Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

13 vấn đề thml đh luật tphcm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.72 KB, 22 trang )

CÂU HỎI TỰ LUẬN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

1.Vấn đề cơ bản của Triết học.

Trả lời: Như chúng ta đã biết thì triết học là một bộ môn nghiên cứu những vấn đề
chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới
quan. Triết học xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỉ
VIII- VI trước công nguyên tại một số nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn
Độ, Ai Cập, trung đông... nhưng triết học kinh đển chỉ phát triển ở Hy Lạp cổ đại.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, vị trí
vai trị của con người trong thế giới ấy. Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh
thể, nghiên cứu những vấn đề chung nhất những quy luật chung nhất của chỉnh thể
này và thể hiện chúng một cách có hệ thống dướng dạng lý luận. Cũng như những
khoa học khác thì triết học giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan với nhau, trong
đó vấn đề cực kì quan trọng là nền tảng và là điểm xuất phát giải quyết những vấn
đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, giữa
vật chất và ý thức, nó là vấn đề cơ bản vì việc giải quyết nó sẽ quyết định cơ sở để
giải quyết những vấn đề khác của triết học, điều đó đã được chứng minh trong lịch
sử phát triển lâu dài và phức tạp của triết học.

2. Nội dung phạm trù vật chất, ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa vật

chất của Lenin
Trả lời:
 Nội dung phạm trù vật chất:
+ Vật chất là cái tồn tại có thực một cách khách quan bên ngồi ý thức và khơng
phụ thuộc vào ý thức của con người.
+ Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp lên giác quan của con người.
+ Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của thế giới vật chất.


 Ý nghĩa phương pháp luận của định nghĩa vật chất của Lenin:
Định nghĩa này đã bao quát cả 2 mặt của vấn đề cơ bản của TH, thể hiện rõ lập
trường DV biện chứng. Lenin đã giải đáp toàn bộ vấn đề cơ bản của triết học đứng
trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng.

+ Coi vật chất là có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm
giác, ý thức, ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Con
người có khả năng nhận thức thế giới.

+ Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất. (Vật chất có
trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức).

+ Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật
chất của CNDV trước Mac (quan niệm vật chất về các vật thể cụ thể, về nguyên tử,
không thấy vật chất trong đời sống xã hội là tồn tại).

+ Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của CNDV tầm thường về vật
chất (coi ý thức cũng là 1 dạng vật chất)

+ Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.

+ Định nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể
thống nhất. (vật chất trong TN, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ thể của
vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan).

+Mở đường cổ vũ cho KH đi sâu khám phá ra những kết cấu phức tạp hơn của thế
giới vật chất
(Định nghĩa này không quy vật chất về vật thể cụ thể, vì thế sẽ tạo ra kẻ hở cho
CNDT tấn công, cũng không thể quy vật chất vào 1 khái niệm nào rộng hơn để
định nghĩa nó, vì khơng có khái niệm nào rộng hơn khái niệm vật chất. Vì thế chỉ

định nghĩa nó bằng cách đối lập nó với ý thức để định nghĩa vạch rõ tính thứ nhất
và tính thứ 2, cái có trước và cái có sau).

3. Nguồn gốc, bản chất của ý thức

Trả lời:
 Nguồn gốc tự nhiên:
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con
người và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra q
trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức
năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn
thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con

người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao q trình tiến hóa của
lồi người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại
sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con
người khơng bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh
năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ
tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách
quan, thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình
thành nên q trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo
ở dạng vật chất chịu sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác
động. Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh. Cái phản ánh
và cái được phản ánh không tách rời nhau những không đồng nhất với nhau. Cái
được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm

chứa đựng thơng tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng vật chất
khác (dạng vật chất nhận sự tác động).
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện
dưới nhiều hình thức. Những hình thức này tương ứng với q trình tiến hóa vật
chất.

 Nguồn gốc xã hội:

Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người là sự khác biệt về chất so với
động vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã hội, sự ra đời của ý thức gắn liền với
q trình hình thành và phát triển của bộ óc người dưới ảnh hưởng của lao động,
của giao tiếp và các quan hệ xã hội.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào thế giới tự nhiên
nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là q trình
trong đó bản thân con người đóng vai trị mơi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất
giữa mình với giới tự nhiên. Đây cũng là quá trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể,
đem lại dáng đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát
triển bộ não, ... của con người. Trong quá trình lao động, con người tác động vào
thế giới khách quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những
kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất

định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt
động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thơng qua hoạt động của bộ não
người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan
thông qua quá trình lao động.
Ngơn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngơn ngữ, ý thức khơng thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải

có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay
trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi
mà còn khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư
tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngơn ngữ, đó là hai
chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc
người, khiễn cho tâm lý động vật dần chuyển hóa thành ý thức.

4. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Ý nghĩa phương pháp luận

của việc nghiên cứu mối quan hệ trên
Trả lời:
 Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức: là mối quan hệ biện chứng mà

trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức và
quyết định ý thức nhưng không thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất qua
hoạt động của con người.
Theo Lê-nin thì vật chất là một phạm trù triết học để chỉ thực tại khách quan, đem
đến cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại,
phản ánh lại và không tồn tại lệ thuộc vào cảm giác.
Đặc điểm của vật chất:
+ Vật chất tồn tại bằng vận động và thể hiện sự tồn tại thơng qua vận động.
+ Khơng có vận động ngồi vật chất và khơng có vật chất khơng có vận động;
+ Vật chất vận động trong không gian và thời gian;
+ Khơng gian và thời gian là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể
và là hình thức tồn tại của vật chất.
Bên cạnh vật chất, ý thức là kết quả của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã
hội. Ý thức mang bản chất là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chính là


sự phản ánh tích cực, tự giác, chủ động thế giới khách quan và bộ não con người
thông qua hoạt động thực tiễn.
 Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ trên
- Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động

+ Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thơng qua chu trình học tập, nghiên
cứu từ các hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và
buộc những đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.

+ Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn
cứ vào hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện
pháp, kế hoạch mới có thể thành cơng.

+ Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm
tin mà không nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vất chất.
- Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người.

+ Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải ln
chủ động, phát huy khả năng của mình và ln tìm tịi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh
đó, con người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không
bỏ cuộc giữa chừng.

+ Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh
việc sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.

5. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Ý
nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu các nguyên lý này
Trả lời:
 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
* Khái niệm:

- Mối liên hệ chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng hay giữa các mặt, yếu tố của sự vật hiện tượng trong TG khách quan
- Mối liên hệ phổ biến chỉ tính phổ biến của mối liên hệ sự vật hiện tượng trong
TG
* Tính chất của mối liên hệ:
- Mối liên hệ có 3 tính chất: khách quan, phổ biến, đa dạng phong phú
+ Tính khách quan: SV-HT trong TG tồn tại khách quan, độc lập, không phụ thuộc
vào ý thức con người
+ Tính phổ biến: mối liên hệ tồn tại trong tất cả SV-HT, trong yếu tố cấu thành, tác
động lẫn nhau của cả tư duy, tự nhiên, xã hội

+ Tính đa dạng, phong phú: Có rất nhiều mối liên hệ: MLH bên trong – bên ngoài,
chủ yếu – thứ yếu, trực tiếp – gián tiếp, phân biệt mối liên hệ chỉ mang tính chất
tương đối, nó phụ thuộc vào phạm vi quan hệ
* Ý nghĩa:
- Phải có quan điểm toàn diện khi nghiên cứu về mối liên hệ
- Chống quan điểm siêu hình: khi xem xét về SV-HT, nhìn hiện tượng khơng có
mối LH với nhau
- Quan điểm siêu hình đánh giá các mối liên hệ tràn lan, không trọng tâm, trọng
điểm
 Nguyên lý về sự phát triển:
* Khái niệm:
- Phát triển là một phạm trù triết học, dùng để khái quát quá trình vận động, từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn
- Phát triển là 1 trường hợp đặc biệt của VĐ, VĐ là biến đổi nói chung, VĐ là vơ
hướng
*Tính chất:
- Tính khách quan: Sự phát triển bắt nguồn từ bản thân sự vật, do sự đấu tranh của
các mặt đối lập làm cho sự vật phát triển
- Tính phổ biến: Mọi SV-HT trong tự nhiên, xã hội và tư duy ý thức con người đều

nằm trong khuynh hướng phát triển
- Tính đa dạng, phong phú: phát triển là xu hướng chung của mọi SV-HT, mỗi lĩnh
vực khác nhau quá trình phát triển là khác nhau
*Ý nghĩa:
- Vì sự vật tồn tại trong trạng thái vận động nên chúng ta phải có quan điểm phát
triển
- Cta luôn luôn phải đặt SV-HT trong trạng thái vận động, phát triển
- Tránh tư tưởng bi quan, tiêu cực trong cuộc sống

6. Nội dung quy luật lượng – chất, quy luật mâu thuẫn, quy luật phủ định của
phủ định, ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu các quy luật trên
Trả lời:

* QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT:
Mọi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Để
hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt này, trước hết cần phải nắm vững
các khái niệm về chất và lượng.
Cặp phạm trù chất và lượng
– Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ khơng
phải là cái khác.

Từ quan niệm trên chúng ta không nên đồng nhất khái niệm chất với khái niệm
thuộc tính.
+ Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính. Nhưng những thuộc tính này khơng
tham gia vào việc quy định chất như nhau, mà chỉ có những thuộc tính cơ bản mới
quy định chất của sự vật. Vì thế, chỉ khi nào thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của
sự vật mới thay đổi. Khi các thuộc tính khơng cơ bản có thể thay đổi, nhưng khơng
làm cho chất của sự vật thay đổi.
+ Mặt khác, các thuộc tính cũng như chất của sự vật chỉ bộc lộ qua những mối liên

hệ cụ thể. Do đó, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và khơng cơ bản, chất và thuộc
tính cũng chỉ là tương đối. Và như vậy, mỗi sự vật, hiện tượng khơng chỉ có một
chất, mà có nhiều chất tuỳ theo những mối quan hệ cụ thể của nó với những cái
khác.
+ Chất biểu hiện tính ổn định tương đối của sự vật, là cái vốn có và khơng tác rời
sự vật. Do đó, khơng thể có chất tồn tại “thuần tuý” hoặc là phụ thuộc vào cảm
giác chủ quan của con người như các nhà triết học duy tâm chủ quan quan niệm.

– Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt
số lượng, quy mơ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các
thuộc tính,các yếu tố… cấu thành sự vật.
+ Đặc trưng của lượng được biểu thị bằng con số hoặc các đại lượng chỉ kích thước
dài hay ngắn, quy mơ to hay nhỏ, tổng số nhiều hay ít, trình độ cao hay thấp, tốc độ
nhanh hay chậm v.v.. Nhưng đối với các sự vật phức tạp, không thể chỉ diễn tả
bằng những con số chính xác, mà cịn phải được nhận thức bằng khả năng trừu
tượng hoá.
+ Cũng giống như chất, lượng là cái khách quan vốn có bên trong của sự vật.
+ Sự phân biệt giữa chất và lượng cũng là tương đối, nghĩa là, có cái ở trong quan
này là chất, nhưng trong quan hệ khác là lượng và ngược lại. Do đó, cần chống
quan điểm siêu hình tuyệt đối hố ranh giới giữa chất và lượng.

Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

– Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tương đối ổn định, còn lượng thường
xuyên biến đổi. Song, hai mặt đó khơng tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một
cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ nhất định, khi
sự vật đang tồn tại.
Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là
khoảng giới hạn, mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về
chất của sự vật. Điểm giới hạn mà khi lượng đạt tới sẽ làm thay đổi về chất của sự

vật thì gọi là điểm nút.
Điểm nút: Sự thay đổi về chất qua điểm nút được gọi là bước nhảy. Đó là bước
ngoặt căn bản kết thúc một giai đoạn trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn
trong quá trình biến đổi liên tục của các sự vật. Do vậy có thể nói phát triển là sự
“đứt đoạn” trong liên tục, là trạng thái liên hợp của các điểm nút.
– Khi sự vật mới ra đời với chất mới lại có một lượng mới phù hợp, tạo nên sự
thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự tác động của chất mới đối với lượng mới
được biểu hiện ở quy mô, nhịp điệu phát triển mới của lượng.
Tóm lại: Quy luật lượng – chất đã chỉ rõ cách thức biến đổi của sự vật và hiện
tượng. Trước hết, lượng biến đổi dần dần và liên tục và khi đạt đến điểm nút (Giới
hạn của sự thống nhất giữa chất và lượng) sẽ dẫn đến bước nhảy về chất; chất mới
ra đời lại tạo nên sự thống nhất mới giữa chất và lượng.
Tất nhiên, thế giới sự vật, hiện tượng là đa dạng, phong phú, do đó hình thức của
các bước nhảy cũng rất đa dạng và phong phú.
 Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp
luận sau đây:
– Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần
dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất.
Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng
bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động của
mình, ơng cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng
nhặt, chặt bị”, “góp gió thành bão”,… Những việc làm vĩ đại của con người bao
giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó.

Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nơn
nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
– Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy
luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực

hiện thơng qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số
lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự
thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất
tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc
phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi
sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
– Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của
bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều
kiện khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng
điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể. Mặt khác, đời sống xã hội của con người rất
đa dạng, phong phú do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước
nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về
chất của từng yếu tố.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết
giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động
vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản
chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về
gen, con người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành
gen làm cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ
giữa các thành viên trong tập thể ấy thay đổi có tính chất tồn bộ thì rất có thể sẽ
làm cho tập thể đó vững mạnh.
*QUY LUẬT MÂU THUẪN
Mọi sự vật hoặc hiện tượng đều chứa đụng những khuynh hướng, mặt đối lập, từ
đó tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân chúng. Sự thống nhất và đấu tranh từ
các mặt đối lập tạo ra xung lực nội của sự vận động, phát triển, và dẫn tới mất đi
cái cũ thay thế bưởi cái mới.
– Các khái niệm về mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, thống nhất, đấu tranh
+ Mặt đối lập: Mạt đối lập là những mặt mà có những thuộc tính, đặc điểm, những
tính quy định mà có khuynh hướng biến đổi trái ngược, tồn tại theo khách quan ở
trong tự nhiên, tư suy và xã hội.


Ví dụ:
Trong mỗi con người đều có mặt đối lập theo tự nhiên như hoạt động ăn và hoạt
động bài tiết.
Đối với sinh vật sẽ có mặt đồng hóa và dị hóa, đối lập nhau.
+ Mâu thuẫn biện chứng: Mâu thuẫn biện chứng là một trạng thái mà mặt đối lập
liên hệ, chúng có tác động qua lại với nhau, theo đó mâu thuẫn biện chứng được
tồn tại một cách khách quan, phổ biến ở trong xã hội, tư duy và tự nhiên. Trong
mâu thuẫn biện chứng tư duy có sự phản ánh mâu thuẫn đối với hiện thực, nguồn
gốc phát triển nhận thức.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập: là sự nương tựa với nhau, tồn tại nhưng không
tách rời với nhau của các mạt đối lập, tự tồn tại đó phải lấy sự tồn tại của mặt khác
để làm tiền đề.
Sự thống nhất đó tạo lên những nhân tố “đồng nhất” của các mặt đối lập. Khi ở
một mức độ nào đó chúng sẽ có thể chuyển hóa cho nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng có biểu hiện tác động ngang nhau, đó chỉ là
trạng thái vận động khi có sự diễn ra căn bằng.
+ Sự đấu tranh của các mặt đối lập
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lợi với nhau theo xu hướng là bài
trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.
Hình thức đấu tranh các mặt đối lập vô cùng phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào
mối quan hệ qua lại của điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh và các mặt đối lập, tính
chất.

– Mâu thuẫn là nguồn gốc sự vận động, sự phát triển
+ Sự thống nhất, đấu tranh các mặt đối lập chính là hai xu hướng tác động khác
nhau mặt đối lập
Trong đó, hai xu hướng này tạo ra loại mâu thuẫn đặc biệt, từ đó mâu thuẫn biện
chứng bao gồm sự thống nhất và sự đấu tranh của mặt đối lập.

Trong quá trình phát triền và vận động thì sự thống nhất, đấu tranh của mặt đối lập
không tách rời nhau.
+ Đấu tranh của mặt đối lập được quy định tất yếu về sự thay đổi các mặt đang tác
động, làm mâu thuẫn phát triển.

Khi bắt đầu xuất hiện thì mâu thuẫn chỉ là một sự khác nhau cơ bản. Tuy nhiên
theo khuynh hướng trái ngược nhau thì sự khác nhau này càng lớn lên và rộng dẫn
ra đến khi nào trở thành đối lập.
Khi hai mặt đối lập có sự xung đột gay gắt, đủ điều kiện thì sẽ tự chuyển hóa lẫn
nhau và từ đó mâu thuận được giải quyết. Nhờ sự giải quyết theo hướng này mà
thể thống nhất mới sẽ thay thế thể thống nhất cũ hay sự vật mới thay cho sự vật cũ
bị mất đi.
+ Sự phát triển là cuộc đấu tranh các mặt đối lập.
Ta đã thấy rằng khi có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ có đấu tranh, đấu tranh
và thống nhất các mặt đối lập thì khơng thể tách rời khỏi nhau đối với mâu thuẫn
biện chứng.
Sự vận động, phát triển là sự thống nhất trong tính ổn định và tính thay đổi, đấu
tranh và thống nhất các mặt đối lập quy định về tính thay đổi và tính ổn định sự
vật. Do đó, mâu thuẫn là nguồn gốc của phát triển và vận động.

– Phân loại mâu thuẫn
+ Nếu dựa vào quan hệ của sự vật được xem xét, mâu thuẫn sẽ được phân loại
thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Dựa vào ý nghĩa sự tồn tại, phát triển tồn bộ sự vật thì mâu thuẫn được chia làm
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
+ Dựa vào vai trò mâu thuẫn của sự tồn tại, phát triển sự vật ở 1 giai đoạn nhất
định thì mâu thuẫn phân loại là mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu.
+ Dựa vào tính chất của quan hệ lợi ích, mâu thuẫn chia làm mâu thuẫn đối kháng
và mâu thuẫn không đối kháng.
 Ý nghĩa phương pháp luận:


– Để nhận thức được ban chất của sự vật hoặc tìm ra phương hướng, giải pháp
cho hoạt động thực tiễn cần phải nghiên cứu mâu thuẫn sự vật.
– Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập hay
quy luật mâu thuẫn có ý nghĩa quan trọng đối với nhận thực, hoạt động thực
tiễn.
Bởi mâu thuận là động lực và cùng là nguồn gốc của sự vận động, phát triển,
có tính khách quan phổ biến.
*QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH

Thế giới vận động không ngừng thơng qua q trình phủ định của phủ định; tức là
sự vật mới ra đồi như là kết quả của sự phủ định biện chứng cái cũ, rồi đến lược nó

bị cái mới hơn phủ định, cứ thế tạo ra khuynh hướng vận động và phát triển của sự
vật từ thấp đến cao 1 cách vơ tận theo hình xoắn ốc; sau mỗi chu kỳ của sự phát
triển, sự vật lại trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới, cao hơn.
Sự phát triển theo khuynh hướng phủ định của phủ đinh đã từng được các nhà biện
chứng tự phát nêu ra, song do chưa nhận thức sâu sắc tính biện chứng của q trình
phát triển nên đã tuyệt đối hóa tính ;lặp lại sau 1 chu kỳ phát triển, coi đó như là 1
q trình diễn ra theo vịng trịn khép kín.
Những nhà triết học duy vật biện chứng thì cho rằng sự vận động diễn ra theo
nhiều xu hướng, tính vơ cùng vơ tận của thế giới vật chất cũng được biểu hiện
trong tính vơ cùng vơ tận của các khuynh hướng vận động; theo đó sự vận động
theo vịng trịn khép kín chỉ là 1 trong những khuynh hướng có thể, đó khơng phải
là khuynh hướng duy nhất.
Sự phát triển biện chứng thông qua nhiều lần phủ định biện chứng, chính là sự
thống nhất loại bỏ, kế thừa và phát triển; mỗi lần phủ định biện chứng sẽ mang ;lại
những nhân tố tích cực mới; do đó sự phát triển thơng qua những lần phủ định biện
chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng; sự phát triển tiến lên khơng ngừng
đó, khơng phái diễn ra theo đường thẳng mà theo đường xoắn ốc, mỗi vịn xốy

biểu hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn; mỗi lần phủ
định là kết quả đấu tranh chuyển hóa các mặt đối lập trong bản thân sự vật, sự phủ
định lần thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho sự vật cũ trở thành
cái đối lập của mình; lần phủ định tiếp theo dẫn đến sự ra đời của sự vật mới mang
nhiều đặc trưng đối lập với cái trung gian, như vậy về hình thức sẽ trở lại cái xuất
phát nhưng về thực chất không phải giống nguyên cái cũ, mà dường như lặp lại cái
cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Số lượng các lần phủ định trong 1 chu kỳ phát triển cụ thể, trong thực tế có thể
nhiều hơn hay tùy theo tính chất của 1 q trình phát triển cụ thể. (ví dụ: hạt lúa: 2,
tơ tằm: 4)
 Ý nghĩa phương pháp luận:
Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết 1 cách đúng đắn về xu hướng của
sự phát triển và được diễn ra trong quá trình quanh co, phức tạp, đặc biệt là trong
lĩnh vực đời sống xã hội.

Quy luật phủ định của phủ định giúp ta có cái nhìn về xu thế của thời đại mà ta
đang sống, mặc dù hệ thống XHCN đã tan rã, qua đó xây dựng niềm tin tất thắng
của CNXH đối với CNTB.

Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới, cái mới là
cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật, nó ln biểu hiện là giai đoạn
cao về chất trong sự phát triển, trong lĩnh vực tự nhiên cái mới ra đời mang tính tự
phát, trong lĩnh vực xã hội cái mới xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt
động có ý thức của con người, qua đó xây dựng thái độ ủng hộ cái mới, đấu tranh
loại trừ cái cũ trong đời sống xã hội.

Quy luật phủ định của phủ định có ý nghĩa phương pháp luận như sau:

 Quy luật phủ định của phủ định cho ta cơ sở để hiểu sự ra đời cái mới, mối liên

hệ giữa cái cũ và cái mới.

 Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống thái độ phủ định sạch trơn.
Đồng thời phải biết sàng lọc những gì tích cực của cái cũ.

 Chống thái độ hư vô chủ nghĩa, đồng thời chống thái độ bảo thủ, khư khư ôm
lấy những gì đã lạc hậu, lỗi thời khơng cịn phù hợp, khơng chịu đổi mới.

 Phải hiểu phát triển không phải là đường thẳng mà theo đường xoắn ốc đi lên.
Nghĩa là, có nhiều khó khăn, phức tạp trong q trình vận động, phát triển. Phát
triển không phải là đường thẳng.

7. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Trả lời:
Khái niệm thực tiễn
Thực tiễn là tồn bộ hoạt động VẬT CHẤT có mục đích, mang tính lịch sử – xã
hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
 Những hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn? Cho ví dụ?
– Hoạt động sản xuất vật chất.
Ví dụ: Hoạt động gặt lúa của nông dân, lao động của các công nhân trong các
nhà máy, xí nghiệp…
– Hoạt động chính trị – xã hội.
Ví dụ: Hoạt động bầu cử đại biểu Quốc hội, tiến hành Đại hội Đoàn Thanh niên
trường học, Hội nghị cơng đồn
– Hoạt động thực nghiệm khoa học.

Ví dụ: Hoạt động nghiên cứu, làm thí nghiệm của các nhà khoa học để tìm ra các
vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, vác-xin phòng ngừa dịch bệnh mới.
Khái niệm nhận thức
Nhận thức là q trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan

vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế
giới khách quan đó.

 Các giai đoạn của q trình nhận thức? Cho ví dụ?
Q trình nhận thức của con người gồm hai giai đoạn:

– Nhận thức cảm tính: là giai đoạn nhận thức được tạo nên do sự tiếp xúc trực
tiếp của các cơ quan cảm giác với sự vật, hiện tượng, đem lại cho con người hiểu
biết về đặc điểm bên ngồi của chúng.
Ví dụ: Khi muối ăn tác động vào các cơ quan cảm giác, mắt (thị giác) sẽ cho ta
biết muối có màu trắng, dạng tinh thể; mũi (khướu giác) cho ta biết muối khơng có
mùi; lưỡi (vị giác) cho ta biết muối có vị mặn.
– Nhận thức lý tính: là giai đoạn nhận thức tiếp theo, dựa trên các tài liệu do nhận
thức cảm tính đem lại, nhờ các thao tác của tư duy như: phân tích, so sánh, tổng
hợp, khái quát… tìm ra bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Nhờ đi sâu phân tích, người ta tìm ra cấu trúc tinh thể và cơng thức hóa
học của muối, điều chế được muối…

8. Chân lý, tính chất của chân lý. Vai trị của chân lý đối với thực tiễn
Trả lời:
1) Khái niệm chân lý:

Trong phạm vi lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mac-Lênin, Khái niệm chân
lý được dùng để chỉ những tri thức có nội dung phù hợp với thực tế khách quan mà
sự phù hợp đó đã được kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
Chân lý là tri thức phù hợp với khách thể mà nó phản ánh và được kiểm nghiệm
bởi thực tiễn.
Theo nghĩa như vậy, khái niệm chân lý không đồng nhất với khái niệm tri thức,
cũng không đồng nhất với khái niệm giả thuyết; đồng thời, chân lý cũng là một q
trình: “tư tưởng con người khơng nên hình dung chân lý dưới dạng một sự đứng

im, chết cứng, một bức tranh đơn giản, nhợt nhạt, không khuynh hướng, không vận
động”
Chân lý thuộc về vấn đề nhận thức. Bởi vì, nhiệm vụ của nhận thức là phải đạt đến
chân lý, nghĩa là đạt đến tri thức có nội dung phù hợp với hiện thực khách quan;

nhưng khơng phải là sự nhận thức nói chung, mà là sự nhận thức đúng về hiện thực
khách quan.
Chân lý cũng khơng phải bản thân hiện thực khách quan nói chung, mà chỉ là hiện
thực khách quan đã được phản ánh đúng bởi nhận thức của con người. Khơng thể
có chân lý chủ quan, hoặc chân lý tồn tại tự nó một cách trừu tượng thuần túy ở
trong hiện thực khách quan như quan điểm của triết học duy tâm đã thừa nhận.
Hoặc có quan điểm khơng đúng cho rằng chân lý thuộc về số đơng, tức là tư tưởng
đó được nhiều người thừa nhận, hoặc nó thuộc về những người có quyền lực,
người giàu có v.v…
2) Các tính chất của chân lý

Mọi chân lý đều có tính khách quan, tính tương đối, tính tuyệt đối và tính cụ thể.

2.1 Tính khách quan

Chân lý là tri thức chứ khơng phải bản thân hiện thực khách quan, nhưng tri thức
đó phải phản ánh đúng hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm là
đúng. Cho nên, theo nghĩa đúng của từ này, chân lý bao giờ cũng là khách quan vì
nội dung phản ánh của nó là khách quan, là phù hợp với khách thể của nhận thức.
V.I. Lênin nhấn mạnh; “Thừa nhận chân lý khách quan, tức là chân lý khơng phụ
thuộc vào con người và lồi người” chỉ phụ thuộc vào thực tại khách quan, không
phụ thuộc vào tính đơn giản hay tính chặt chẽ của lơgíc, khơng phụ thuộc vào lợi
ích hay sự quy ước, v.v.. V.I. Lênin cũng khẳng định “là người duy vật, có nghĩa là
thừa nhận chân lý khách quan”.
Tính khách quan của chân lý là chỉ tính độc lập về nội dung phản ánh của nó đối

với ý chí chủ quan của con người; nội dung của tri thức phải phù hợp với thực tế
khách quan chứ khơng phải ngược lại. Điều đó có nghĩa là nội dung của những tri
thức đúng đắn không phải là sản phẩm thuần túy chủ quan, không phải là sự xác
lập tùy tiện của con người hoặc có sẵn trong nhận thức; trái lại, nội dung đó thuộc
về thế giới khách quan, do thế giới khách quan qui định.
Khẳng định chân lý có tính khách quan là một trong những điểm cơ bản phân biệt
quan niệm về chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa duy tâm và
thuyết bất khả tri – là những học thuyết phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế
giới vật chất và phủ nhận khả năng con người nhận thức được thế giới đó.

2.2 Tính tuyệt đối và tính tương đối

Tính tuyệt đối của chân lý là chỉ tính phù hợp hồn tồn và đầy đủ giữa nội dung
phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan. Về nguyên tắc, chúng ta có thể đạt
đến chân lý tuyệt đối. Bởi vì, trong thế giới khách quan không tồn tại một sự vật,
hiên tượng nào mà con người hồn tồn khơng thể nhận thức được. Khả năng đó
trong q trình phát triển là vơ hạn. Song, khả năng đó lại bị hạn chế bởi những
điều kiện cụ thể của từng thế hệ khác nhau, của từng thực tiễn cụ thể và bởi điều
kiện xác định về không gian và thời gian của đối tượng được phản ánh. Do đó chân
lý có tính tương đối.
Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa hoàn toàn đầy đủ giữa nội
dung phản ánh của tri thức đã đạt được với hiện thực khách quan mà nó phản ánh.
Điều đó có nghĩa là giữa nội dung của chân lý với khách thể được phản ánh chỉ đạt
được sự phù hợp từng phần, từng bộ phận, ở một số mặt, một số khía cạnh nào đó
trong những điều kiện nhất định.
Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không tồn tại tách rời nhau mà có sự thống
nhất biện chứng với nhau. Một mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý
tương đối. Mặt khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Lênin viết: “Chân lý tuyệt đối được cấu
thành từ tổng số những chân lý tương đối đang phát triển; chân lý tương đối là

những phản ánh tương đối đúng của một khách thể tồn tại độc lập với nhân loại;
những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân lý khoa học, dù có
tính tương đối, vẫn chứa đựng một yếu tố của chân lý tuyệt đối”.
Nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính
tuyệt đối của chân lý có một ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc phục
những sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động. Nếu cường điệu tính tuyệt
đối của chân lý hạ thấp tính tương đối của nó sẽ rơi vào quan điểm siêu hình, chủ
nghĩa giáo điều, bệnh bảo thủ, trì trệ. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa tính tương đối
của chân lý, hạ thấp vai trị của tính tuyệt đối sẽ rơi vào chủ nghĩa tương đối. Từ đó
dẫn đến chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa xét lại, thuật ngụy biện, thuyết hoài nghi và
thuyết bất khả tri.

2.3 Tính cụ thể

Tính cụ thể của chân lý là đặc tính gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh
với một đối tượng nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Điều đó

có nghĩa là mỗi tri thức đúng đắn bao giờ cũng có một nội dung cụ thể xác định.
Nội dung đó khơng phải là sự trừu tượng thuần túy thốt ly hiện thực mà nó ln
ln gắn liền với một đối tượng xác định, diễn ra trong một không gian, thời gian
hay một hồn cảnh nào đó, trong một mối liên hệ, quan hệ cụ thể. Vì vậy, bất kỳ
chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ thể. Nếu thoát ly những
điều kiện cụ thể thì những tri thức được hình thành trong quá trình nhận thức sẽ rơi
vào sự trừu tượng thuần túy. Vì thế nó khơng phải là những tri thức đúng đắn và
không được coi là chân lý. Khi nhấn mạnh đặc tính này, Lênin đẫ khẳng định:
“khơng có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là cụ thể”.
Việc nắm vững ngun tắc về tính cụ thể của chân lý có một ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó địi hỏi khi
xem xét, đánh giá mỗi sự kiện, mỗi việc làm của con người phải dựa trên quan
điểm lịch sử – cụ thể; phải xuất phát từ những điều kiện lịch sử cụ thể mà vận dụng

những lý luận chung cho phù hợp. Theo Lênin: bản chất, linh hồn sống của chủ
nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể; rằng phương pháp của Mác
trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm
cụ thể nhất định.

9. Khái niệm, các yếu tố cấu thành của lý luận sản xuất, quan hệ sản xuất. Nội
dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này
Trả lời:

10. Cơ sở hạ tầng – Kiến trúc thượng tầng: Khái niệm, quan hệ biện chứng, ý
nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu mối quan hệ này
Trả lời:

– Cơ sở hạ tầng (CSHT): là toàn bộ những quan hệ sản xuất (QHSX) hợp thành cơ
cấu kinh tế của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định.

Khái niệm CSHT phản ánh chức năng xã hội của các QHSX với tư cách là cơ sở
kinh tế của các hiện tượng xã hội. CSHT của một xã hội cụ thể bao gồm những
CSHT thống trị, những QHSX tàn dư của xã hội trước và những QHSX là mầm
mống của xã hội sau. Trong một CSHT có nhiều thành phần kinh tế, nhiều QHSX
thì kiểu QHSX thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần
kinh tế và các kiểu QHSX khác; nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng

chung của toàn bộ đời sống kinh tế xã hội. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, tính
giai cấp của cơ sở hạ tầng là do kiểu QHSX thống trị quy định. Tính chất đối
kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn từ ngay
trong CSHT.
– Kiến trúc thượng tầng (KTTT): là toàn bộ những quan điểm tư tưởng xã hội,
những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành

trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
KTTT của xã hội có đối kháng giai cấp bao gồm: hệ tư tưởng và thể chế giai cấp
thống trị, tàn dư của các quan điểm của xã hội trước để lại; quan điểm và tổ chức
của các giai cấp trung gian. Tính chất hệ tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định
tính chất cơ bản của KTTT trong một hình thái xã hội nhất định. Trong đó bộ phận
mạnh nhất của KTTT là nhà nước- công cụ của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế
độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý. Chính nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai
cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội.
*Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó. Do
đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trị quyết định.

11. Hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên
Trả lời:
Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là một quy luật lịch sử tự nhiên vì:
Lịch sử phát triển xã hội qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao tương ứng với mỗi
giai đoạn ấy là một hình thái kinh tế xã hội.
Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử đều do tác
động của các quy luật khách quan đó là q trình lịch sử tự nhiên của xã hội.
+ Các quy luật khách quan của xã hội là:

- Quy luật và sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của LLSX.

- Quy luật CSHT quyết định KTTT.

Các quy luật xã hội khác. Đấu tranh giai cấp, chính do tác động của quy luật khách
quan đó mà các hình thái xã hội vận động phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao
trong lịch sử khơng phụ thuộc vào ý chí nguyện vọng chủ quan của con người.


Quá trình phát triển khách quan của xã hội có nguồn gốc sâu xa của sự phát triển
LLSX. Do đó xét đến cùng LLSX quyết định quá trình vận động và phát triển của
hình thái kinh tế xã hội như quá trình lịch sử tự nhiên

12. Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội
Trả lời:
* Tồn tại xã hội:
- Khái niệm: là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của
xã hội
- Kết cấu:
+ Phương thức sản xuất vật chất (yếu tố cơ bản nhất)
+ Yếu tố tự nhiên, địa lý
+ Yếu tố dân cư
* Ý thức xã hội:
- Khái niệm: là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,… nảy sinh từ tồn tại xã hội và
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định
- Kết cấu:
+ Theo trình độ phản ánh:

 Ý thức xã hội thông thường
 Ý thức lý luận
+ Theo 2 cấp độ:
 Tâm lý xã hội
 Hệ tư tưởng

* Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại và ý thức xã hội
* Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội

+ TTXH là nguồn gốc khách quan cho sự hình thành và ra đời ý thức xã hội (nghệ
thuật, tư tưởng, chính trị, pháp quyền)
+ TTXH quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm của ý thức xã hội
+ TTXH thay đổi thì sớm hay muộn ý YTXH cũng phải thay đổi theo, mức độ thay
đổi khác nhau, có những yếu tố thay đổi chậm, những yếu tố thay đổi nhanh
+ Trong xã hội có giai cấp thì YTXH mang tính giai cấp
- Tính độc lập tương đối của YTXH với TTXH
+ YTXH thường lạc hậu hơn TTXH (YTXH không phản ánh kịp đối với sự biến
đổi của TTXH)
+ YTXH có thể vượt trước TTXH (YTXH có thể phản ánh TTXH dưới dạng tương
lai, dự báo)
+ Tính kế thừa trong sự phát triển của YTXH: Thường thì YTXH đương thời có
thể tiếp thu những yếu tố hợp lý của YTXH giai đoạn trước để cùng phản ánh
TTXH đương thời
- Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức: Thường thì trong mỗi giai đoạn lịch
sử cụ thể có 1 vài hình thái YTXH nổi lên hàng đầu và tác động đến các hình thái
xã hội khác
* Ý thức xã hội tác động tồn tại xã hội
- Bản thân ý thức xã hội tự nó khơng trực tiếp làm biến đổi tồn tại xã hội mà phải
thông qua hoạt động thực tiễn
- Ý thức tác động thông qua hoạt động nên ảnh hưởng đến KQ hoạt động: tác động
tích cực khi ý thức, tư tưởng tiến bộ, cách mạng, phản ánh đúng hiện thực khách
quan; tác động tiêu cực khi ý thức, tư tưởng lạc hậu, phản ánh không đúng hiện
thực khách quan
- Mức độ tác động của YTXH đối với TTXH phụ thuộc điều kiện lịch sử cụ thể;
tính chất các mối quan hệ kinh tế làm nảy sinh tư tưởng đó; vai trị của giai cấp đề
ra tư tưởng đó; mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đó và mức độ triển khai
thực hiện tư tưởng đó trong quần chúng

13. Triết học về con người và bản chất con người



×