Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

phân tích các tác phẩm tự tình, câu cá mùa thu, thương vợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.64 KB, 10 trang )

ÔN TẬP GIỮA HK1 MƠN NGỮ VĂN 11

ĐỀ: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TỰ TÌNH (HỒ XUÂN HƯƠNG)

Bài làm

“Văn học là tấm gương lớn di chuyển dọc theo đường đời”

(Xtăng-đan)

Quả thực vậy, văn học từ lâu đã trở thành một phần tất yếu của cuộc
sống. Và khi con người lần theo bước đi của cõi nhân sinh, bao cảnh đất trời nổi
cơn gió bụi, cảnh suy vong của lớp lớp vương triều,…ta mới nhận ra giá trị thực
sự của văn học chính là phản ánh hiện thực cuộc đời, là sự gửi gắm bao tâm tư
tình cảm của con người trước bao giơng tố, nghịch cảnh của số phận. Song, tác
phẩm “Tự tình 2” chính là bức họa về người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” trong
xã hội cũ – một áng văn nhân đạo để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng
sâu sắc, đẹp đẽ.

Giữa bao định kiến, áp đặt của xã hội lên người phụ nữ, “Bà chúa thơ
Nơm”-Hồ Xn Hương đã hướng ngịi bút nhân đạo của mình đến thân phận của
“những người cùng khổ” để lên án chế độ phong kiến thối nát và qua đó đề cao
vẻ đẹp, sự hi sinh cùng đức hạnh của người phụ nữ. Và “Tự tình 2” chính là lời
tâm sự của Hồ Xuân Hương khi viết về thân phận dang dở của chính mình, và
đó cũng chính là nỗi đau của rất nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến đương
thời.

Không gian buồn thương bỗng chốc hiện lên cùng bao tâm sự ngổn ngang.
Nỗi cô đơn như chiếm lấy cả thể xác lẫn tâm hồn người thi sĩ giữa đêm đen u
tối:


“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Phải chăng trong bất cứ cuộc chia ly nào thì người ở lại cũng là người đau
khổ nhất. Cảm giác đơn độc, sầu muộn của người con gái ấy bao trùm cả không
gian vắng lặng, tĩnh mịch. Tiếng trống cầm canh cứ văng vẳng, âm vang trong
tâm thức của nàng ngày càng rõ ràng, vang vọng hơn. Bởi lẽ “đêm khuya” là
khoảng thời gian con người thường cảm nhận, chiêm nghiệm rõ sự cô đơn.
Song, nhà thơ đã thật khéo léo khi sử dụng từ láy “văng vẳng” để cảm nhận rõ
nét bước đi của thời gian và sự rối bời của tâm trạng. Bà đã lấy cái ngoại cảnh
để nói tâm cảnh, là cảnh vật tác động đến con người hay là vì “người buồn cảnh
có vui đâu bao giờ”? Ấy mới nhận ra, giữa “đêm khuya” thanh vắng vẫn có một
người con gái thao thức, nghĩ suy về cuộc đời, về số phận long đong đầy xót xa

của mình. Khơng những thế, kết hợp cùng nghệ thuật đảo ngữ “trơ” và nhịp điệu
1/3/3 càng làm tăng thêm sự tủi hổ, bẽ bàng của hiện thực. Vì “Trơ” là trơ trọi,
lẻ loi, yếu ớt và từ “trơ” đươc đặt ở đầu câu đã nhấn mạnh nỗi đau, sự bất hạnh
của người phu nữ có “hồng nhan”. Dù là người có nhan sắc, nhưng ở xã hội ấy
Hồ Xuân Hương chỉ nhận thấy vẻ đẹp ấy là một “cái hồng nhan” bị người đời rẻ
rúng, mỉa mai. Vì danh từ “cái” chỉ loại thường gắn với những vật chất nhỏ bé,
tầm thường. Đó là nỗi xót xa, cay đắng, tội nghiệp của nữ sĩ cho thân phận của
người phụ nữ thời bấy giờ. Tuy đứng trước tình cảnh đau lòng ấy, nhưng nữ sĩ
vẫn bộc lộ bản lĩnh của mình khi dám đem cái “tơi”, sự bền gan để thách đố
“nước non” bao la rộng lớn. Ấy mới nhận ra, Hồ Xuân Hương là thế, không bao
giờ chịu nhỏ bé, yếu mềm trước xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờ.

Thời gian như xốy sâu vào cõi lịng người thi sĩ. Dù mạnh mẽ, kiên
cường nhưng là phận nữ nhi, nàng vẫn ln mong ước có được niềm hạnh phúc
viên mãn. Người con gái ấy gắng gượng xoa dịu chính tâm hồn vỡ nát của mình

nhưng mọi thứ dường như trở nên vô nghĩa:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn”

Khung cảnh hiện lên với bao niềm xót xa. Hồ Xuân Hương mượn chén rượu
để giải sầu nhưng rượu chẳng thể làm Xuân Hương say mà ngược lại những tổn
thương ngày cũ vẫn lặp lại, nỗi sầu càng đong đầy, chất ngất. “Say”, có thể quên
đi được một chốc nhưng đâu có thể say mãi, rồi sẽ lại “tỉnh” ra và tỉnh ra lại đau
đớn khôn nguôi. Cụm từ “say lại tỉnh” là một vịng lặp vơ hạn, người con gái
nhỏ bé cố gắng “say” để quên đi kiếp đời bạc bẽo, nhưng quanh đi quẩn lại nàng
vẫn khơng tìm được lối thốt cho chính mình. Tình dun hóa ra cũng chỉ là sự
giễu cợt của tạo hóa. Đó cũng là tình cảnh của nàng Kiều muốn “mượn rượu”
giải sầu trước hiện thực bẽ bàng:

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh.

Giật mình, mình lại thương mình xót xa.”

(Nỗi thương mình)

Ấy mới nhận ra, hình ảnh người phụ nữ cơ đơn trong đêm khuya vắng lặng
với biết bao đau đớn, đầy tâm sự nay đã trở thành trò đùa của số phận. Bên cạnh
đó, hình ảnh tả thực “vầng trăng bóng xế” cũng đã khắc họa rõ nét tuổi xuân của
người con gái sắp trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Câu thơ là ngoại cảnh
mà cũng là tâm cảnh tạo nên sự đồng nhất giữa ánh trăng và con người. “Khuyết
chưa trịn” là hình ảnh thơ ẩn dụ cho số phận éo le của HXH, tuổi xuân xanh
chẳng cịn bao lâu nhưng nàng vẫn chưa tìm được hạnh phúc tròn đầy cho bản


thân mình. Cặp từ trái nghĩa “say-tỉnh”,“khuyết-trịn” đã làm tình cảnh thêm đớn
đau, tội nghiệp. Một lời tâm sự đầy bi thương chứa đựng sự muộn màng, nuối
tiếc trong tình yêu của người con gái.

Sự cô độc dồn nén bấy lâu nay đã hóa thành niềm phẫn uất đến căm hận. Nàng
mong muốn thoát ly khỏi những định kiến tàn bạo bằng sự chống trả kịch liệt:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”

Có lẽ, người con gái ấy đã phải hứng chịu biết bao nỗi đau, bị ép đến
đường cùng mới phản kháng mãnh liệt như thế để ngay cả thiên nhiên cũng
muốn giúp một phần sức mọn! “Rêu” là một sinh thể mong manh, yếu đuối mà
vẫn bứt phá để “xiên ngang mặt đất”. “Đá” vô tri nhưng vẫn gắng sức để “đâm
toạc chân mây”. Đó là sự đáp trả, kiên quyết phản kháng, là thái độ phẫn uất của
thiên nhiên khi chứng kiến sự bất công của cuộc đời. Song, Hồ Xuân Hương đã
thật tài tình khi sử dụng nghệ thuật đảo ngữ “xiên ngang, đâm toạc” kết hợp với
các động từ mạnh “đâm, xiên” cùng bổ ngữ “ngang,toạc” để cho thấy sức sống
cao trào, mãnh liệt của thân phận đất đá, cỏ cây với khát vọng bứt phá, vượt lên
những ranh giới không hạn định của trời đất. Bút pháp tả cảnh ngụ tình ấy cũng
là ẩn dụ cho tâm trạng của Hồ Xuân Hương muốn vạch đất, vạch trời để hờn
oán, thể hiện thái độ không cam chịu, phản đối những bất công xưa đối với
người phụ nữ. Nàng muốn phá bpr những xiềng xích vơ hình đang ràng buộc, để
tìm hạnh phúc đích thực cho mình, để nói lên tiếng nói của những người phụ nữ
giữa xã hội phong kiến thối nát, suy đồi.

Trải qua nhiều những niềm đau, có lẽ bị kịch to lớn nhất đời bà vẫn là việc
bản thân ý thức được giá trị chính mình. Trong xã hội biến chất, sự thật bị khuất
lấp trước sự lừa phỉnh của định kiến “tam tòng tứ đức”, nếu Hồ Xuân Hương

chịu chấp nhận số phận như bao nữ nhi khác có lẽ bà đã bớt đau khổ hơn khi
nhận thức được bi kịch của chính mình.

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con”

Hiện thực đau lòng, người con gái như tuyệt vọng trước sự thật phũ phàng.
Hồ Xuân Hương chán “ngán”, ngán ngẩm nỗi đời bạc bẽo khi ngày qua ngày rồi
năm này qua năm khác “xuân đi xuân lại lại” bà vẫn cô đơn lẻ bóng một mình.
Và điệp từ “xn” được lặp lại hai lần không chỉ là mùa xuân của thiên nhiên
mà còn là sự ẩn dụ cho tuổi xuân của con người. Mùa xuân của trời đất có thể đi
rồi sẽ trở lại nhưng thời gian thì vơ tình trơi lặng lẽ, tuổi xuân của một người con
gái thì một đi khơng trở lại. Khơng những thế, HXH cũng xót xa cho tuổi xuân

của mình qua đi, tuổi đời càng thêm nhưng tình yêu chưa bao giờ được trọn vẹn,
được thương yêu với đúng nghĩa của một người làm vợ. Mảnh tình ấy đã mỏng
manh, ít ỏi lại còn phải “chia năm sẻ bảy” để rồi chỉ cịn “tí con con”. Cả hai
tính từ chỉ sự nhỏ bé nay lại đặt cạnh nhau càng làm tăng thêm sự hèn mọn, ít ỏi.
Nghệ thuật tăng tiến ấy đã nhấn mạnh hơn tình cảnh trái ngang của người phụ
nữ khi phải chịu thân phận làm lẽ. Câu thơ chứa chan vẻ tiếc nuối, sự bất lực của
Hồ Xuân Hương khi rơi phải đối diện với nghịch cảnh, với bi kịch tình yêu của
mình. Hồn cảnh ấy cũng gợi nhắc ta về âm điệu khắc khoải khi HXH phải chịu
cảnh “Lấy chồng chung”

“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.”

Từ ấy, ta chợt nhận ra nỗi buồn của người thi sĩ đã bao trùm lên cả không

gian và thời gian. Mặc dù bà là người có tài năng, giỏi giang, xinh đẹp đức hạnh
nhưng phải chăng vì lẽ “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” mà bà cũng
không thể vượt qua được nghịch cảnh của số phận.

Chỉ với vài dòng thơ nhưng Hồ Xuân Hương đã mang đến cho người đọc
những cảm nhận sâu sắc về số phận bi thương của bản thân, cũng là hiện thân
cho nỗi đau mà người con gái phải chịu trước hiện thực xã hội bất công. Bên
cạnh đó, kết hợp với việc miêu tả tâm lí nhân vật cùng việc vận dụng ngơn ngữ
một cách chọn lọc nữ thi sĩ đã diễn tả sâu sắc khát vọng hạnh phúc lứa đôi của
người con gái khi đối với họ hạnh phúc chỉ là chiếc chăn quá hẹp.

Thân phận phù du nào lại chẳng muốn hóa bất tử, kể cả văn chương nghệ
thuật. Và tác phẩm “Tự tình 2” đã làm nên điều kì diệu ấy. Chính lịng trắc ẩn và
sự nhân đạo đã làm nên thành công của tác phẩm. Người thi sĩ không chỉ sáng
tạo ra tác phẩm bằng tài năng mà là bằng cả trái tim của mình. Hồ Xuân Hương
đã thương cảm, đã rung động trước số phận của người con gái trong xã hội cũ để
bà có thể viết nên những áng văn thật đẹp. Tuy bị xã hội chà đạp, nhưng người
phụ nữ Việt Nam vẫn luôn mang trong mình những phẩm chất, đức hạnh đầy
cao quý, đẹp đẽ!

ĐỀ: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM CÂU CÁ MÙA THU(NGUYỄN KHUYẾN)

Bài làm

Xuân, Hạ, Thu, Đông-bốn mùa của thiên nhiên đất trời với biết bao cảnh sắc
tuyệt đẹp vẫn luôn là nguồn cảm hứng lớn cho thi ca, nhạc họa. Song, mùa thu
với nét đẹp bình dị, đặc trưng đã trở thành nguồn thi hứng bất tận cho nhiều nhà
thơ. Nếu như mùa thu đi vào mảnh tình riêng của Nguyễn Đình Thi là tiếng
vọng đất nước từ ngàn đời, đi vào thơ của Hữu Thỉnh là “hương ổi chín”, là dư


vị của mùa hè ấm áp thì với Nguyễn Khuyến đó lại là nét đẹp dân dã của làng
quê Việt Nam thuần túy.

Bài thơ “Câu cá mùa thu” hay còn gọi là “Thu điếu” nằm trong chùm gồm
ba bài thơ thu “Thu điếu, Thu vịnh, Thu ẩm” nổi tiếng của tác giả. Song, tác
phẩm được Nguyễn Khuyến sáng tác khi ông lui về ở ẩn tại nơi quê nhà. Qua đó
thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về cảnh sắc mùa thu làng quê Bắc
Bộ cùng tình yêu thiên nhiên, đất nước cũng như nỗi lịng đau xót của tác giả
trước vận mệnh của nước nhà.

Với nhiều nghệ sĩ xưa, tín hiệu của mùa thu trong thi ca thường mang tính
chất ước lệ như lá ngơ đồng rơi: “Ngô đồng nhất diệp lạc-Thiên hạ cộng tri thu”,
một chiếc lá ngô đồng rơi-mọi người đều biết thu đã về. Còn dấu hiệu mùa thu
trong thơ Nguyễn Khuyến lại rất đỗi bình dị, chẳng phải là thứ “hương ổi”,
“hương cốm” phảng phất trong gió mà đó là khơng gian yên bình, nhỏ bé của
làng mạc nơi quê nhà:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Cảnh thu hiện lên hết sức trong trẻo. Khơng khí mùa thu được gợi nên từ sự
dịu nhẹ, thanh sơ nhất của cảnh vật với làn nước trong veo, không một gợn đục.
Mùa hè đã đi qua, những cơn mưa lớn với dòng nước đỏ đục đã khơng cịn thay
vào đó là cái thanh tĩnh, trong trẻo của làn nước, của cảnh vật. Hình ảnh “ao
thu” qua cõi lòng của Nguyễn Khuyến đã trong nay lại càng thuần khiết hơn qua
từ láy “trong veo”. Tác giả vẽ ra khung cảnh tưởng như đối lập ao thu – thuyền
câu, nhưng kì thực chúng lại hịa quyện với nhau đến kì lạ vì ao và thuyền là
những vật thân thuộc khi nhắc về quê hương Bắc Bộ. Giữa khơng gian nhỏ hẹp
ấy, lại có xuất hiện “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”. Dường như trong khoảng trời

thu, chiếc thuyền trở nên nhỏ bé tới mức chẳng thể nhận ra được nữa. Ấy mới
thấy, cảnh thu hiện lên hết sức thân quen nhưng lại đìu hiu, vắng, lạnh qua hàng
loạt các từ láy “lạnh lẽo”, “trong veo”, “tẻo teo”, vần “eo” cứ nối tiếp mọi thứ
vẫn tiếp tục co bé lại và cái lạnh dường như thấm cả không gian.

Chỉ với hai câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến đã đưa người đọc đắm mình vào
tiết trời mùa thu của làng quê Bắc Bộ từ ao thu đến chiếc thuyền câu nhỏ bé. Và
những chuyển động của mùa thu bỗng chốc rơi rụng vào cõi lòng người thi sĩ:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo“

Từng đường nét của mùa thu dưới ngòi bút của Nguyễn Khuyến dần trở nên
rực rỡ, đầy màu sắc: Gió thu thống nhẹ làm cho mặt sóng chuyển động, làm

cho lá vàng khẽ khàng bay trong gió. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”,
“khẽ” được sử dụng thật tài tình, kết hợp với nhau tạo nên màu sắc, hình ảnh
làm cho cảnh thu trở nên sống động có hồn. Chữ “vèo” là một nhân tự khiến cho
Tản Đà khâm phục, tâm đắc vơ cùng. Ơng thổ lộ một đời thơ, ơng mới có được
một câu thơ vừa ý “Vèo trông lá rụng đầy sân”. Nguyễn Khuyến phải là một hồn
thơ tinh tế , phải có sự hịa điệu với thiên nhiên nhà thơ mới cảm nhận được
những rung động mơ hồ của vạn vật, đất trời. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh cùng
việc miêu tả tài tình những màu sắc hòa hợp của thiên nhiên: màu xanh của sóng
với sắc vàng lộng lẫy của lá đã góp phần tạo nên cái hồn dân dã, một bức họa
thiên nhiên tươi vui của quê hương tác giả mỗi độ thu về.

Song, không gian cảnh vật khơng chỉ bó hẹp trong khoảng khơng của mặt
nước, của ao thu mà được mở rộng ra hai chiều với một tầm nhìn cao hơn, xa
hơn. Đó là cái nhìn tồn cảnh bao qt lên cả bầu trời với nhiều đường nét, màu

sắc thoáng đạt:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

“Xanh ngắt”– là sợi chỉ xuyên suốt kết nối chùm thơ thu ba bài của thi nhân,
cũng bởi vậy mà trở thành gam màu đặc trưng cho hồn thơ thu Nguyễn Khuyến.
“Xanh ngắt” là xanh trong tuyệt đối không chút pha trộn, khơng chút gợn tạp.
Nếu ban đầu điểm nhìn chỉ gói gọn giữa ao thu, thì bây giờ cảnh sắc mùa thu đã
cao xa hơn, mở ra nhiều hướng thật sinh động. Bức tranh thu có thêm chiều cao
của bầu trời “xanh ngắt” với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ.
Đó cũng là sắc thu trong chùm thơ “Thu” của ông:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”

-Thu vịnh-

“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt”.

-Thu ẩm-

Màu xanh của da trời, màu xanh của trúc bao trùm lên cả bức tranh thu.
Chiều sâu không gian được cụ thể hóa bằng độ “quanh co” của ngõ trúc. Con
đường vào làng chẳng thẳng tấp mà lại “quanh co”, “gập ghềnh”. Cảnh vật
thống chốc trở nên u tịch, cơ liêu, hiu hắt hơn với tính từ “vắng teo” tức là vắng
tanh, vắng ngắt khơng một bóng người. Từ bầu trời cao rộng điểm nhìn đã trở về
với thực tại, với cảnh vật u buồn, mọi thứ dần trở nên nhỏ bé, đượm buồn. Sự
tác động của ngoại cảnh làm cho con người khơng khỏi chạnh lịng mà cơ đơn.
Nguyễn Khuyến có lần đã từng tự thán về nỗi cô độc của đời mình:


“Đời loạn đưa về như hạc độc

Tuổi già hình bóng tựa mây côi”.

Đó cũng chính là thực tại tâm trạng của nhà thơ, cảnh vật như hòa theo tâm
trạng người thi sĩ, hình ảnh con người xuất hiện với bao niềm trăn trở khôn
nguôi:

“Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Hiện lên giữa khung cảnh mùa thu êm đềm là tư thế con người “tựa gối
buông cần”. Vậy liệu rằng nhà thơ có thật sự đi câu cá không? Đi câu cá nhưng
lại chỉ “bng cần”, “tựa gối” để đón nhận trời thu, cảnh thu vào lòng. Dường
như đó chỉ là cái cớ để thi nhân tìm thấy sự yên tĩnh trong tâm hồn. Dù đã cố
gắng buông bỏ, nhưng “chẳng lâu được” vì chất chứa trong tim của tác giả là nỗi
ưu tư trước thời thế. Từ đâu có hai cách hiểu: Phủ định, phiếm định hay nghi
vấn gợi nên sự mơ hồ của cảnh, tạo nên khơng khí ảo diệu của mùa thu và cho ta
thấy được thái độ tĩnh tại trong tâm hồn của thi nhân. Nghệ thuật lấy động tả
tĩnh: Nhà thơ đã xen vào bức tranh một tiếng động duy nhất là tiếng cá đóp mồi
dưới chân bèo để gợi lên sự yên ắng của cảnh vật, sự tĩnh lặng của tâm trạng.
Nhưng không gian lặng im đã mang đến cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khuất
trong tâm hồn thi sĩ . Khi xã hội rối ren, đời sống nhân dân khổ cực, trái tim tác
giả sao có thể n lịng mà thưởng thức cảnh vật, thảnh thơi giải trí mỗi ngày.

Có thể nói chỉ với vài dịng thơ, nhưng Nguyễn Khuyến đã vẽ nên một
bức tranh thu hài hòa với nhiều đường nét tinh tế, tươi sáng. Bên cạnh đó, kết
hợp với nghệ thuật lấy động tả tĩnh cùng việc gieo vần “eo” một cách khéo léo,

Nguyễn Du đã thật thanh công khi viết nên tác phẩm “Câu cá mùa thu” để lại
trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc khó phai.

Thơ là sự cách điệu tâm hồn, Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu,
yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình đồng quê nồng hậu. Ông chấp nhận bỏ lại
sau lưng lối sống mưu cầu danh lợi để trở về q “bng cần bó gối” ngồi câu
cá giữa thiên nhiên đất trời. Và lối sống thanh nhàn, ẩn dật ấy cũng là lối sống
mà nhiều bậc trí giả đương thời lựa chọn để giữ mình thanh cao giữa dịng đời
xơ bồ, đen tối.

ĐỀ: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM THƯƠNG VỢ(TRẦN TẾ XƯƠNG)

Bài làm

“Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử.”

(Shelly)

Quả thực vậy, văn chương từ lâu đã cắm rễ sâu vào lòng đời sống, trở thành
một phần tất yếu trong cuộc sống con người. Song, có những giá trị vững bền
của cuộc đời được lưu giữ lại nhờ những vần thơ, có những nhịp ngân của tâm
hồn được in dấu lại qua mỗi trang văn. Và tác phẩm “Thương Vợ” của Trần Tế
Xương là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương khi viết
về vợ mình

Giữa xã hội phong kiến suy đồi, Tú Xương nổi lên là bậc thầy của thơ trào
phúng. Song, ngoài những tác phẩm sâu cay, lấy tiếng cười đả kích bộ mặt xấu
xa của bọn thực dân, quan lại ơng cịn có một số bài thơ trữ tình chất chứa bao
nỗi niềm về tình người, tình đời sâu nặng. Song, “Thương vợ” là lời giải bày
tâm sự chứa chan tình thương của thi sĩ đối với người vợ hiền thảo.


Nếu như các nhà thơ khác thường viết về vợ khi đã họ đã qua đời thì Trần
Tế Xương lại có riêng cả một mảng đề tài gồm cả: thơ, văn tế,… về người vợ
yêu q ngay khi bà cịn sống. Bởi lẽ, bà Tú là một người đàn bà kiên cường,
cam chịu:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Hình ảnh bà Tú hiện lên với bao nỗi vất vả, nhọc nhằn. “Quanh năm buôn
bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, chông mặt đến rã rời mà không hề ngưng
nghỉ. Công việc mà bà Tú phải làm quanh năm ấy là “buôn bán”. Nhưng không
phải buôn bán ở một địa điểm bình thường mà lại là bn bán ở “mom sơng”.
Đó là phần đất nhơ ra phía bờ sơng, gợi nên một khơng gian rợn ngợp, chênh
vênh có phần hiểm nguy. Dù cơ cực là thế, nhưng bà Tú vẫn chấp nhận buôn
bán để nuôi con, nuôi chồng. Song, cụm từ “nuôi đủ” nghĩa là không thừa,
không thiếu. Người phụ nữ chân yếu tay mềm ấy đã gắng gượng tảo tần để chăm
sóc đủ năm con là đáng trân trọng lắm rồi. Thế nhưng bà Tú ở đây không chỉ
kiếm cái ăn cho “năm con” mà hơn thế nữa mà cịn phải ni cả một ơng
“chồng”. Và nhà thơ đã thật khéo léo khi sử dụng từ “với” để diễn tả sự nặng
nhọc của cơng việc như địn gánh mà thường ngày bà phải gánh với một bên là
“năm con”, một bên là “một chồng”. Nhưng dường như sức nặng của địn gánh
nghiêng về phía “một chồng”. Bởi lẽ, người chồng mà và Tú phải nuôi không
phải là một người phu quân bình thường mà lại là một con người “dở dở ương
ương”. Một người chồng “con nhà lính, tính nhà quan/ ăn rặt những thịt quay lạp
sườn/ mặc rặt những quần vân áo xuyến”. Ấy mới thấy bà Tú chẳng những đảm
đang, thao vát mà còn là người cam chịu, chu đáo với chồng con vì khơng
những bà phải ni con mà cịn phải cung phụng ơng chồng của mình.


“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đị đơng.”

Khung cảnh hiện lên giữa bao nỗi xót xa. Tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối của
bà Tú mà phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã là gian nan, tội nghiệp, vậy mà bà
còn phải lặn lội từ lúc rạng sáng, “khi quãng vắng”. Thủ pháp nghệ thuật đảo
ngữ từ “lặn lội” lên đầu câu cùng phép đối “khi quãng vắng”, “buổi đị đơng”
càng làm nổi bật hồn cảnh cơ cực, vất vả của người phụ nữ ấy. Đặc biệt hơn,
nhà thơ đã mượn hình tượng con cị từ trong ca dao “Con cò mà đi ăn đêm/con
cò lặn lội bờ sông” là ẩn dụ cho thân phận nhỏ bé nhưng luôn cam chịu của bà
Tú. Song “quãng vắng” là nói đến sự lẻ loi, hiu quạnh ở khoảng khơng nơi bà
làm việc, và đó cũng là những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm
trường. Từ láy “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp trong buổi đò đơng. Dầu gì bà
Tú cũng là vợ một người nổi tiếng hay chữ nhất vùng, chẳng những thế bà lại
xuất thân là con nhà danh giá trên phố-“con gái nhà dòng” nhưng lại phải kiếm
sống ở một nơi tạp nham như vậy. Từ ấy, ta càng thấm thía, trân trọng hơn đức
hi sinh cao đẹp của bà Tú.

Hai dòng thơ nhưng đã cụ thể hóa sự cực nhọc của bà Tú. Dù khó khăn,
khổ nhọc nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng. Ngày tháng, cơng việc cứ lặng im
trơi đi như chính cuộc đời bà:

“Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công.”

Dường như Tú Xương đã nhận thức rõ ràng hơn khổ hạnh của người vợ u
q. Song, ơng đã mượn triết lí dun, nợ cùa đạo Phật để nói đến mối lương
duyên giữa mình và bà Tú. Nhưng duyên chỉ có “một” mà nợ lại đến “hai”.

Nghệ thuật tăng tiến: một, hai, năm, mười, gợi lên những khó khăn chồng chất
ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ phải gánh vác tất cả.
Người phụ nữ ấy thật kiên cường nhưng sao thật đáng thương, tội nghiệp! Bởi
lẽ, phụ nữ nhờ chồng mà được hưởng niềm sung sướng, cịn với bà Tú chỉ là
thêm một món nợ đời. Cụm từ “âu đành phận” chính là sự cam chịu của bà Tú.
Dù vất vả, dù số phận có khổ đau nhưng bà vẫn không hề kêu than. Bên cạnh đó
thành ngữ “năm nắng mười mưa” càng bộc lộ rõ nét sự nhọc nhằn người phụ nữ
ấy phải đối diện. Dù là vậy nhưng người con gái ấy vẫn “dám quản công” không
hề ca thán. Nhịp thơ 4/3 kết hợp với phép tiểu đối nhà thơ đã làm rõ vẻ đẹp tâm
hồn của nhân vật bà Tú. Rõ ràng dù bà khơng phải thuộc dịng dõi trâm anh thế
phiệt, nhưng cũng là con nhà dịng dõi giàu có trên phố. Ấy mà lấy phải ông Tú,
cứ ngỡ đâu sẽ hạnh phúc nhưng đổi lại bà phải “lặn lội thân cị” để ni chồng,
ni con. Càng cảm động hơn, mệt nhọc là thế nhưng bà vẫn lặng lẽ, chịu đựng
để hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh làm vợ, làm một người mẹ mẫu mực.

Bao tâm sự thầm kín hịa theo dịng cảm xúc, người chồng tưởng chừng vơ
tâm nhưng nay lại tự trách vấn chính bản thân mình:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như khơng.”

Hai câu kết là một lời chửi. Ông Tú thay lời vợ để chửi chính bản thân mình.
Trong bài Gặp người ăn xin, nhà thơ cũng đã từng chửi – chửi mình mà thực ra
là chửi đời: Người đói, ta đây cũng chẳng no,/ Cha thằng nào có, tiếc không
cho. Chỉ khác ở chỗ là lần này, lời chửi tuy có ném thẳng vào đời, nhưng trước
hết là ném vào mình. Ơng chửi “Cha mẹ thói đời” ăn ở bạc bẽo đã cho bà Tú
một tấm chồng nhưng lại là một tấm chồng “hờ hững” vơ tích sự. Bản thân ơng
Tú cũng tự nhận thấy mình là kẻ ăn bám vợ nên tiếng chửi chính mình cũng là
cách ơng tri ân người vợ u q của mình. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua
chát. Thật là có chồng mà như khơng có, thậm chí cịn khổ hơn khơng chồng.

Đó cũng là vị đắng khi chịu phận Làm lẽ của Hồ Xuân Hương:

“Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm

Cầm bằng làm mướn mướn không công.

Thân này ví biết dường này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy xong.”

Bằng thể thơ thất ngôn Bát cú Đường Luật cùng việc vận dụng khéo léo
hàng loạt các hình ảnh thơ tượng trưng giàu sức biểu cảm, Trần Tế Xương đã
thật thành công khi viết nên tác phẩm “Thương vợ” mang đến trong người đọc
cảm nhận sâu sắc về hình tượng nhân vật bà Tú với bao phẩm chất tốt đẹp: tần
tảo, đảm đang, nhẫn nại quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con. Dù
rằng rất thương vợ, nhưng Tú Xương lại chẳng thể bước qua được những định
kiến hà khắc của xã hội để giúp vợ một cách thiết thực mà chỉ có thể qua từng
con chữ, từng dòng thơ.

Thân phận phù du nào lại chẳng muốn hóa bất từ, kể cả văn chương nghệ
thuật. Và “Thương vợ” đã làm nên điều kì diệu ấy. Chính tình yêu chứa chan,
đậm sâu với vợ đã trở thành nguồn thi hứng bất tận cho ngòi bút sáng tạo của
Trần Tế Xương. Một kiệt tác nghệ thuật giản đơn nhưng ngời sang những giá trị
vững bền được tạo dựng nên từ chính tinh yêu thiêng liêng và cao đẹp của con
người.


×