng một quốc gia có thể ép buộc một quốc gia khác hành động theo ý muốn của mình.(2)
quyền lực phịng thủ là khả năng chống lại sự cưỡng ép của một quốc gia khác.
* Vấn đề cạnh tranh quyền lực trong quan hệ quốc tế:
Cạnh tranh quyền lực được hiểu là hình thái đổi kháng trực tiếp hay gián tiếp giữa hai hoặc
nhiều chủ thể nhằm kiềm chế lẫn nhau hoặc tranh giành ảnh hưởng đối với một hay một số chủ thể
khác thông qua việc tác động hoặc ép buộc chủ thể đó phục tùng ý chí của mình.
Theo quan điểm của trường phái tân hiện thực thì do bản chất vơ chính phủ của thế giới, do
luôn sống trong môi trường cạnh tranh, và vì nhu cầu quyền lực khơng có giới hạn của quốc gia, nên
mọi quốc gia đều tìm cách có được quyền lực để bảo vệ chủ quyền và lợi ích, cũng như đảm bảo sự
tồn tại lâu dài của mình. Do vậy, mọi quốc gia đều theo đuổi cạnh tranh quyền lực trong quan hệ
quốc tế, và đây luôn là yếu tố biến động. Nhu cầu gia tăng quyền lực được thực hiện bằng cách làm
cho mình mạnh lên và chủ thể khác yếu đi khiến cạnh tranh quyền lực là không tránh khỏi giữa các

2

quốc gia, là việc thường xuyên và vì thế trong quan hệ quốc tế dễ xảy ra xung đột. Chủ nghĩa hiện
thực cũng dùng quyền lực để xem xét và lý giải những cách ứng xử của các quốc gia trong quan hệ
quốc tế.

* Đối sách đối ngoại của Việt Nam.
- Tình hình thế giới và khu vực
Thứ nhất, đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động mạnh mẽ và tạo ra thách
thức không nhỏ đối với năng lực ứng phó của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đại dịch COVID-19
tác động sâu rộng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị - an ninh tồn cầu, đồng thời cũng
cho thấy sự phát triển của những xu thế mới trong quan hệ quốc tế.
Thứ hai, kinh tế thế giới tiếp tục đà phục hồi, tuy nhiên, quá trình phục hồi thiếu vững chắc,
không đồng đều và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hiện tượng gián đoạn sản xuất và đứt gãy, chuyển dịch

nhiều chuỗi cung ứng ở quy mô quốc gia, khu vực và toàn cầu đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế
nhiều nước, nhất là các nền kinh tế đang phát triển, đặt ra những thách thức ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
Thứ ba, tình hình chính trị - an ninh tồn cầu có nhiều chuyển động mới phức tạp, với những
chuyển dịch lớn trong cục diện chính trị, quân sự thế giới, tính bất định và bất ổn gia tăng.
Thứ tư, các vấn đề an ninh phi truyền thống, như biến đổi khí hậu, ơ nhiễm môi trường, dịch
bệnh, nguồn nước, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh mạng…, diễn biến ngày càng đa dạng, phức
tạp, khó dự báo, tác động gay gắt đến an ninh và phát triển của tất cả các nước.
- Kết quả công tác đối ngoại của Việt Nam
Các hoạt động đối ngoại cấp cao song phương trên cả kênh trực tuyến và trực tiếp đã thúc
đẩy quan hệ giữa Việt Nam với các nước, góp phần đưa quan hệ hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu,
thực chất. Trong năm 2021, đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch
Quốc hội đã có hơn 100 cuộc điện đàm, hội đàm trực tuyến với người đứng đầu nhiều đảng cầm
quyền, nhà nước, chính phủ và nghị viện các nước, các khu vực cũng như hầu hết các nước đối tác
lớn, quan trọng, trên cả kênh đảng và nhà nước.
Ngoại giao đa phương tiếp tục ghi những dấu ấn nổi bật, đặc biệt tại các cơ chế của Liên hợp
quốc - diễn đàn đa phương lớn nhất và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ nhất thế giới. Việt Nam đã hoàn
thành tốt đẹp trọng trách lần thứ hai đảm nhiệm vai trị Ủy viên khơng thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2020 - 2021.
Trong ASEAN, Việt Nam tiếp tục tham gia chủ động, tích cực, đóng góp có trách nhiệm
nhằm thúc đẩy các nội dung ưu tiên của ASEAN về kiểm soát dịch bệnh, cải thiện năng lực y tế công
cộng, thúc đẩy tiếp cận các nguồn vaccine phòng ngừa dịch bệnh COVID-19 song song với duy trì
chuỗi cung ứng, hỗ trợ các doanh nghiệp trong khu vực chuyển đổi sản xuất, chuyển đổi số thích ứng
với điều kiện mới.
Ngoại giao vaccine được triển khai đồng bộ và tích cực ở tất cả các cấp và trên cả ba trụ cột
đối ngoại.
Các hoạt động ngoại giao kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được thúc đẩy, nhất là
việc triển khai hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã được ký kết, trở thành mắt xích
quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế.
Công tác ngoại giao văn hóa với trọng tâm là tiếp tục triển khai Đề án “Tơn vinh Chủ tịch
Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngồi”; vận động

UNESCO cơng nhận một số khu dự trữ sinh quyển, di sản văn hóa, danh lam thắng cảnh trong
nước...
Công tác biên giới lãnh thổ đạt được những kết quả tích cực, trọng tâm là tăng cường công

3

tác phối hợp với các nước láng giềng trong quản lý biên giới, phòng, chống dịch bệnh COVID-19,
thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực biên giới.

Công tác người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được quan tâm đặc biệt, với những chuyển
biến về chất, khẳng định quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta: “Người Việt Nam ở nước
ngồi là một bộ phận khơng tách rời của dân tộc Việt Nam”, đồng thời phát huy có hiệu quả nguồn
lực, tinh thần yêu nước của đồng bào hướng về quê hương.

- Đối sách đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới
Công tác đối ngoại của Việt Nam đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới xuất phát từ vị
thế, tiềm lực mới của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới và từ những thay đổi của cục diện quốc tế,
đặc biệt trong giai đoạn “hậu COVID-19”. Mục tiêu cao nhất của công tác đối ngoại Việt Nam là tiếp
tục phát huy vai trò tiên phong trong “tạo lập và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định”, “huy động
các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước” và “nâng cao vị thế, uy tín của đất nước”, có những
đóng góp xứng đáng vào việc hiện thực hóa ba mục tiêu phát triển chiến lược đến năm 2025, năm
2030 và năm 2045 của đất nước. Việc bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi là mục tiêu tối thượng, xuyên suốt, bất biến.
Trong bối cảnh nhiều cơ hội cũng như thách thức, mơi trường nhiều biến động, khó dự báo,
việc bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ, nhất quán triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa
dạng hóa, đa phương hóa; kiên trì về ngun tắc, mềm dẻo về sách lược sẽ là nhân tố quan trọng
mang tính quyết định. Xây dựng nền ngoại giao tồn diện, hiện đại, phát huy vai trò và sự thống nhất
của ba kênh đối ngoại chủ lực: đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; sự chủ
động, sáng tạo, linh hoạt trên cả kênh song phương và đa phương; trên tất cả các lĩnh vực từ chính

trị, hội nhập quốc tế, kinh tế, văn hóa, biên giới lãnh thổ, thơng tin đối ngoại…; hóa giải các thách
thức “từ sớm, từ xa”; đưa các mối quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, hiệu quả phục vụ các mục tiêu
an ninh và phát triển của đất nước; chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trị của Việt
Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị, kinh tế quốc tế sẽ là những
trọng tâm của công tác đối ngoại trong thời gian tới.

Câu 2. Vai trò của các chủ thể chính đối với việc định hình trật tự thế giới mới
Một trong những vấn để nổi bật, thu hút sự quan tâm của thế giới hiện nay là vấn đề Trật tự
thế giới mới. Sự sụp đổ của chế độ Xã hội Chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu 20 năm trước
đây đã phá vỡ trật tự hai cực, kéo theo sự đảo lộn lớn trên mọi phương diện của thế giới. Trật tự thế
giới hiện nay được nhận định đang vận động, biến đổi nhanh chóng để tái định hình. Trong thập niên
tới, trật tự thế giới tái định hình như thế nào, đơn cực, hai cực hay chuyển sang trật tự đa cực, là vấn
đề được các quốc gia quan tâm.
Trật tự thế giới là trạng thái tương đổỉ ổn định của đời sống thế gỉới, trong đỏ phản ánh tương
quan sắp xếp, so sánh lực lượng giữa các chủ thể cấu thành đời sổng quốc tế. Nó thể hiện thứ bậc
quyền lực, do các nước lớn quyết định, trong một thời kỳ nhất định (thường là giai đoạn dài).
Trong lịch sử có bốn loại trật tự chính: (1) trật tự đơn cực; (2) trật tự hai cực; (3) trật tự đa
cực; (4) trật tự không phân cực.
Trật tự quốc tế hiện đại được xây dựng trên hệ thống quốc gia - dân tộc, những chủ thể chính
có chủ quyền cùng nhau tồn tại và cùng nhau xây dựng, công nhận những luật chơi chung như
nguyên tắc tổ chức, vận hành trật tự, các tiêu chuẩn về hành vi điều chỉnh các mối quan hệ, tương tác
giữa các chủ thể này với nhau. Và các chủ thể này có vai trị quan trọng trong việc định hình trật tự

4

thế giới mới.
Thứ nhất, cạnh tranh chiến lược nước lớn và tương quan so sánh lực lượng của các chủ thể

chính có vai trị quyết định đến việc định hình trật tự thế giới mới.
Từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI đến nay, do sự suy giảm tương đối vị thế của Mỹ, Tây


Âu và Nhật Bản, sự trỗi dậy của Trung Quốc, một phần của Nga, Ấn Độ và một số nước khác, thế
giới bắt đầu giai đoạn quá độ từ trật tự thế giới đơn cực sang đa cực, trong đó Mỹ vẫn nắm giữ vai
trò nổi trội trong các vấn đề quốc tế, cho dù siêu cường này đang bị Trung Quốc và Nga thách thức.

Việc Trung Quốc quyết tâm theo đuổi “giấc mộng Trung Hoa”, nước Nga phát động chiến
tranh ở Ucraina, chống lại ảnh hưởng, trật tự phương Tây do Mỹ đứng đầu cũng như Mỹ đang dồn
mọi nỗ lực, tập hợp lực lượng chống lại Nga và Trung Quốc, làm cho trật tự thế giới hiện nay ở thế
giằng co giữa “một cực” và “đa cực”, cho dù xu hướng đa cực có phần trội hơn.

Tương quan lực lượng Mỹ - Nga - Trung Quốc là yếu tố tác động tồn diện, sâu sắc nhất đến
việc định hình, nhận diện trật tự thế giới trong thời gian tới. Với trật tự thế giới “đa cực, đa trung
tâm” tiếp tục định hình rõ nét hơn, trong đó Mỹ, Nga, Trung Quốc được đánh giá là ba “cực” chính,
quan trọng nhất. Nhiều nhà nghiên cứu nhận định rằng, Mỹ và Trung Quốc ở hai “cực” đối đầu, đóng
vai trị chi phối, tạo dựng bức tranh tồn cảnh thế giới. Nga có vai trò “cân bằng chiến lược”, quyết
định kết quả trong cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc. Các nước cịn lại đóng vai trò như các “cực” vừa và
nhỏ, do thực lực và vị thế quốc tế chưa thể sánh ngang với các “cực” chính nên các “cực” này, một
mặt, vẫn liên kết với “cực” đứng đầu là Mỹ, Trung Quốc (xu hướng theo sự gắn kết lợi ích, hệ giá trị
và quan hệ truyền thống) để tạo thế đứng trong quan hệ quốc tế; mặt khác, liên kết với nhau để tạo sự
tự chủ chiến lược, từng bước thiết lập quyền lực nhất định trong trật tự thế giới dựa trên luật lệ.

Xét tổng thể, các chủ thể có khả năng trở thành các “cực”, các trung tâm quyền lực chi phối,
định hình trật tự thế giới mới sẽ khơng ngừng vận động, cạnh tranh gay gắt, nhất là giữa các “cực”
đối trọng nhằm khẳng định vị thế, vai trò trong hệ thống quốc tế. Các nước lớn có xu hướng quy tụ
các nước nhỏ hơn thông qua việc dùng ưu thế, sức ảnh hưởng của mình trên các lĩnh vực kinh tế,
quân sự, công nghệ... để tập hợp lực lượng, đồng thời tạo thế đối trọng cần thiết với các “cực” khác.
Cùng với đó, các “cực” có điểm đồng lợi ích tiếp tục liên minh, liên kết với nhau để gia tăng sức
mạnh, đối trọng với các “cực” đối kháng lợi ích chiến lược. Chính sách của các nước lớn cũng như
mối quan hệ tương tác giữa các nước lớn với nhau ở từng khu vực và trên toàn thế giới có ảnh hưởng
mang tính quyết định đến “hình thù”, tính chất của trật tự và buộc những nước nhỏ hon phải điều

chỉnh, thích nghi với “luật chơi” để tìm một chỗ đứng ít bất lợi nhất trong trật tự. Trên cơ sở đó, trật
tự thế giới “đa cực, đa trung tâm” đang định hình sẽ tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó
đốn định hơn do sự tính tốn chiến lược nước lớn ln xoay chuyển theo cục diện, bối cảnh chuyển
động không ngừng.

Thứ hai, Các chủ thể chính góp phần xây dựng và đảm bảo thực thi luật chơi của trật tự, qua
đó duy trì ổn định của trật tự. Trật tự thế giới dựa trên luật lệ vẫn đang khá thịnh hành và chi phối
quan hệ quốc tế hiện nay nhưng hiện nay, trật tự này đang bị thách thức nghiêm trọng bởi các nước
lớn luôn đề cao sức mạnh và sẵn sàng đưa ra luật chơi riêng của mình, sử dụng sức mạnh, can thiệp
vào cơng việc nội bộ của nước khác để đạt các mục tiêu khác nhau, trong đó có mục tiêu địa chính
trị. Chính vì vậy, các quốc gia - dân tộc, chủ thể chính trong quan hệ quốc tế phải có nỗ lực mới để
cải tổ, đổi mới hay xây dựng lại một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ công bằng hơn.

Thứ ba, tác động đến cấu trúc địa lý của khu vực. Châu Á - Thái Bình Dương ngày càng nổi
lên là khu vực trung tâm của cục diện mới, trật tự thế giới mới đang định hình; là địa bàn ưu tiên
hàng đầu của các “cực” chính, gồm Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, Nhật Bản, Ô-xtrây-li-a, Hàn

5

Quốc và ASEAN. Trong đó, Mỹ và Trung Quốc là hai cực chi phối chủ đạo trật tự khu vực châu Á -
Thái Bình Dương và các chủ thể cịn lại có tác động ở mức độ thấp hơn.

Trật tự thế giới hiện nay tiếp tục chuyển động phức tạp, đang dần định hình sang trật tự “đa
cực, đa trung tâm” với sự tham gia sâu rộng của các chủ thể khác nhau, trong đó, vai trị trung tâm
của châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á/ASEAN ngày càng được khẳng định. Xu hướng
định hình trật tự thế giới mới được dự báo có tác động sâu sắc đến tình hình thế giới, khu vực và hệ
thống quốc tế, trong đó có Việt Nam.

Liên hệ: Ảnh hưởng đến Việt Nam
Một là, trật tự đa cực đang hình thành ngày càng rõ nét cho phép Việt Nam có điều kiện để

thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong quan hệ quốc tế và lựa chọn những kế sách phù hợp để
bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.
Hai là, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc, diễn
ra ngày càng gay gắt, phức tạp, tác động đến hịa bình, ổn định và quan hệ quốc tế của nhiều nước,
trong đó có Việt Nam.
Ba là, hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ
nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ và sự phụ thuộc của các nước đang
phát triển, nước nhỏ vào nước lớn có xu hướng gia tăng, tác động khơng nhỏ đến vấn đề bảo vệ lợi
ích quốc gia - dân tộc.
Bốn là, nhiều vấn đề có tính tồn cầu nổi lên, tác động mạnh tới nhận thức và quan hệ của
các nước nói chung, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam nói riêng.
Năm là, châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục là khu vực phát triển năng động, có vị trí địa kinh
tế - chính trị ngày càng quan trọng trên thế giới, nhưng tiềm ẩn nhiều nhân tố bất ổn, tác động đến
việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam.
Đề xuất đối sách của Việt Nam:
- Củng cố quan hệ đối tác toàn diện với Mỹ; đối tác chiến lược toàn diện vói Trung Quốc và
Nga, thực hiện ‘‘cân bằng” trong quan hệ vói ba nước trên ngun tác lợi ích dân tộc là tối cao.
- Bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc trên cở sở những nguyên tác cơ bản của luật
pháp quốc tế, Hiến chương Liên họp quốc..., thông qua các cơ chế đa phương quốc tế như Liên họp
quốc, ASEAN, APEC...
- Mềm dẻo, linh hoạt, không để “bị kẹt” giữa các nước Mỹ, Trung Quốc và Nga; kiên trì họp
tác, tranh thủ sự ủng hộ của các nước Mỹ, Trung Quốc và Nga.
- Trong đối ngoại, hội nhập quốc tế cần quán triệt và thực hiện tốt phương châm xác định
“đối tác, đối tượng”, “dĩ bất biến ứngvạn biến”, không để bị đẩy vào thế phải “chọn bên” trong cạnh
tranh địa chiến lược Mỹ - Trung Quốc - Nga.
- Nâng cao tiềm lực an ninh - quốc phòng để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thốngnhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích chiến lược của đất nước.
Tóm lại, tình hình thế giới và khu vực hiện nay và dự báo trong thập niên thứ ba của thế kỷ
XXI có những biến đổi phức tạp, nhanh chóng và khó lường. Tình hình trên tiếp tục tác động trực
tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vừa tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi mới, vừa mang

đến những khó khăn, thách thức lớn đối với nước ta, đòi hỏi cần phải ln theo dõi, bám sát tình
hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng bối cảnh quốc tế. Đặc biệt, phải nắm bắt, dự
báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, khu vực cũng như mục tiêu, lợi ích, ý đồ chiến lược
của các nước, nhất là các nước lớn, đối với khu vực và Việt Nam để đề ra đường lối, chính sách, sách
lược kịp thời, trong đó phải ln đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ,

6

đồng thời tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bất
luận trong hồn cảnh nào cũng cần tìm phương cách để tránh rơi vào thế kẹt giữa các bên./.

Câu 3. Đặc điểm của cục diện thế giới
Khái niệm: Cục diện thế giới được hiểu là “trạng thái” của thế giới tại một thời điểm hay
trong một khoảng thời gian nhất định (tương đối ngắn), phản ánh tương quan lực lượng và mối quan
hệ giữa các chủ thể quốc tế khác nhau, trước hết và quan trọng nhất là giữa các cường quốc, các
trung tâm quyền lực lớn của thế giới. Nó cũng bao gồm cả xu hướng vận động của tương quan lực
lượng và trạng thái quan hệ giữa các chủ thể chính tại thời điểm đó. về nội hàm, cục diện thế giới bao
quát diện mạo của thế giới trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, tơn giáo...
Tuy nhiên, nghiên cứu, phân tích về cục diện thế giới thường tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, quốc phịng - an ninh.
Tuy cục diện thế giới là bửc tranh toàn cảnh về thế giới, nhung trong phân tích, dự báo cục
diện thế giới thường dựa trên ba thành tố chủ yếu: (1) cấu trúc dựa trên sự so sánh tương quan sức
mạnh và quyền lực giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực lớn trên các bình diện chủ yếu, cả
song phương và đa phương; (2) các đặc điểm lớn, các nhân tố tác động và các xu hướng vận động
chủ yếu của quan hệ quốc té đương đại; (3) vai trò và đặc điểm của hệ thống các thể chế, cơ chế hợp
tác toàn cầu, liên khu vực và khu vực.
Nghiên cứu cục diện thế giới thường tập trung vào trạng thái “tĩnh”, tương đối ổn định của
bức tranh thế giới toàn cảnh trong một thời điểm hay một khoảng thời gian cụ thể, nhưng điều này
không hề mâu thuẫn với bản chất vận động khơng ngừng của tình hình quốc tế dưới sự tác động của

các nhân tố chủ quan (chiến lược, chính sách của các chủ thể) và khách quan, nhất là các xu thế lớn
của thế giới làm thay đổi tương quan lực lượng giữa các chủ thể chính dẫn đến làm thay đổi cục diện.
Nếu lấy cột mốc từ khởi đầu thế kỷ XXI hoặc từ cuộc khủng hoảng năm 2008 đến nay, có thể
khái quát một số đặc điểm nổi bật của cục diện thế giới hiện nay như sau:
Một là, cục diện thế giới hiện nay và xu hướng vận động của nó là kết quả của sự tương tác
lẫn nhau giữa nhiều loại hình chủ thể quan hệ quốc tế, với vai trò trung tâm của các nước lớn.
Chủ thể quan trọng và chủ yếu nhất trong quan hệ quốc tế là các quốc gia dân tộc có chủ
quyền. Sự tương tác phức tạp và phong phú của 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc tham gia vào
đời sống quốc tế tạo nên diện mạo quan hệ quốc tế hiện đại. Trong đó, các nước thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5) gồm Mỹ, Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp; nhóm các nước cơng
nghiệp phát triển (G7) gồm Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản, Canada; nhóm các nước có nền
kinh tế mới nổi (BRICS) gồm Nga, Trung Quốc, Ẩn Độ, Brazil và Nam Phi; nhóm các nước phát
triển và mới nổi (G20)... là những chủ thể quan trọng hàng đầu, có vai trị then chốt trong định hình
và sự vận động của mơi trường quan hệ quốc tế và cục diện thế giới.
Ngồi nhóm chủ thể quan trọng nhất là quốc gia - dân tộc, trong quan hệ quốc tế ngày nay,
các tổ chức quốc tế liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ quốc tế, các cơng ty, tập đồn xun
quốc gia, đa quốc gia (hiện nay nổi lên là các tập đồn cơng nghệ), các phong trào chính trị, xã hội
và các tổ chức tơn giáo tồn cầu cũng là những chủ thể có vai trị ngày càng quan trọng trong đời
sống quốc tế. Trong đó, hệ thống các tổ chức liên chính phủ khu vực, liên khu vực và tồn cầu phong
phú, đa dạng được phân loại theo lĩnh vực, phạm vi địa lý, ngành nghề... được thành lập từ các quốc
gia có chủ quyền ra đời ngày càng nhiều và có vai trị ảnh hưởng ngày càng quan trọng đến chính trị
quốc tế, trong tập hợp lực lượng quốc tế và định hình diện mạo trật tự thế giới.

7

Hai là, thế giới hiện nay vẫn thể hiện ngày càng rõ nét cục diện đa cực, đa trung tâm, trong
đó, tuy khơng là the giới đơn cực do Mỹ chi phối bằng sức mạnh vô song nhưng chắc chắn chưa phải
là thế giới đa cực cân xứng khi chưa nước nào có sức mạnh tổng hợp có thể sánh ngang với Mỹ và
sẵn sàng công khai đối đầu trực diện với Mỹ.


Trước hết, xu thế vận động theo hướng đa cực, đa trung tâm vẫn diễn ra nhanh, trong đó Mỹ
suy giảm sức mạnh tương đối trong khi các cường quốc khác, nhất là Trung Quốc đang nổi lên ngày
một rõ hơn, cụ thể:

Về kinh tế: Mỹ đang mất dần vai trò và ưu thế tuyệt đối của đầu tầu kinh tế của thế giới xét
cả về quy mô kinh tế, tỷ lệ phần trăm trong GDP tồn cầu, đóng góp cho tăng trường tồn cầu, giá trị
thương mại và đầu tư quốc tế. Trong khi đó, Trung Quốc vươn lên thần tốc sau hơn 30 năm cải cách,
mở cửa và từ năm 2010 trờ thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới. Trung Quốc là công xưởng sản
xuất của thế giới, với nguồn dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới, là chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Chỉ so
sánh giữa Mỹ với Trung Quốc, Mỹ đứng đầu về danh nghĩa trong khi Trung Quốc đứng đầu về sức
mua tương đương (PPP) kể từ năm 2014 sau khi vượt Mỹ. Cả hai quốc gia cùng chia sẻ 40,75% và
34,27% tổng GDP của thế giới tính theo danh nghĩa và theo sức mua tương đương vào năm 2019.
Theo ước tính của Ngan hàng Thế giới (WB), GDP Trung Quốc chỉ xấp xỉ 11% của Hoa Kỳ vào
năm 1960 nhưng năm 2017 là 63%. Ngoài ra, sự trỗi dậy của nhiều nước và trung tâm khác như Ấn
Độ, Hàn Quốc..., của Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á (ASEAN)... cũng rất ấn tượng. Vai trị
trung tâm tài chính quốc tế của New York đang giảm đần trước sự nổi lên của các trung tâm tài chính
Frankfurt, Tokyo, Hongkong, Singapore, Thượng Hải, Mumbai.

Về quân sự: Tuy Mỹ hiện nay vẫn duy tri vị the số 1 của minh, nhưng về sức mạnh quân sự
cũng đứng trước một số khó khăn nhất định. Đó là ngân sách quốc phòng quá lớn, vượt sức chịu
đựng của nền kinh tế, ảnh hưởng đến các vấn đề an sinh xã hội. Trong khi đó, Nga, Trung Quốc, Ấn
Độ là những đối thủ ngày càng mạnh, về mặt sức mạnh quân sự, xét ở khía cạnh vũ khí, khí tài có
những mặt Nga khơng thua kém Mỹ. Trong khi Trung Quốc có ngân sách quốc phòng thứ hai thế
giới, lực lượng ngày càng được hiện đại với tham vọng trở thành quân đội đẳng cấp thế giới vào giữa
thế kỷ XXI.

Về khoa học - cơng nghệ: Mỹ khơng cịn chiếm vị trí độc tôn như trước, các cường quốc mới
nổi như Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, thậm chí các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới (NECs) như
Hàn Quốc cũng đã và đang tìm cách vươn lên cạnh tranh mạnh mẽ với Mỹ. Trong đó, đáng chú ý là
Trung Quốc đang tìm cách vượt Mỹ trong việc làm chủ các công nghệ của cuộc Cách mạng cơng

nghiệp 4.0, nhất là về trí tuệ nhân tạo, mạng 5G...

về chỉnh trị - ngoại giao: Mỹ trở thành đối tượng bị nhiều đối thủ cạnh tranh ảnh hường
(ngay cả đồng minh thân cận). Uy tín và ảnh hưởng sức mạnh mềm của Mỹ bị suy giảm nhiều, nhất
là bởi chính sách “Nước Mỹ trên hết” dưới thời Tổng thống D.Trump. Mỹ giờ đây cũng khơng cịn là
mơ hình hấp dẫn nổi bật về nhiều khía cạnh, gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa.

Cùng với sự trỗi dậy và cạnh tranh của Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, vai trò gia tăng của các
thực thể và trung tâm quyền lực quốc tế như EU, BRICS, G20, ASEAN, Tổ chức hợp tác Thượng
Hải (SCO)... cũng khiến quyền lực và ảnh hưởng của Mỹ phần nào bị phân tán, suy giảm tương đối.
Tuy nhiên, xét về tuyệt đối, Mỹ vẫn là siêu cường toàn điện số 1 thế giới, chưa có đối thủ ngang
hàng. Ngân sách quân sự Mỹ vẫn chiếm một phần hai ngân sách quốc phịng tồn cầu. Mỹ có hệ
thống căn cứ khắp tồn cầu và một quân đội chuyên nghiệp hàng đầu. Kinh tế Mỹ chiếm một phần tư
GDP toàn cầu, vẫn chiếm nhiều đỉnh cao và mũi nhọn của thành tựu tri thức và khoa học “ cơng
nghệ tồn cầu, chi phối hệ thống thơng tin truyền thơng tồn cầu. Trong khi đó, Trung Quốc xét trên

8

khía cạnh so sánh tuyệt đối còn cách xa Mỹ, chưa thể đuổi kịp Mỹ trong một sớm một chiều trên hầu
khắp các lĩnh vực cũng như sức mạnh tổng thể, trong khi sự phát triển là khơng ổn định và gặp nhiều
khó khăn cả nội bộ và đối ngoại trong thời gian tới. Nga chỉ đúng nghĩa là một cường quốc quân sự
toàn cầu. EU đang gặp nhiều khó khăn cả về chính trị, gắn kết nội bộ và phát triển để có thể là một
trung tâm quyền lực đe dọa vị thế của Mỹ. Các thực thể quốc tế đa phương khác chưa thể trở thành
những trung tâm quyền lực theo đúng nghĩa, chưa thể đối trọng được với các cực, các trung tâm
quyền lực truyền thống.

Như vậy, cục diện thế giới hiện nay vẫn có sự bất cân xứng trong tương quan và phân bổ sức
mạnh giữa các cường quốc, các trung tâm quyền lực với sự nghiêng về Mỹ, nhưng đang biến đổi và
dịch chuyển nhanh chóng theo hướng thu hẹp khoảng cách trong tương quan so sánh sức mạnh giữa
các cực, trung tâm quyền lực trong cục diện thế giới hiện nay.


Ba là, quan hệ Mỹ - Trung và sự cạnh tranh chiến lược và tập hợp lực lượng xoay quanh mối
quan hệ Mỹ - Trung ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương giữ vai trị chủ đạo, chi phối, quyết định
quá trình vận động và định hình cục diện thế giới hiện nay và trong những thập kỷ tới.

Khu vực châu Á ngày càng trở thành trọng điểm của địa-chính trị và kinh tế tồn cầu. Vì thế,
cường quốc nào chi phối, thống trị được khu vực rộng lớn này sẽ nắm giữ bá quyền thế giới. Mỹ từ
sau Chiến tranh thế giới lần thứ II đến nay luôn giữ vị thế trung tâm quyền lực toàn cầu và khu vực.
Tuy nhiên, bối cảnh khu vực đang thay đổi nhanh chóng theo những cách khơng có lợi cho lợi ích
của Mỹ. Trong hàng loạt những thách thức đang nổi lên mà Mỹ phải đối mặt thì sự trỗi dậy mạnh mẽ
của Trung Quốc đang gây ra những thách thức thực sự mang tính chiến lược đối với vị thế thống trị
của Mỹ tại khu vực. Trên thực tế, Trung Quốc đang ngấm ngầm tiến hành một cuộc cạnh tranh chiến
lược tồn diện với Mỹ thơng qua việc sử dụng tổng hợp mọi nguồn lực, trên nhiều mặt trận nhằm
làm suy yếu sức mạnh và ảnh hường của Mỹ, tiến tới lật đổ Mỹ khỏi ngôi vị thống trị khu vực và
toàn cầu. Sáng kiến BRI, Made in China 2025 do Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khởi xướng
trong những năm gần đây và “Giấc mộng Trung Hoa” được thể hiện qua tầm nhìn hai mục tiêu 100
năm được đưa ra tại Báo cáo Chính trị Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2017 cho thấy
rõ tham vọng địa-chính trị, kinh tế và cơng nghệ của Bắc Kinh. Nó khơng chỉ là cuộc đại phục hưng
dân tộc Trung Hoa, mà sâu xa hơn đó là tham vọng bá chủ khu vực và thế giới của Trung Quốc.

Trong bối cảnh mơi trường chiến lược đang thay đổi nhanh chóng, Mỹ “rất khẩn thiết cần có
một chiến lược tồn diện để tái lập sự lãnh đạo của Mỹ trong khu vực, đồn kết các đối tác có cùng ý
tưởng để theo đuổi những mục tiêu chung và đẩy mạnh nhiều lợi ích của Mỹ tại đó”. Giới tinh hoa
chính trị, học giả và dân chúng Mỹ ngày càng xem Trung Quốc là thách thức lớn nhất đe dọa vị thế
bá quyền của Mỹ và đòi hỏi cần thiết phải xây dựng chiến lược đối phóvà kiềm chế Trung Quốc.
Tổng thống B.Obama đã khởi xướng chiến lược “Xoay trục” về châu Á - Thái Bình Dương với mục
tiêu trọng tâm là Trung Quốc. Tổng thống D.Trump dù muốn phủ định sạch trơn di sản đối ngoại của
Tổng thống B.Obama nhưng về cơ bản chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng
mở” của Chính quyền D.Trump là sự tiếp nối chiến lược của Chính quyền B.Obama cả về nội dung,
mục tiêu và biện pháp. Thậm chí, trong mục tiêu kiềm chế Trung Quốc, Chính quyền D.Trump đã

cơng khai, trực diện, quyết liệt và nhất quán hơn nhiều so với Chính quyền B.Obama. Tổng thống
D.Trump đã đưa cạnh tranh Mỹ “ Trung vào trung tâm của chính sách đối ngoại Mỹ và đưa quan hệ
Mỹ - Trung tới bờ vực của một cuộc Chiến tranh lạnh mới. Như vậy, dù Tổng thống J.Biden lãnh
đạo nước Mỹ những năm tới, ít ai nghi ngờ rằng, bức tranh địa-chính trị khu vực trong những năm
tới sẽ là sự cạnh tranh quyết liệt giữa Mỹ và Trung Quốc, trong đó “Mỹ với vị thế bá quyền trong thế
giới phương Tây sẽ làm hết sức mình để ngăn cản Trung Quốc chiếm vị trí tương tự trong thế giới

9

phương Đông”.
Bổn là, cục diện thế giới hiện nay chứng kiến sự trỗi dậy của các xu hướng chính trị dân tủy,

dân tộc chủ nghĩa, thiên hữu và nó có tác động khơng nhỏ tới sự vận động của các mối quan hệ quốc
tế và trạng thái của cục diện chính trị, an ninh và kinh tế quốc tế. Các xu hướng chính trị này được
thể hiện trong những hình thức đa dạng sau đây:

Thứ nhất, đó là những biểu hiện của chủ nghĩa sơvanh nước lớn, chủ nghĩa bành trướng, bá
quyền và chính trị cường quyền trong quan hệ quốc tế hiện nay. Theo đó, nước lớn gia tăng xu
hướng dung sức mạnh cưỡng ép, hăm dọa và áp đặt nước nhỏ, bỏ qua hoặc tìm cách tước đoạt chủ
quyền và các lợi quốc gia cơ bản của nước nhỏ, bất chấp các chuẩn mực ứng xử trong quan hệ giữa
các quốc gia cũng như luật pháp quốc tế. Xu hướng này có thể phá vỡ trật tự quốc tế và gây bất ổn
cho an ninh quốc tể.

Thứ hai, đó là sự xuất hiện và hồi sinh mạnh mẽ gần đây của các tư tưởng, các đảng phái, các
phong trào mang tính phân biệt, bài ngoại, cực hữu, chống nhập cư, chống Hồi giáo ở châu Âu như
Đảng Mặt trận quốc gia ở Pháp của Marine Le Pen, Đảng Tự do Áo, Đảng Độc lập Anh, Đảng
Liênđoàn phương Bắc ở Italia, Đảng Nhân dân ở Đan Mạch, Phong trào Brexit ở Anh, Đảng Tự do
Hà Lan, Đảng Con đường khác cho nước Đức, Đảng Dân chủ cực hữu Thụy Điển, Đảng cực hữu
Golden Dawn ở Hy Lạp... và phần nào đó có thể kể đến tư tưởng “nước Mỹ trên hết”, cùng những
chính sách chống nhập cư và Hồi giáo của Tổng thống D.Trump.


Thứ ba, đó là các hành vi của chủ nghĩa thực dụng, vụ lợi, theo đuổi, đề cao lợi ích quốc gia
mang tính tư lợi, vị kỷ, hẹp hòi trong quan hệ quốc tế, chỉ biết tập trung vào việc đạt được quyền lợi
cho quốc gia - dân tộc minh mà không quan tâm, khơng chịu nhân nhượng lẫn nhau, thậm chí làm
tổn hại lợi ích chính đáng của các quốc gia bên thứ ba khác. Trong hình thức này, chủ nghĩa dân tộc
cũng thờ ơ, lảng tránh trách nhiệm và nghĩa vụ đối với cộng đồng quốc tế nói chung, với việc giải
quyết những vấn đề chung của tồn nhân loại, khơng gắn lợi ích dân tộc với lợi ích chung của cộng
đồng quốc tế.

Thứ tư, một biểu hiện khác của chủ nghĩa dân tộc hiện nay là chủ nghĩa đơn phương, chối bỏ
chủ nghĩa tồn cầu, chống tồn cầu hóa, theo đuổỉ chủ nghĩa bảo hộ và các chính sách thương mại,
đầu tư mang tính phân biệt đối xử có lợi cho quốc gia mình. Hình thức này được các nhà nghiên cứu
gọi là chủ nghĩa dân tộc kinh tếNhững người theo đuổi chủ nghĩa dân tộc kinh tế khơng thừa nhận
khía cạnh “đơi bên cùng có lợi, cùng thắng” trong việc hợp tác đa phương, thay vì vậy họ chỉ “tập
trung vào một người chiến thắng duy nhất các cuộc thương lượng quốc tế”. Chính sách của Tổng
thơng Mỹ D.Trump là một biểu hiện rõ rệt của hình thức chủ nghĩa dân tộc kinh tế.

Vì đặc điểm cốt lõi của chủ nghĩa dân tộc kinh tế là sự bảo vệ sự tự chủ và lợi ích kinh tế của
quốc gia, những người dân tộc chủ nghĩa có thể ủng hộ hoặc chống lại các mối quan hệ kinh tế chặt
chẽ với các nền kinh tế nước ngoài tùy thuộc vào sức mạnh và vị trí quốc tế của một nền kinh tế quốc
gia cụ thể. Trong ý nghĩa đó, những người dân tộc chủ nghĩa khơng ln gắn với chính sách bảo hộ
mà phụ thuộc vào cách nhìn và tính tốn của họ về lợi ích quốc gia như thế nào mà lựa chọn độc lập
hay hội nhập, phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Điều này được củng cố bởi một thực tế là chủ nghĩa
thực dụng và lợi ích quốc gia (nhất là về kinh tế) đang chi phối các mối quan hệ quốc tế trong thế
giới đương đại. Trong thực tế ấy có một nghịch lý là một số quốc gia phát triển, được cho là khởi
nguồn và đi tiên phong trong thúc đẩy tồn cầu hóa, cổ súy cho tự do thương mại nay lại quay sang
chống toàn cầu hóa và bảo hộ mậu dịch. Trong khi đó, một số nước đang phát triển, được cho là đi
sau trong tiến trình tồn cầu hóa lại tỏ ta nhiệt thành với tồn cầu hóa, tự do thương mại và hội nhập.
Điều đó cho thấy rằng tư tưởng dân tộc chủ nghĩa về kinh tế khơng chỉ có ở những người quay lưng


10

với tồn cầu hóa và tự do thương mại, mà những tư tưởng cổ vũ cho tồn cầu hóa và tự do thương
mại nhằm đạt được những lợi ích kinh tế và chính trị khơng công bằng, không minh bạch, không
cùng thắng thông qua việc thực hiện cái mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là “chính sách đầu tư và mậu
dịch mang tính cướp đoạt”, “ngoại giao bẫy nợ” cũng có thể xem là một dạng biểu hiện của chủ
nghĩa dân tộc về kinh tế Khía cạnh này mang lại sự lý giải đầy đủ hơn cho những biểu hiện đa sắc
thái của chủ nghĩa dân tộc kinh té trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay.

Năm là, cục diện thế giới hiện nay và xu hướng vận động của nó chứng kiến ảnh hưởng và sự
tác động quan trọng của các thể chế đa phương toàn cầu, khu vực, các vấn đề an ninh phi truyền
thống đang nổi lên. Các cường quốc đều tìm cách gây ảnh hưởng tới các thể chế đa phương, tìm cách
thiết lập các sân chơi và luật chơi mới có lợi cho họ cùng với sự đua tranh, cạnh tranh quyết liệt trên
bình diện song phương. Trong khi đó, các vấn đề an ninh phi truyền thống cũng tác động trực tiếp,
mạnh mẽ tới quá trình vận động của cục diện. Hơn nữa, phương châm, cách thức và hiệu quả xử lý
các vấn đề an ninh phi truyền thống của các nước, nhất là các cường quốc cũng ảnh hưởng không
nhỏ tới sự chuyển biến cục diện và cán cân quyển lực quốc tể.

Câu 4. Vị thế của Việt Nam trong cục diện thế giới
Cục diện thế giới là trạng thái của thế giới tại một thời điểm hay trong một khoảng thời gian
nhất định, phản ánh tương quan lực lượng và mối quan hệ giữa các chủ thể quốc tế khác nhau, trước
hết và quan trọng nhất là giữa các cường quốc, các trung tâm quyền lực lớn của thế giới. Nó cũng
bao gồm cả xu hướng vận động của tương quan lực lượng và trạng thái quan hệ giữa các chủ thể
chính tại thời điểm đó.
Việc xác định đúng vị trí của Việt Nam trong bàn cờ chính trị, kinh tế và an ninh khu vực và
thế giới là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc vạch ra chiến lược phát triển quốc gia nói
chung và định hướng chiến lược cho đối ngoại Việt Nam nói riêng.
Trên cơ sở bối cảnh quốc tế như đã được phân tích, từ vị trí địa-chính trị quốc gia, mục tiêu
và định hướng phát triển đất nước trong ngắn hạn và dài hạn đã được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII xác định, dựa vào thực trạng đất nước hiện nay, tiềm lực, vị thế quốc gia được tạo

ra trong 35 năm đổi mới, nhất là trong nhiệm kỳ vừa qua, bảo gồm thành tích đặc biệt trong chống
dịch covid-19 và phát triển kinh tế năm 2020, Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Từ bối cảnh và vị thế hiện nay, chúng ta có thể định vị vị trí Việt Nam trên thế giới hiện nay
ở mấy điểm căn bản:
Thứ nhất, Việt Nam là một nước nằm ở trung tâm Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương,
có vị trí địa-chính trị rất quan trọng ở khu vực và thế giới, nơi hội tụ lợi ích của nhiều nước lớn, đặc
biệt là nơi các nước lớn đang điều chỉnh chính sách và gia tăng ảnh hưởng. Chúng ta cần xây dựng
và điều chỉnh chính sách sao cho thích hợp để phát huy cao nhất giá trị của tài nguyên địa-chính trị
và hạn chế thấp nhất mặt trái của vi trí địa-chính nhạy cảm của ta với mục tiêu đảm bảo môi trường
bên ngồi hịa bình, ổn định vừa giữ vững đường lối độc lập tự chủ, vừa hội nhập thành công và phát
triển.
Thứ hai, Việt Nam ngày càng được biết đến rộng rãi là một quốc gia ổn định, là tấm gương
đổi mới, hội nhập thành công, phát triển nhanh và năng động, đã vươn lên trở thành nền kinh tế với
quy mô đứng thứ tư trong ASEAN, đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình, đang hướng tới
mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước có thu nhập cao vào
năm 2045 như văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Trong xu hướng dịch chuyển chuỗi cung
ứng và giá trị toàn cầu bởi cạnh tranh cường quốc và đại dịch Covid-19 gây ra, Việt Nam nổi lên là

11

một thị trường ngày càng hấp dẫn với gần 100 triệu dân, là điểm đến hấp dẫn cho hợp tác, thu hút
đầu tư và du lịch quốc tế với nhiều điều kiện thuận lợi. Việt Nam ngày càng trở thành một mắt xích
quan trọng của hệ thống các hợp tác liên kết kinh tế-thương mại đa phương khu vực, quốc tế, của sự
phân bổ lại và tái cấu trúc chuỗi giá trị và cung ứng toàn cầu sau đại dịch Covid-19.

Thứ ba, Việt Nam là một chủ thể tích cực, chủ động, đáng tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng khu vực và thế giới, là thành viên ngày càng có vai trị quan trọng của cộng
đồng ASEAN, cũng như trong bàn cờ chính trị, kinh tế và an ninh khu vực. Việt Nam có vai trị, uy
tín và vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế, ngày càng được đông đảo bạn bè quốc tế biết tới và

ủng hộ.

Thứ tư, Việt Nam là một nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có chính
sách đối ngoại rộng mở, vì hịa bình, hợp tác, phát triển, là nhân tố tích cực cho hịa bình, cơng bằng,
dân chủ, tiến bộ ở khu vực và trên thế giới. Việc Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189/193 thành
viên Liên hợp quốc, có quan hệ thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ đối tác
chiến lược và tồn diện với 30 quốc gia, trong đó với tất cả các nước P5, G7 và hầu hết các quốc gia
trên thế giới, các tổ chức khu vực, liên khu vực, châu lục, quốc tế đã thể hiện vị trí ngày càng quan
trọng của Việt Nam trong đời sống quan hệ quốc tế.

Cùng với sức mạnh cứng và mềm ngày càng gia tăng, uy tín và vị thế quốc tế được nâng cao
không ngừng trong những năm qua, Việt Nam được chính bạn bè quốc tế, giới ngoại giao và học giả
quốc tế đánh giá như một “cường quốc tầm trung” đang lên ở khu vực.

Từ vị thế của Việt Nam trong cục diện thế giới, có thể thấy một số tác động thuận và nghịch
đan xen chủ yếu của cục diện thế giới tác động đến Việt Nam hiện nay như:

Một là, trong cuộc chạy đua khốc liệt dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và
kinh tế số, để tăng sức mạnh tổng hợp, tất cả các quốc gia đều dành ưu tiên cao cho khoa học-công
nghệ và đi liền với nó là chất lượng nguồn nhân lực. Điều đó đặt Việt Nam trước những thách thức
gay gắt hơn, có nguy cơ tụt hậu xa hơn, nếu khơng kịp thời có những điều chỉnh thích hợp trong
chiến lược phát triển.

Hai là, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương, là khu vực
có sự phát triển kinh tế năng động, là “động lực” phát triển của thể giới, là trung tâm địa-chính trị và
kinh tế toàn cầu nên được tất cả các nước lớn quan tâm, do đó chịu tác động của sự tranh chấp, giành
giật phức tạp giữa các nước lớn cả về chính trị, quân sự lẫn kinh tế, đưa lại cho chúng ta cả thời cơ
và thách thức đan xen.

Về chính trị: Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trong cục diện thế giới hiện nay đễ đưa

Việt Nam vào thế “mắc kẹt”, nhất là trong xử lý mối quan hệ Mỹ-Trung đang có xu hướng cạnh
tranh gay gắt. Thậm chí có nguy cơ dẫn đến mất ổn định chính trị hoặc chệch hướng. Nhưng nếu
chúng ta biết khai thác tốt vị thế của mình trong cục diện khu vực thì cũng có thể biến chính nguy cơ
ấy thành cơ hội để gia tăng thế lực, phát huy vị thế đất nước.

Về kinh tế: Trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế ngày càng khốc liệt, chúng ta ở trình độ thấp
hơn. Nhưng ở một vị trí trung tâm kinh tế năng động của thế giới cũng là điểm thuận lợi. Việt Nam
cần tận dụng khai thác lợi thế kết nối kinh tế hiện có và thế mạnh đất nước để vươn tới nấc thang
phát triển cao hơn, nhưng cũng cần lường trước với những thách thức về lệ thuộc hay tụt hậu trong
hội nhập.

Về quốc phịng, an ninh, đối ngoại: Cục diện góp phần tạo nên mơi trường hịa bình, ổn định,
nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất trắc, khó lường. Do vậy, Việt Nam cần làm thế nào để duy trì

12

thế “cân bằng” trong quan hệ với các nước lớn, nhận biết sớm những dấu hiệu thỏa hiệp, điều chỉnh
chinh sách của các nước lớn và mối quan hệ giữa họ để ứng phó kịp thời.

Câu 5. Các xu hướng vận động chủ yếu của cục diện thế giới và đối sách của Việt Nam
Trên các bình diện cơ bản, Đại hội XIII của Đảng nhận định, cục diện thế giới vận động theo
những xu hướng chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lón.
Thứ hai. tình hình chính trị-an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó
lường.
Thứ ba, cục diện thế giới trong những năm sắp tới tiếp tục vặn động nhanh hơn theo xu
hưởng đa cực, đa trung tâm, trong đó sự vận động của quan hệ Mỹ - Trung và sự tập hợp lực lượng
quốc tế xung quanh Mỹ - Trung đóng vai trị then chốt trong việc định hình cục diện thế giới thời
gian tới.
Thứ tư. dưới tác động ngày càng hiện hữu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và nền kinh tế số,

cuộc đua tranh kinh tế và khoa học - công nghệ trên thế giới, nhất là giữa các cường quốc, các trung
tâm kinh tế sẽ ngày càng quyết liệt, diễn tiến nhanh chóng và tác động mang tính quyết định tới
tương quan so sánh và phân bổ sức mạnh trên trường quốc tế.
Thứ năm, khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương tiếp tục là trọng tâm của sự vận động địa-chính
trị và địa-kinh tế tồn cầu, là nơi diễn ra cuộc cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, nhất là
giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng gay gắt.
Tác động của cục diện thế giới hiện nay tới Việt Nam
Có thể kể ra một số tác động thuận và nghịch đan xen chủ yếu như sau:
Một là, trong cuộc chạy đua khốc liệt dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và
kinh tế số, để tăng sức mạnh tổng hợp, tất cả các quốc gia đều dành ưu tiên cao cho khoa học - công
nghệ và đi liền với nó là chất lượng nguồn nhân lực. Điều đó đặt Việt Nam trước những thách thức
gay gắt hom, có nguy cơ tụt hậu xa hơn, nếu khơng kịp thời có những điều chỉnh thích hợp trong
chiến lược phát triển. Tuy nhiên, bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay cũng đặt
chúng ta trước những thời cơ lớn để bứt phá phát triển, gia tăng sức mạnh và vị thế quốc gia trong
quan hệ quốc tể.
Hai là, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, là khu vực
có sự phát triển kinh tế năng động, là “động lực” phát triển của thế giới, là trung tâm địa-chính trị và
kinh tế toàn cầu nên được tất cả các nước lớn quan tâm, do đó chịu tác động của sự tranh chấp, giành
giật phức tạp giữa các nước lán cả về chính trị, quân sự lẫn kinh tế, đưa lại cho chúng ta cả thời cơ và
thách thức đan xen.
Chính sách của Việt Nam
Từ tất cả những đặc điểm và xu hướng vận động của cục diện thế giới hiện hay và vị thế của
Việt Nam, đòi hỏi chúng ta cần chú trọng tới một số vấn đề sau:
Thứ nhất) kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, vì lợi ích dân tộc thực sự, theo đuổi
chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa nhất quán, thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, khéo léo tranh thủ
sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, trong khuôn khổ chiến lược chung, cần định vị rõ Việt Nam ở vị trí nào trong chiến
lược của các nước lớn? Mối nguy cơ nào là trực tiếp và lớn nhất? Trên quan điểm tổng thể cần có
phương cách đối phó nào để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc? Ví dụ như bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ cần được đặt trong mối liên hệ như thế nào với yêu cầu bảo vệ mơi trường hịa bình, ổn định


13

và thế trận đối ngoại nói chung trong bối cảnh sắp tới?
Thứ ba, có chính sách rõ ràng hơn và những biện pháp thiết thực nhằm khai thác lợi thế là

một nước ở khu vực đang trở thành trung tâm mới của thế giới, trong đó hết sức tích cực, chủ động,
phát huy vai trị, góp phần gắn kết ASEAN như một cộng đồng.

Thứ tư, tranh thủ thời cơ, thúc đẩy cải cách và đổi mới mạnh mẽ, tập trung xây dựng nội lực
thông qua phát triển nhanh và bền vững, sớm vượt qua bẫy thu nhập trung bình để nhanh chóng hiện
thực hóa khát vọng vươn lên thành quốc gia thịnh vượng trong thời gian sớm nhất.

Thứ năm, tổ chức lại các lực lượng nghiên cứu đối ngoại theo sự chỉ đạo thống nhất, làm tốt
công tác nghiên cứu dự báo tình hình, đánh giá sâu sắc, toàn diện và bám sát sự vận động của cục
diện thế giới, chính sách của các nước lớn cũng như mối quan hệ giữa họ để đề ra một chiến lược
tổng thể, đúng đắn.

Câu 6. Những tác động từ sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ đối với khu vực châu Á -
Thái Bình Dương đến Việt Nam

Bước sang thế kỷ XXI, nhất là từ nửa sau thập niên thứ hai đến nay, trên thế giới xảy ra nhiều
thay đổi, biến động phức tạp. Trên phạm vi toàn cầu, xuất hiện xu hướng chuyển dịch quyền lực từ Tây
sang Đông, dẫn đến sự thay đổi tương quan lực lượng giữa các nước lớn. Tại khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, xuất hiện sự cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn làm cho cạnh tranh,
hợp tác giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt.

1. Nội dung điều chỉnh chiến lược của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương:
Điều chỉnh chiến lược của Mỹ:
Trong hai nhiệm kỳ của mình, Tổng thống B.Obama thực hiện chiến lược “xoay trục” và “tái cân

bằng”, nghĩa là bố trí lực lượng hải quân của Mỹ từ châu Âu - Đại Tây Dương là chính sang khu vực
châu Á - Thái Bình Dương là chính. Theo đó, Mỹ sẽ bố trí tới 60% lực lượng hải quân tại khu vực châu
Á - Thái Bình Dương. Dưới góc độ kinh tế, Mỹ tập trung hơn về khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thể
hiện qua việc xúc tiến đàm phán để triển khai Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), tạo ra
một trạng thái địa - kinh tế mới có lợi cho Mỹ và các đồng minh để đổi phó với thách thức Trung Quốc
đang trỗi dậy mạnh mẽ.
Điều chỉnh chiến lược của Tổng thống Donald Trump
Do thời gian cầm quyền của Tổng thống D.Trump chưa được nhiều, nên Mỹ chưa thể hiện quan
điểm rõ ràng đối với châu Á - Thái Bình Dương sau quyết định “loại bỏ” chính sách “tái cân bằng” tại
khu vực của chính quyền tiền nhiệm, nhất là sau quyết định rút khỏi TPP1. Việc Tổng thống D.Trump
dùng thuật ngữ “Ấn Độ Dương - Thái Binh Dương” thay vì thuật ngữ quen thuộc là “châu Á - Thái Bình
Dương” trong chuyến thăm đầu tiên tới châu Á với tư cách là Tổng thống (2017) đã khiến giới phân tích
và dư luận quan tâm, suy đốn rằng đây có thể là một nét mới trong chính sách châu Á của Mỹ. Chính
sách “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” của Tổng thống D.Trump có hai trụ cột chính: (1) tăng cường
vị trí chiến lược của Ấn Độ; (2) thúc đẩy thành lập liên minh gồm 4 nước là Mỹ, Nhật Bản, Australia và
Ẩn Độ, Một khu vực “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương: Tự do và rộng mở” sẽ có tác động lớn khơng
chỉ đến cục diện của khu vực, mà cả trên phạm vi toàn cầu. Các nhà phân tích cho rằng, mục đích đầu
tiên của chính sách này sẽ kêu gọi các nước có liên quan giữ vững trật tự khu vực đựa trên luật lệ, đặc
biệt là các tranh chấp lãnh hải. Bên cạnh đó, nó sẽ góp phần thúc đẩy tự do thương mại, bằng cách tự đo
hóa các thiết chế thương mại khu vực và ủng hộ tư do hàng hải. Còn “tứ giác kim cương” gồm Nhật Bản,

1

14

Ấn Độ, Australia và Mỹ sẽ đẩy mạnh họp tác, đảm bảo an ninh cho khu vực nói chung và các quốc gia
nhỏ tại Đơng Nam Á nói riêng.

Điều chỉnh chiến lược của Tổng thống Joe BiDen
Về kinh tế:

- Điều chỉnh cấu trúc nền kinh tế nhưng không thúc đẩy sản xuất dân dụng, cân đối giữa các lĩnh
vực; tiếp tục nỗ lực giảm bớt phụ thuộc vào chuổi cung ứng Trung quốc.
- Tăng cường trở lại các cơ chế hợp tác đa phương, thiết chế kinh tế truyền thống.
- Tiếp tục thúc đẩy chủ nghĩa bảo hộ về kinh tế và mở rộng sang các lĩnh vực khác.
Về đối ngoại:
- Theo đuổi mơ hình đối ngoại của B.Obama.
- Tiếp tục tư duy lại trật tự quốc tế, vị thế và lợi ích Mỹ trên thế giới.
- Quyết liệt trong các vấn đề với Nga, trực tiếp nhất là tương tác để tạo xung đột với Ukraina.
- Thúc đẩy kiềm chế Trung Quốc, tập trung mạnh vào kiềm chế kinh tế tiến tới kiềm chế toàn
diện.
2. Những tác động từ sự điều chỉnh chiến lược đó đến Việt Nam
Những điều chỉnh chiến lược của Mỹ tại khu vực, tác động mạnh đến quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam theo cả hai chiều thuận lợi và khó khăn.
Về thuận lợi:
Một là, tạo mơi trường khu vực hịa bình, hợp tác, thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Mỹ tăng cường tập hợp lực lượng tại khu vực nhằm tăng cường sức mạnh của họ trong cạnh
tranh, nhưng sẽ dẫn tới cục diện cân bằng sức mạnh và hịa bình, ổn định tương đối trong khu vực. Xu
thế hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế, đồng thời tác động sâu
sắc đến chính sách đối ngoại của các quốc gia. An ninh của mỗi quốc gia ngày nay được đặt trong mối
quan hệ chặt chẽ với phát triển nhằm tăng cường sức mạnh quốc gia trong hội nhập quốc tế. Tất cả các
quốc gia đều thi hành chính sách linh hoạt, mềm dẻo, tăng cường hợp tác, tránh đối đầu và chiến tranh,
giải quyết mọi bất đồng bằng biện pháp hịa bình. Tuy nhiên, ở khu vực xung đột cục bộ, tiềm ẩn những
bất ổn có thể bùng phát thành chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra, nhưng những xung đột này khó có khả
năng lan rộng, lôi cuốn sự đối đầu trực tiếp của các nước lớn, vì họ đều có lợi ích lâu dài và cơ bản trong
việc duy trì hịa bình để bảo vệ lợi ích cốt lõi và phát triển. Điều này có lợi cho Việt Nam khi thực hiện
đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, tiến tới sự cân bằng quan hệ với các nước lớn. Hơn
nữa, xu thế hịa bình, hợp tác trong khu vực sẽ là mơi trường thuận lợi để Việt Nam phát triển kinh tế, đối
thoại quốc phịng - an ninh, ổn định chính trị, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Hai là, tạo cơ hội mở rộng hợp tác, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.

Trong bối cảnh Mỹ tăng cường tập hợp lực lượng nhằm khẳng định vị thế của mình, các nước
đồng minh của Mỹ cũng có thêm vị thế mới, họ vừa tìm cách dàn xếp với Mỹ, vừa tìm kiếm những tập
hợp lực lượng khác có lợi cho mình. Sự tập hợp lực lượng của các nước lớn và đồng minh vơ hình chung
giúp các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam, nâng cao vị thế, tạo cơ hội liên kết, hợp tác mới trong các
vấn đề khu vực và quốc tế. Điều này tạo ra những thuận lợi rất căn bản cho Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế. Chúng ta có nhiều thuận lợi trong thiết lập, xây dựng các mối quan hệ song phương, đa
phương, mạnh mẽ, gắn kết, tin cậy và cùng có lợi với các quốc gia, tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn
cùng chia sẻ lợi ích. Việt Nam cũng có thêm nhiều sự lựa chọn để tránh khơng rơi vào tình trạng phụ
thuộc quá nhiều vào một quốc gia trong bảo vệ an ninh, quốc phịng của mình; có thêm cơ hội thúc đẩy
quá trình hội nhập quốc tế, xây dựng và phát huy vai trị của mình trong Cộng đồng ASEAN, nâng cao vị

15

thế trong bối cảnh đa dạng hình thức tập hợp lực lượng và gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước
lớn hiện nay.

Ba là, tạo thuận lợi cho Việt Nam giảm thiểu sức ép của các nước lớn, đấu tranh có hiệu quả
hơn với các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.

Trong bối cảnh các nước lớn điều chỉnh chính sách, quan tâm hơn đối với khu vực, Việt Nam có
điều kiện phát triển quan hệ hợp tác với tất cả các cường quốc, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương
mại, đầu tư. Với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, có quan hệ sâu rộng với tất cả các nước lớn, Việt
Nam ngày càng thu hút sự quan tâm của các nước lớn. Điều này tạo thuận lợi cho Việt Nam trong triển
khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, giảm thiểu sức ép của các nước
lớn đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam có thể thúc đẩy mạnh hơn quan
hệ hợp tác trong các vấn đề địa  - chiến lược để kiềm chế, đẩy lùi âm mưu, hành động của các thế lực thù
địch và cơ hội chính trị lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tự do tôn giáo nhằm can
thiệp công việc nội bộ, chống phá Việt Nam.

Về khó khăn:

Một là, những khó khăn mới sẽ nảy sinh, cản trở phát triển kinh tế của Việt Nam.
Để phát triển bền vững, Việt Nam thực hiện chủ trương cấu trúc lại nền kinh tế, đổi mới mơ hình
tăng trưởng, kiềm chế, kiểm soát lạm phát, đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong bối cảnh xu hướng bảo hộ
thương mại gia tăng ngay tại các thị trường xuất khẩu chính và có lợi, nhất là Mỹ và Liên minh châu Âu
(EU). Việc Mỹ rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cuộc chiến thương mại giữa
Mỹ và Trung Quốc diễn ra quyết liệt,... đã, đang và sẽ tiếp tục tạo ra những khó khăn, thách thức mới đối
với phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của Việt Nam.
Hai là, những khó khăn trong giữ vững ổn định chính trị và bảo vệ chế độ.
Các biến động của tình hình thế giới và khu vực; sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn tạo
thêm áp lực và một số khó khăn, phức tạp mới đối với nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của trào lưu dân túy trên thế giới khuyến khích và tạo cơ hội cho
những phần tử lợi dụng chiêu bài “chính danh, chính nghĩa” để thực hiện các ý đồ chống Đảng, chống
chế độ, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm mưu, hành động “diễn biến
hịa bình” và hoạt động can thiệp, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhằm thay đổi chế độ, xóa bỏ
vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, núp dưới các chiêu bài dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn
giáo... với nhiều biện pháp tinh vi, xảo quyệt. Thời đại công nghệ thông tin, mạng xã hội và cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ,... khiến các thế lực thù địch có thêm cơng cụ kích động,
can thiệp sâu cơng việc nội bộ của Việt Nam.
Ba là, những thách thức, phức tạp mới trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và nguy cơ xung đột tại các “điểm nóng” tiềm tàng, tác
động trực tiếp, gián tiếp đến môi trường an ninh của Việt Nam. Các nước ASEAN có mục tiêu chung là
xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, song mỗi nước có lợi thế và lợi ích riêng, nên việc củng cố
đoàn kết, hợp tác nội khối về những vấn đề chính trị nhạy cảm rất phức tạp, khó khăn, nhất là giải quyết
vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo gặp khó khăn, thách
thức mới, địi hỏi chúng ta phải tính tốn kỹ và xử lý đúng đắn các mối quan hệ với các nhân tố, như
Trung Quốc, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản và ASEAN.
Sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ cùng sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tại
châu Á - Thái Bình Dương tác động mạnh mẽ tới mơi trường hịa bình, an ninh, phát triển của Việt Nam.
Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội to lớn như hiện nay và cũng chưa bao giờ môi trường an
ninh của Việt Nam lại chịu sự tác động, thách thức từ nhiều vấn đề phức tạp, đa chiều, đa hướng như bây


16

giờ. Cơ hội và thách thức đan xen với nhau, nếu không kịp thời tranh thủ, cơ hội sẽ biến thành thách
thức; nếu “hóa giải” thành công, thách thức sẽ chuyển thành cơ hội cho đất nước phát triển. Đồng thời,
chúng ta phải xây dựng được các mối quan hệ song phương, đa phương, gắn kết, tin cậy và cùng có lợi
với các quốc gia khác, tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn và cộng đồng quốc tế, phải biết dựa vào các
tổ chức đa phương khu vực, quốc tế, dựa vào luật pháp quốc tế và những nguyên tắc phổ quát của mối
quan hệ giữa các quốc gia được quốc tế thừa nhận để đối phó với những khó khăn, thách thức.

3. Đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Mục tiêu: bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật phát quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi; góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện 2 nguyên tắc đối ngoại:
(1) Nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt: hịa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng
thời, phải sáng tạo, năng động, linh hoạt trong xử lý các tình huống, phù hợp với hồn cảnh cụ thể,
với vị trí của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm
của từng đối tác. Tránh bị cô lập, tránh xung đột và tránh đối đầu.
(2) Tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau. Không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Giải quyết các bất
đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hịa bình. Tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Thực hiện các phương châm đối ngoại
(1) Phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại; dựa và phát huy nội lực là
chính, tranh thủ tối đa ngoại lực.
(2) Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp
tác, tranh trực diện đối đầu, không để cho các thế lực không thân thiện lợi dụng sơ hở đẩy ta vào thế
cô lập, đặc biệt tránh một cuộc sung đột quân sự hoặc bị khiêu khích vũ trang.
(3) Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Mở rộng quan

hệ quốc tế, góp phần gìn giữ mơi trường hịa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đặc
biệt chú trọng hợp tác khu vực, nhất là đối với các nước láng giềng nhằm tạo một môi trường hịa
bình, ổn định lâu dài. Nhằm xác lập một vị thế có lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc
tế. Với các nước lớn, phải coi trọng giữ quan hệ cân bằng, khôn khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa các
nước này nhằm tạo được thế cân bằng chiến lược; kiên trì chính sách độc lập tự chủ, tránh khơng để
rơi vào tình huống phức tạp và bị định hoặc liên minh với một nước lớn này chống lại một nước lớn
khác.
(4) Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, phải xác định đúng các biện pháp để nâng cao
hiệu quả đối ngoại như: nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược phục vụ cho
hoạch định chính sách; đưa các quan hệ đã được thiết lập đi vào chiều sau, ổn định, bền vững...
(5) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc. Xác định vấn đề tranh chấp Biển Đông là vấn đề lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều nước, nhất
là Trung Quốc, cho nên giải quyết vấn đề này phải kiên trì, cần có thời gian, khơng thể nóng vội, q
trình đấu tranh phải trên cơ sở giữ vững môi trường hịa bình, ổn định cho phát triển đất nước.

Câu 7. Những tác động từ sự điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc đối với khu vực châu Á -
Thái Bình Dương đến Việt Nam

17

Sau Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản, Trung Quốc thực hiện điều chỉnh chiến lược phát
triển, chuyển từ “giấu mình chờ thời cơ” sang “hành sử nước lớn” nhằm mục tiêu “Giấc mộng Trung
Hoa”.

Với Mỹ, đề xuất “quan hệ nước lớn kiểm mới”, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để phát
triển; mặt khác, hành động quyết đốn hơn nhằm mở rộng khơng gian kể cả thị trường tiêu thụ hàng
hóa, khai thác tài nguyên, nâng cao vị thế, đẩy lùi chính sách kiềm tỏa của Mỹ.

Với các nước láng giềng, thực hiện thủ đoạn cả “cứng” và “mềm”, kể cả chiến tranh nếu thấy
cần thiết, thực hiện mục tiêu vững chân ở châu Á vươn ra thế giới.


Với các nước lớn và khu vực khác, vừa hóa giải chính sách cân bằng quyền lực của Mỹ, vừa
nỗ lực duy trì cục diện hợp tác với Mỹ bất cử nơi nào và ở chừng mực có thể; tranh thủ Nga, kiềm
chế Nhật Bản, tranh thủ ASEAN, tìm cách cải thiện quan hệ với Ấn Độ, phát huy vai trò ở châu Phi
và Mỹ Latinh.

Đặt mục tiêu xây dựng một trật tự thể giới mới, trong đó Trung Quốc sẽ thay Mỹ lãnh đạo
châu Á – Thái Bình Dương vào năm 2025 và thay Mỹ lãnh đạo thế giới vào năm 2050.

Trung Quốc vừa chơi chung trên những “sân chơi” do Mỹ và phương Tây lập ra sau Chiến
tranh thế giới lần thứ II, vừa chủ động tạo ra những sân chơi mới và “viết” những “luật chơi” theo
cách của mình. Đẩy mạnh triển khai chiến lược “Một vành đai, một con đường”, kết nối Đông Á
năng động với nhiều trung tâm phát triển ở châu Âu, tạo một không gian kinh tế phát triển mới. Về
kinh tế, thương mại đưa ra 2 sáng kiến: thành lập Hiệp định đối tác kinh tế toàn kiện (RCEP) gồm 10
nước ASEAN cùng 5 nước gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Austalia, Newzealand; tạo lập
Khu vực mậu dịch tự do châu Á – Thái Bình Dương (FTAP) gồm 21 thành viên Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC). Đưa ra sáng kiến thành lập AIIB và quốc tế hóa đồng
Nhân dân tệ. Nhằm từng bước thực hiện hóa “Giấc mộng Trung Hoa” với quỹ đạo trung tâm là Bắc
Kinh và tham vọng muốn đuổi kịp Mỹ, trở thành nước đứng đầu thế giới.

Sau Đại hội XIX của Đảng Cộng sản, Trung Quốc điều chỉnh chiến lược theo hướng xây
dựng hình ảnh một nước lớn có trách nhiệm với các nội dung:

Một là, nhấn mạnh việc xây dựng và gánh vác trách nhiệm trong quản trị toàn cầu.
Hai là, triển khai chính sách nước lớn kiểu mới
Ba là, với các nước đang phát triển đề cao việc xây dựng Cộng đồng chung vận mệnh, xây
dựng quan hệ đối tác hữu nghị, thân thiện.
Trung Quốc kêu gọi nhân dân các nước chung sức chung lòng, xây dựng cộng động cùng
chung vận mệnh nhân loại, xây dựng thế giới hịa bình lâu dài, an ninh rộng khắp, cùng phồn vinh,
mở cửa bao trùm, sạch sẽ tươi đẹp.

Tích cực phát triển quan hệ đối tác tồn cầu, thúc đẩy điều phối hợp và hợp tác với các nước
lớn, xây dựng khuôn khổ quan hệ nước lớn tổng thể ổn định phát triển cân bằng, làm sâu sắc quan hệ
với các nước láng giềng theo quan điểm “thân, thành, huệ, dung” và phương châm ngoại giao láng
giềng “thân thiện với láng giềng, làm bạn với láng giềng”.
Chuyển sáng kiến “Một vành đai, một con đường” thành “Vành đai và Con đường”; đẩy
mạnh viện trợ các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất; ủng hộ thể chế
thương mại đa phương, thúc đẩy xây dựng khu vực thương mại tự do, thúc đẩy xây dựng kinh tế thế
giới mở.
Kiên trì quan điểm quản trị tồn cầu cùng bàn bạc, cùng xây dựng, cùng chia sẻ, đề xướng
dân chủ hóa quan hệ quốc tế, kiên trì các nước không phân biệt lớn nhỏ, mạnh yếu, giàu nghèo đều
bình đẳng như nhau. Trung Quốc sẽ tiếp tục phát huy vai trị nước lớn có trách nhiệm, tích cực tham

18

gia cải cách và xây dựng hệ thống chính trị tồn cầu, khơng ngừng đóng góp trí tuệ và sức mạnh của
Trung Quốc.

Sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản, mục tiêu trong 5 năm tới là “nâng cao vị thế và ảnh
hưởng quốc tế, đồng thời đóng vai trị lớn hơn trong quản trị tồn cầu”. Tiếp tục đẩy mạnh “ngoại
giao láng giềng” coi các khu vực xung quanh Trung Quốc là điểm tựa chiến lược trong công cuộc
phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa và chìa khóa quan trọng để nắm thế chủ động trong cấu trúc an
ninh khu vực, mở rộng sự ủng hộ và các mối quan hệ trước sự kiềm tỏa của Mỹ và phương Tây. Tích
cực triển khai chiến lược “ngoại giao chiến lang”, nhất là đối với các vấn đề mà họ coi thuộc về “chủ
quyền, an ninh và lợi ích quốc gia”. Tiếp tục hồn thiện và đưa ra các lý luận, quan điểm, sáng kiến
mới mang đặc sắc Trung Quốc như “Sáng kiến Phát triển Toàn cầu” (GDI), “Sáng kiến An ninh
Toàn cầu” (GSI) nhằm khẳng định mong muốn góp phần xây dựng hệ thống quan hệ quốc tế kiểm
mới, cải tổ hệ thống chính trị toàn cầu và kiến tạo “cộng đồng chung vận mệnh nhân loại”. Tăng
cường thúc đẩy tự lực về công nghệ, nhất là trong các lĩnh vực chiến lược do sự suy yếu của các thị
trường xuất khẩu chủ chốt và sự gia tăng cạnh tranh địa chính trị với Mỹ.


Đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Mục tiêu: bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật phát quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có
lợi; góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở
thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện 2 nguyên tắc đối ngoại:
(1) Nguyên tắc cơ bản, xuyêt suất: hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng
thời, phải sáng tạo, năng động, linh hoạt trong xử lý các tình huống, phù hợp với hồn cảnh cụ thể,
với vị trí của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm
của từng đối tác. Tránh bịn cô lập, tránh xung đột và tránh đối đầu.
(2) Tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau. Không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Giải quyết các bất
đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hịa bình. Tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Thực hiện các phương châm đối ngoại
(1) phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp sức mạnh thời đại; dựa và phát huy nội lực là
chính, tranh thủ tối đa ngoại lực.
(2) Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp
tác, tranh trực diện đối đầu, không để cho các thế lực không thân thiện lợi dụng sơ hở đẩy ta vào thế
cô lập, đặc biệt tránh một cuộc sung đột quân sự hoặc bị khiêu khích vũ trang.
(3) Tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Mở rộng quan
hệ quốc tế, góp phần gìn giữ mơi trường hịa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Đặc
biệt chú trọng hợp tác khu vực, nhất là đối với các nước láng giềng nhằm tạo một môi trường hịa
bình, ổn định lâu dài. Nhằm xác lập một vị thế có lợi hoặc chí ít là ít bất lợi nhất trong quan hệ quốc
tế. Với các nước lớn, phải coi trọng giữ quan hệ cân bằng, khôn khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa các
nước này nhằm tạo được thế cân bằng chiến lược; kiên trì chính sách độc lập tự chủ, tránh khơng để
rơi vào tình huống phức tạp và bị định hoặc liên minh với một nước lớn này chống lại một nước lớn
khác.
(4) Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, phải xác định đúng các biện pháp để nâng cao
hiệu quả đối ngoại như: nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược phục vụ cho
hoạch định chính sách; đưa các quan hệ đã được thiết lập đi vào chiều sau, ổn định, bền vững...


19

(5) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc. Xác định vấn đề tranh chấp Biển Đông là vấn đề lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều nước, nhất
là Trung Quốc, cho nên giải quyết vấn đề này phải kiên trì, cần có thời gian, khơng thể nóng vội, q
trình đấu tranh phải trên cơ sở giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định cho phát triển đất nước.

Câu 8: Chính sách “xoay trục sang châu Á” của Liên bang Nga và những tác động đến Việt Nam. –
Đ.c Lam
* Bối cảnh điều chỉnh Chiến lược của Nga
- Sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới thời Tổng thống B. En-xin chủ trương hội nhập vào “nền
văn minh phương Tây” để phát triển đất nước.
- Sau gần 10 năm được các nước phương Tây “giúp” tư nhân hóa ồ ạt nền kinh tế, nước Nga khơng
những khơng phát triển mà cịn lún sâu vào cuộc khủng hoảng tồn diện cả về chính trị và kinh tế -
xã hội.
- Chiến tranh lạnh đã làm Liên Xô sụp đổ về chính trị, thì giai đoạn tư nhân hóa ồ ạt sau Chiến tranh
lạnh (từ năm 1991) đã tàn phá nước Nga cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và quân sự.
- Năm 2000 khi Tổng thống Nga V. Pu-tin bắt tay xây dựng cơ sở cho chiến lược hướng tới châu Á
của Nga.
- Gần đây, trước sự bao vây, cấm vận kinh tế của Mỹ và phương Tây (do liên quan tới cuộc khủng
hoảng ở U-crai-na), càng thôi thúc Nga ưu tiên hướng tới châu Á.
- Như vậy, chiến lược “Xoay trục” của Nga tới châu Á là có chủ đích từ lâu.
* Mục tiêu và những trụ cột của Chiến lược
- Thứ nhất, thể hiện sự cự tuyệt của Nga đối với “những giá trị phổ quát” của phương Tây ở châu
Âu.
- Thứ hai, về địa chính trị, nhằm tạo ra một khn khổ an ninh đa phương, đối lập với hệ thống đồng
minh lấy Mỹ làm trung tâm ở khu vực.
- Thứ ba, về địa kinh tế, nhằm đưa Nga trở thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế châu Á
đang phát triển năng động

- Về kinh tế:

+ Mát-xcơ-va đã sẵn sàng hợp tác để trở thành nhà cung cấp lớn cho thị trường năng lượng
châu Á

+ Tận dụng mọi khả năng từ sự tăng trưởng của châu Á để phát triển vùng Viễn Đông và Xê-
bê-ri của nước này.

+ Việc “xoay trục” sang châu Á của Nga là yêu cầu khách quan và Mát-xcơ-va cần tận dụng
cơ hội này để phát triển, trở thành đối tác tin cậy, có trách nhiệm và đóng vai trị cân bằng trong cục
diện địa chính trị phức tạp ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
- Hợp tác quốc phòng, quân sự giữa Nga với các quốc gia châu Á đã, đang mở ra tiềm năng lớn, tạo
ra thị trường mua bán vũ khí sơi động, nhất là đối với các loại vũ khí, khí tài hiện đại.

Như vậy, với vị thế của một cường quốc nằm trên hai lục địa Á - Âu, chiến lược “Xoay trục”
sang châu Á của Nga có nhiều điều kiện thuận lợi cần thiết cả bên trong và bên ngoài để tạo sự bứt
phá mới. Tuy nhiên, trong bối cảnh bị phương Tây “cấm vận”, việc Nga “ngả” về châu Á là tất yếu
và nằm trong dự đoán của dư luận, nhưng trước tình hình kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại,
mơi trường an ninh châu Á cịn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định,… liệu chính sách này có mang lại sự
phát triển thực sự cho Mát-xcơ-va hay khơng đang là vấn đề cịn bỏ ngỏ lời giải.

20

* Giải pháp thực hiện
- Đẩy nhanh hơn tiến độ xoay trục từ châu Âu - Đại Tây Dương sang châu Á - Thái Bình Dương:
- Tái cân bằng trong quan hệ đối ngoại:

+ Theo Đại chiến lược “Chim ưng hai đầu”.
+ Hiện Nga đang tìm cách cân bằng mối quan hệ hết sức quan trọng của nước này với Trung
Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Brazil và nhóm BRICS.

- Ngoại giao đa dạng và thực dụng:
+ Nga đang có những chính sách mở rộng quan hệ hợp tác tới các đối tác truyền thống, các
đối tác không tham gia vào lệnh trừng phạt đối với Nga...
+ Nga sẵn sàng dẹp bỏ những bất đồng, rào cản trong quan hệ để tiến tới mối quan hệ song
phương trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi với tất cả các nước trên các châu lục và nhất là các nước
châu Á - Thái Bình Dương như:
- Đẩy mạnh quan hệ với Trung Quốc:
+ Nga chủ trương một thế giới đa cực, mà ở đó một “sân khấu” gồm các siêu cường thay vì
sự thống trị tồn cầu của Mỹ. Trong đó, Trung Quốc hiển nhiên là có vai trị quan trọng trong việc
đạt được sự cân bằng tồn cầu mới.
- Chính sách phối hợp phịng ngự - tấn cơng:
+ Nga ủng hộ mạnh mẽ Damascus
+ Chiến dịch đặc biệt uncrina
+ Được bảo đảm bởi các vũ khí hạt nhân, chiến lược và chiến thuật
+ Crimea trở về Nga đã làm tăng cường khả năng phòng ngự và tấn công
- Chủ động điều chỉnh quan hệ kinh tế:
+ (1) Coi trọng phát triển thương mại với khối Liên minh Kinh tế Á - Âu (EEU) và khối các
nước BRICS;
(2) Chuyển hướng về xuất khẩu khí đốt sang cả Đơng và Tây thay vì chỉ thiên về phía Tây
như trước đây;
(3) Chuyển hướng sang tăng cường hợp tác kinh tế với các nước khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, xác định thế kỷ XXI là “thời của châu Á”.
- Quan hệ giữa Nga với các nước Đông Nam Á cũng đang được đẩy mạnh:
+ Hội nghị Thượng đỉnh kỷ niệm 20 năm Quan hệ Đối thoại Nga - ASEAN từ ngày 16-đến
ngày 20-5 vừa qua tại Sochi đã nói lên điều đó.
+ Hợp tác kinh tế, quốc phòng,…
* Sự tác động tới VN
+ Tăng cường sự hợp tác sâu sắc hơn với nga (đối tác chiến lược toàn diện) về mọi mặt, đặc
biệt là quốc phòng và an ninh năng lượng và giáo dục.
+ Giúp cũng cố nền quốc phòng  giữ vững đất nước

+ Tăng vị thế và uy tín VN trên quốc tế
+ Mở rộng thị trường xuất khẩu các hàng hóa VN
+ Bắt buộc Việt Nam phải điều chỉnh quan hệ với các đối tác khác, đặc biệt là các nước lớn.
* Sự tác động tới cục diện thế giới (tham khảo)
- Dưới góc độ tích cực, trước hết nó giúp tăng cường quan hệ hợp tác giữa các nước lớn với
các nước trong khu vực. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra hệ lụy khó lường trong quan hệ khu vực và thế
giới.


×