Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Đặc điểm thơ trần vạn giã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 103 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

HUỲNH THỊ THU CÚC

ĐẶC ĐIỂM THƠ TRẦN VẠN GIÃ

Ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số: 8220121

Người hướng dẫn: 1. TS Võ Minh Hải
2. TS. Trần Viết Thiện

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là cơng trình nghiên cứu của tơi, có sự hỗ trợ
từ giảng viên hướng dẫn là TS. Võ Minh Hải và TS. Trần Viết Thiện. Các nội
dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu nào trước đây.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm trước Hội đồng cũng như kết quả đề án tốt nghiệp thạc sĩ của mình.

Bình Định, ngày 05 tháng 12 năm 2023
Học viên

Huỳnh Thị Thu Cúc

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài đề án này trước hết tôi xin gửi đến giảng viên
hướng dẫn TS. Võ Minh Hải, giảng viên chính Trường Đại học Quy Nhơn và
TS. Trần Viết Thiện, giảng viên chính Trường Đại học Khánh Hồ, những
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành đề tài này lời cảm ơn


sâu sắc nhất.
Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn nhà thơ Trần Vạn Giã, người đã
nhiệt tình hướng dẫn tơi tìm hiểu các tài liệu quan trọng, cung cấp cho tôi
những tập thơ của ông, trả lời phỏng vấn và những góp ý chân thành trong
suốt q trình nghiên cứu. Tơi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu trường
Đại học Quy Nhơn, q thầy cơ giáo Phịng Đào tạo Sau đại học, quý thầy cô
giáo Khoa Khoa học xã hội và nhân văn, những người đã truyền thụ kiến thức
khoa học giúp tôi từng bước trưởng thành và trang bị những kiến thức vững
chắc về Văn học Việt Nam.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn chân thành những người thân, gia đình, bạn
bè, Ban Giám hiệu và quý thầy cô giáo Trường THPT Tô Văn Ơn, nơi tôi
công tác đã hỗ trợ, tạo điều kiện để tơi có thể đạt được kết quả học tập tốt và
thực hiện thành công đề án tốt nghiệp thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Bình Định, ngày 5 tháng 12 năm 2023
Học viên

Huỳnh Thị Thu Cúc

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 2
3. Hướng nghiên cứu và lý thuyết tiếp cận trong đề án ................................ 8
4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu đề án.................................................. 9

5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề án.................................................... 9
6. Phương pháp nghiên cứu đề án ............................................................... 10
7. Cấu trúc của đề án ................................................................................... 11
Chương 1. TRẦN VẠN GIÃ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO ................ 13
1.1. Trần Vạn Giã – Con người và sự nghiệp ............................................. 13

1.1.1. Tiểu sử nhà thơ.............................................................................. 13
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác ........................................................................ 14
1.2. Hành trình sáng tạo của Trần Vạn Giã................................................. 15
1.2.1. Giai đoạn trước 1975..................................................................... 15
1.2.2. Giai đoạn sau năm 1975................................................................ 17
1.3. Vị trí của Trần Vạn Giã trong tiến trình thơ hiện đại Khánh Hịa và
Nam Trung bộ ............................................................................................. 18
1.3.1. Nhà thơ tiêu biểu của “Xứ trầm hương” ....................................... 18
1.3.2. Nhà thơ hiện đại tiêu biểu của vùng văn học Nam Trung bộ ....... 20
Tiểu kết Chương 1....................................................................................... 22
Chương 2. THƠ TRẦN VẠN GIÃ NHÌN TỪ CÁI TƠI TRỮ TÌNH,
CẢM HỨNG SÁNG TẠO VÀ HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ .............................. 23
2.1. Cái tơi trữ tình trong thơ Trần Vạn Giã ............................................... 23
2.1.1. Cái tôi ưu tư, triết luận .................................................................. 23
2.1.2. Cái tôi cuồng nhiệt, hồ hởi............................................................ 30

2.2. Cảm hứng sáng tạo trong thơ Trần Vạn Giã ........................................ 34
2.2.1. Cảm hứng quê hương, xứ sở ......................................................... 34
2.2.2. Cảm hứng đời thường ................................................................... 36
2.2.3. Cảm hứng tôn giáo ........................................................................ 37

2.3. Hệ thống chủ đề trong thơ Trần Vạn Giã............................................. 38
2.3.1. Chủ đề phản chiến ....................................................................... 38
2.3.2. Chủ đề về quê hương xứ sở........................................................... 42

2.3.3. Chủ đề đề về tình u, hơn nhân, gia đình.................................... 46
2.3.4. Chủ đề về thời cuộc, thời sự......................................................... 51

Tiểu kết Chương 2....................................................................................... 54
Chương 3. THƠ TRẦN VẠN GIÃ NHÌN TỪ NGƠN NGỮ, GIỌNG
ĐIỆU VÀ KHÔNG – THỜI GIAN NGHỆ THUẬT ................................. 55

3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Trần Vạn Giã ..................................... 55
3.1.1. Những yếu tố truyền thống trong ngôn ngữ thơ ........................... 55
3.1.2. Những cách tân trong ngôn ngữ thơ ............................................. 60

3.2. Giọng điệu nghệ thuật trong thơ Trần Vạn Giã ................................... 62
3.2.1. Giọng điệu đối thoại...................................................................... 62
3.2.2. Giọng điệu tâm tình, tha thiết....................................................... 65

3.3. Không gian - thời gian nghệ thuật trong thơ Trần Vạn Giã................. 69
3.3.1. Không gian nghệ thuật .................................................................. 69
3.3.2. Thời gian nghệ thuật ..................................................................... 72

Tiểu kết Chương 3....................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 81
PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH GIAO TÊN ĐỀ TÀI (BẢN SAO)

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Khánh Hoà là xứ trầm hương

Non cao biển rộng, người thương đi về
Yến sào ngon ngọt tình quê

Sông sâu đá tạc lời thề nước non”.
Câu ca dao Khánh Hoà đã khái quát những đặc điểm địa lý tự nhiên,
những sản vật tiêu biểu đồng thời cũng nêu được những nét tính cách, đời
sống tâm hồn của người dân vùng đất Nam Trung Bộ này: giản dị, phóng
khống và cũng thật nghĩa tình, thuỷ chung son sắt. Trải qua hơn 350 năm
hình thành và phát triển, vùng đất Khánh Hồ đã thực sự trở thành một vùng
văn hoá tiêu biểu, độc đáo và là một bộ phận của văn hoá Việt Nam.
Văn hoá truyền thống của vùng đất Khánh Hồ được hình thành dựa
trên các điều kiện về địa lý tự nhiên, môi trường sống cùng với các hình thức
kinh tế với những ngành nghề truyền thống của địa phương. Những phong tục
tập quán, sinh hoạt văn hố, tơn giáo, tín ngưỡng, lễ hội,…tạo nên các di sản
văn hoá vật thể và phi vật thể của vùng đất nơi đây.
Trong kho tàng văn hoá truyền thống của xứ sở Trầm Hương, khơng thể
khơng nhắc đến sự đóng góp của văn học trong đó có thơ ca. Sau thành cơng
của cuộc Cách mạng tháng Tám, cũng như nhiều địa phương khác trong cả
nước, văn nghệ Khánh Hoà đã được tiếp thêm một sức sống mới, tạo những
chuyển biến mới trong đời sống tư tưởng của những người làm công tác văn
học ở địa phương.
Văn học, nghệ thuật Khánh Hoà giai đoạn 1945-1954 ghi dấu ấn với
những tên tuổi của Trọng Minh, Võ Văn Sung, Lý Văn Sáu, Giang Nam, Văn
Nam,…Văn học Khánh Hoà giai đoạn 1954 -1975 diễn ra rất phong phú và
sinh động của tờ báo Gió Mới, các nhóm Sao Việt, Nhân Sinh, Liên Kết…với

2


những tên tuổi tiêu biểu như Trần Vũ Mai, Triệu Phong, Trần Vạn Giã, Lê Ký
Thương,… Sau 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, văn học
Khánh Hoà tiếp tục phát triển. Cho đến nay, Hội Văn học – Nghệ thuật Khánh
Hoà với trên 100 hội viên hoạt động sơi nổi tích cực với hơn hàng chục tác
phẩm xuất bản mỗi năm với những tên tuổi như Đào Xuân Quý, Giang Nam,
Nguyên Hồ, Đỗ Anh Tịnh, Trần Vũ Mai, Võ Hồng, Thế Vũ, Trần Vạn Giã,
Nguyễn Hoàng Thu, Lê Ký Thương, Lê Văn Thiện, Nguyễn Âu Hồng,
Nguyễn Gia Nùng, Cao Duy Thảo, Nguyễn Khắc Phục, Đồng Xuân Lan…

Trần Vạn Giã là một nhà thơ sống và làm thơ ở cả hai thời kì trước và
sau năm 1975, một nhà thơ để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học địa phương
Khánh Hoà với một số lượng tập thơ ấn tượng (19 tập thơ tính đến thời điểm
hiện tại). Thơ Trần Vạn Giã giàu lòng trắc ẩn, yêu thương, đi qua nhiều biến
động dữ dội của thời đại với sự tự vận động và tiếp thu những quan niệm của
thời đại. Với sức viết dồi dào, Trần Vạn Giã đã tạo được một dấu ấn đậm nét
và một vị trí quan trọng trong văn học Khánh Hồ từ năm 1954 đến nay. Thơ
của Trần Vạn Giã đã được đưa vào Sách giáo khoa dạy và học Ngữ văn địa
phương cấp Trung học cơ sở của tỉnh Khánh Hoà.

Là một giáo viên Ngữ văn đang công tác trong ngành Giáo dục & Đào tạo
tỉnh Khánh Hồ, tơi lựa chọn đề tài Đặc điểm thơ Trần Vạn Giã với hi vọng tìm
hiểu những vấn đề liên quan đến quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật
thơ của Trần Vạn Giã để phục vụ công tác giới thiệu, giảng dạy văn học địa
phương cũng như góp phần xác định vị trí của Trần Vạn Giã trong tiến trình văn
học địa phương Khánh Hồ và văn học hiện đại Việt Nam.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn học Việt Nam dưới chế độ cũ ở miền Nam những năm 1955 - 1975
đã và đang được các nhà phê bình, lý luận đẩy mạnh trong việc tìm hiểu,
nghiên cứu trong nhà trường và thực tiễn nghiên cứu văn học. Chính vì vậy,

thơ Trần Vạn Giã cũng bước đầu được các nhà phê bình nghiên cứu tiếp cận.

3

Tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều cơng trình chun sâu về thơ Trần Vạn Giã.
Phần lớn các bài viết về thơ Trần Vạn Giã khai thác ở việc cảm nhận một số
phương diện như nghệ thuật, giọng điệu, ngôn từ... hoặc nhắc đến ông với
mối liên hệ với thơ của các tác giả văn học miền Nam dưới chế độ cũ thời kì
1955 – 1975.

“Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước” (1979) của nhóm tác giả
Phong Lê, Vũ Tuấn Anh, Tất Thắng, Vân Thanh, Thạch Phương nhắc đến
đội ngũ làm thơ đông đảo và sung sức những năm cuối 60 đầu 70 với ý thức
sử dụng sáng tác của mình đi sâu quần chúng để phục vụ cho cuộc đấu tranh.
Những cái tên được nhắc đến đó là Chánh Sử, Hữu Đạo, Đam San, Thiết Sử,
Võ Quê, Thái Ngọc San, Tần Hồi Dạ Vũ, Đơng Trình, Nguyễn Quốc Thái,
Nguyễn Kim Ngân, Tôn Thất Lập, Lê Ký Thương, Lê Gành, Trần Vạn Giã,
Tú Vẽ, Đôi Nạng Xứ Dừa, Lê Hồng Ngun, Ngơ Kha, Hồng Thoại Châu,
Phạm Thế Mỹ, Trần Đình Sơn, Cuốc Đỗ Nghê, Phan Viên Hồi, Chinh Văn,
Phong Sơn.... Những sáng tác của họ có sức lay động tâm hồn người đọc,
người nghe với chủ đề tố cáo tội ác kẻ thù, quê hương đất nước được thể hiện
bằng những hình tượng giàu sức rung động, gợi cảm. Đọc thơ của những nhà
thơ ấy, ta bắt gặp những nỗi quằn quại, ngột ngạt giữa một cuộc sống tù đọng.

Trong “Tiếng hát những người đi tới” (1993) (tuyển tập giới thiệu thơ –
văn – nhạc – hoạ – báo chí của phong trào sinh viên học sinh miền Nam
chống Mỹ 1960 – 1975), Trần Vạn Giã được đưa vào tuyển tập với hai bài thơ
“Chuyện vùng bất an” và “ Cũng chuyện vùng bất an”.

Trần Hữu Tá trong Nhìn lại một chặng đường văn học (2000) đã lưu tâm

đến nhà thơ Trần Vạn Giã với tư cách là một trong những thành viên của nhóm
Nhân sinh - nhóm tập hợp những các cây bút trẻ có tài. Tập san của nhóm đã thể
hiện tinh thần chống Mỹ và chính quyền Sài Gịn khá quyết liệt, vì thế họ bị
khủng bố ác liệt. Trần Vạn Giã cũng như các cây bút trong nhóm Nhân sinh đã
đóng góp tích cực cho báo chí u nước tiến bộ xuất bản ở Sài Gòn.

4

Tần Hồi Dạ Vũ và Nguyễn Đơng Nhật trong “Phác hoạ chân dung một
thế hệ” (2007) cũng đã nhắc đến Trần Vạn Giã được nhắc đến là một trong
những trí thức yêu nước tiến bộ có đóng góp lớn cho thơ ca yêu nước miền
Nam trước năm 1945, khiến cho thơ đấu tranh khởi sắc, được nâng cấp rõ rệt
cả về chất và lượng.

Trước năm 1975, thơ Trần Vạn Giã được in một số bài trên các tạp chí
Trình Bày, Đối Diện, Làm Dân, Tiếng Nói, Nhân Sinh... với các bài thơ như
Chuyện vùng bất an, Cũng chuyện vùng bất an, Bến chờ, Đếm xác hồi hương,
Lời tự tình của mẹ, Lịng vẫn thiết tha, Đang chờ....Sau năm 1975, thơ của
Trần Vạn Giã được đăng trên các tạp chí Thơ của Hội nhà văn Việt Nam; Tạp
chí Nha Trang của Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hồ; Tuyển tập thơ và văn
xi (Việt Nam và nước ngoài)

Trong bài viết “Văn học thời kì 1945 – 1975 ở thành phố Hồ Chí Minh”
(2008) của Vũ Hạnh và Nguyễn Ngọc Phan, nhà thơ Trần Vạn Giã đã được
nhắc đến với tinh thần đấu tranh, lòng yêu nước mãnh liệt, sống chết cho quê
hương này hưởng được độc lập, tự do, hoà bình.

Trên Tạp chí Nhà văn - Hội Nhà văn Việt Nam, số 2, với bài viết “Giai
điệu trầm quê hương” (2008), Lê Khánh Mai khẳng định:


Quê hương là chủ đề nổi bật và xuyên suốt trong thơ Trần Vạn Giã.
Dù viết về quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh hay trong những
khung cảnh n ả, thời bình, thơ ơng vẫn tràn đầy cảm xúc trữ tình yêu
thương gắn bó, ân nghĩa thuỷ chung và luôn day dứt bởi những kỷ niệm
[24, tr.179]
Trong bài viết “Hoa trên triền núi” ( 2009) viết trong phần đầu của tập
thơ “Đi trong rừng biểu ngữ”, Huỳnh Như Phương đã có những nhận xét về
giọng điệu, cũng như chỉ ra về sự vận động trong tư duy của nhà thơ. Về
giọng điệu, Huỳnh Như Phương khẳng định thơ Trần Vạn Giã những năm
thập niên 60 của thế kỉ XX “thiên về giọng tự sự, chất tạo hình rõ hơn chất

5

biểu cảm, đúng hơn là cảm xúc nén lại, ẩn giấu sau bức tranh xã hội” [26].
Giáo sư Huỳnh Như Phương trên tạp chí “Kiến thức ngày nay” số Tất

niên Canh Dần (2010) với bài viết “Thơ thức tỉnh và hy vọng” viết về sự thức
tỉnh của các thế hệ nhà thơ miền Nam đã khẳng định:

Thơ của tuổi trẻ dấn thân ở các đô thị miền Nam những năm chống
Mỹ là một hiện tượng đặc biệt của văn học sử”, “những năm 1960, ở
miền Nam, triết lý về cá nhân được phổ biến khá sâu rộng và có một chỗ
đứng khơng gì sánh được. [27, tr25]

Các nhà thơ miền Nam khi ấy thường ngợi ca sự cô đơn cũng là điều dễ
hiểu trong hồn cảnh chiến tranh và nhiễu nhương. Đó cũng là một sự tất yếu
khi con người không thể lý giải và chấp nhận sự áp bức, bất cơng thì ngay lập
tức họ chìm đắm trong cơn mê lịch sử. Nhà thơ Trần Vạn Giã đã có một thời
gian u sầu như thế. Trong thơ ca lúc này ta bắt gặp một nỗi buồn, một “tâm
thức bị lưu đày” [27, tr 27] của một người dân đất nước đang bị nơ lệ. Nhưng

cũng từ đó “thơ ca đi đến tâm thức nhập cuộc, đứng ở tuyến đầu của ý thức
cộng đồng” [27, tr 27]. Trong thơ ca lúc này của tuổi trẻ miền Nam toả vào
trang giấy những ước mơ hồ bình, những vần thơ nóng bỏng kêu gọi giữ
làng giữ nước, làm nhức nhối tim gan vì nó gợi cho người đọc một nỗi niềm,
một ý thức nào đó. Đó là tiếng vọng của hồn thiêng sơng núi mà thơ ca là một
kênh truyền dẫn không bao giờ đứt đoạn.

Những tác phẩm mà nhà thơ viết trên tạp chí Nhân sinh là sự đồng cảm
với những kiếp người nghèo khổ và bầm dập trong cơn lốc bạo tàn oan
nghiệt. Trần Vạn Giã từng tham gia phong trào phản chiến, địi hồ bình,
chống đơn quân bắt lính và nhiều lần bị bắt, bị cầm tù. Chính vì vậy, trong tù
hay những chặng đường đày ải, ơng làm thơ để nói lên những thống khổ của
mình cũng như của những con người bất hạnh. Trần Vạn Giã cảm nhận về
chiến tranh từ gốc rạ đồng q, có lúc thơ ơng mang một giọng phẫn uất, có
lúc lại là giọng trầm buồn thủ thỉ. Thơ Trần Vạn Giã trong hồn cảnh ấy cịn

6

là tiếng gọi hoà bình thất thanh trong màn đêm dày đặc của một người góp
thành tiếng gọi của nhiều người, của mn người. Cho nên thơ Trần Vạn Giã
những năm tháng ấy không chỉ là những bức kí hoạ về những cảnh đời bi
thảm trong chiến tranh, là bản hợp xướng đầy hy vọng với những hình ảnh về
ngày mai, gió mới, khát khao ngọn cờ độc lập. Trong Lược sử văn học Việt
Nam (2020) do Trần Đình Sử chủ biên, Trần Vạn Giã được nhắc đến ở mảng
thơ ca của phong trào văn nghệ học sinh, sinh viên với tinh thần phản chiến
và phản kháng trong văn học đô thị miền Nam 1954 -1975.

Ngồi ra cịn phải nhắc đến những bài viết nghiên cứu, phê bình, lý luận
về thơ Trần Vạn Giã như: “Rơm rạ trong thơ Trần Vạn Giã” (2018) của
Hoàng Nhật Tuyên; “Thơ Trần Vạn Giã” của Bùi Công Thuấn; Từ đồi Cô

Đơn tới rặng bần xanh thẳm” của Dương Trang Hương in trên báo Khánh
Hoà số 6058 ngày 15/4/2020; “Nguồn xuân dân dã trong thơ Trần Vạn Giã”
(2021) in trên tạp chí Nha Trang của Chế Diễm Trâm; “Thơ và đời còn những
mối lo” (Đọc tập thơ Những bài thơ thời tóc chưa bạc của Trần Vạn Giã,
NXB Hội Nhà văn, 2020) của Trần Ngọc Hồ Trường,...

Bên cạnh đó, thơ Trần Vạn Giã cịn là đối tượng nghiên cứu của các đề
tài khoa học, tiểu luận và luận văn tốt nghiệp của sinh viên, học viên cao học
của các trường đại học trong nước. Trong đề tài sinh viên nghiên cứu khoa
học cấp trường năm 2006 “Tinh thần dân tộc và ý thức cách tân của một số
nhà thơ trẻ Sài Gòn trước năm 1975” của các tác giả Nguyễn Thị Chi,
Nguyễn Văn Tuấn đã khẳng định: “Thơ Sài Gòn trước năm 1975 đã trở thành
một cao trào. Có mặt ở khắp các tờ báo cơng khai, bán cơng khai, hợp pháp,
có mặt ở các trường Trung học, Đại học. Nhiều nhà thơ đã để lại dấu ấn sâu
đậm trong lòng độc giả như: Trần Quang Long, Ngô Kha, Trần Vạn Giã,
Nguyễn Quốc Thái, Lê Văn Ngăn... Tất cả đã thổi lửa cho phong trào đấu
tranh tại các thành thị miền Nam...Về mặt nghệ thuật, thơ trẻ Sài Gịn trước
1975 đã có nhiều mặt cách tân về thể loại thơ, ngơn ngữ và hình ảnh cùng

7

giọng điệu thơ...Giọng điệu mang âm hưởng trữ tình tha thiết nhưng khơng
kém phần sơi sục khí thế đấu tranh...” [2, tr.47]

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam của Lê Thị Oanh:
“Thơ Trần Vạn Giã từ góc nhìn tư duy nghệ thuật” là cơng trình nghiên cứu
thơ Trần Vạn Giã với quy mô nhất từ trước đến năm 2017. Trong luận văn, Lê
Thị Oanh đã tập trung tìm hiểu về thơ Trần Vạn Giã như tìm hiểu một loại
hình tác giả của thơ ca hiện đại, để thấy được những bước chuyển và những
nỗ lực hoà nhập với thơ ca dân tộc. Luận văn đã tìm ra sự vận động của tư

duy thơ Trần Vạn Giã từ góc nhìn tư duy nghệ thuật, cũng như tìm hiểu về
những đóng góp của ơng đối với sự nghiệp đổi mới và cách tân thơ ca dân tộc
nói chung. Thơ Trần Vạn Giã trước năm 1975 thường trực với những nỗi đau
trên quê hương, phản ánh hiện thực và nói đến những nỗi đau của con người.
Sau năm 1975, thơ Trần Vạn Giã đồng hành cùng quê hương trên con đường
xây dựng hạnh phúc, mở rộng chủ đề và phạm vi phản ánh. Cả hai thời kì đã
có sự thống nhất và có tính nối tiếp liền mạch. Thơ Trần Vạn Giã đã xây dựng
một hệ thống biểu tượng phong phú và đa dạng như: gió, cát, khói, lửa, rơm
rạ. Tư duy thơ Trần Vạn Giã vận động theo hướng dân tộc hoá, vừa chọn con
đường riêng nhưng vẫn tiếp thu, lĩnh hội tinh hoa của các bậc đàn anh đi
trước. Ngôn ngữ thơ Trần Vạn Giã mộc mạc, chân tình dễ đi vào lịng người,
lại có lúc ngơn ngữ đi vào sự chiêm nghiệm, triết lý khiến cho thơ trở nên sâu
sắc và giá trị hơn. Thơ của ơng có sự phát triển độc lập nhưng vẫn hồ vào
mạch chảy của văn học dân tộc.

Trong luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam (2020) của Bùi
Thị Minh Loan: “Cảm hứng yêu nước trong thơ đô thị miền Nam Việt Nam
giai đoạn 1954 – 1975”, thơ Trần Vạn Giã là đối tượng nghiên cứu trong bối
cảnh đô thị miền Nam, so sánh với các tác giả khác như Võ Quê, Nguyễn Như
Mây, Nguyễn Đông Nhật, Triệu Từ Truyền, Cao Quảng Văn, Tần Hoài Dạ
Vũ. Bùi Thị Minh Loan khẳng định thơ Trần Vạn Giã trong bối cảnh đô thị
miền Nam trước 1975 đã cất lên tiếng nói tố cáo bạo quyền, những kẻ đã

8

dùng quyền hành để gây nên cảnh nồi da xáo thịt trên chính quê hương mình,
lên tiếng địi cơng bằng, ấm no một cách ráo riết nhất. Những nội dung yêu
nước ấy được thể hiện qua một hình thức phù hợp, chuyển tải một cách hiệu
quả nhất những thơng điệp mà dịng thơ muốn lan toả đến người đọc.


Đến thời điểm hiện tại, hệ thống bài viết, công trình nghiên cứu, tiếp cận
thơ Trần Vạn Giã khá lớn và đa dạng. Tuy nhiên phần lớn các tiểu luận mới
chỉ dừng lại ở việc khai thác các khía cạnh giọng điệu, ngôn ngữ hay đề cập
đến thơ Trần Vạn Giã trong mối liên hệ với thơ của các tác giả văn học miền
Nam giai đoạn 1945 – 1975. Đây là những thuận lợi những cũng là khó khăn
đối với chúng tơi khi triển khai tìm hiểu nội dung đề án. Với mong muốn góp
thêm tiếng nói minh định những đóng góp của nhà thơ đối với tiến trình văn
học Nam Trung bộ nói chung và Khánh Hịa nói riêng, chúng tơi sẽ tập trung
tìm hiểu vấn đề Đặc điểm thơ Trần Vạn Giã như là một phương cách để giải
mã thơ của Trần Vạn Giã trong bối cảnh văn học hiện đại hiện nay.

3. Hướng nghiên cứu và lý thuyết tiếp cận trong đề án

3.1. Hướng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài đề án này, chúng tôi chủ yếu triển khai theo định
hướng văn học sử và phong cách tác giả. Hướng tiếp cận này sẽ giúp cho
chúng tôi xác định những đặc trưng cơ bản trong thế giới nghệ thuật thơ Trần
Vạn Giã và xác định rõ vai trò, vị trí của ơng trong tiến trình văn học hiện đại
Khánh Hòa và Việt Nam từ trước và sau 1975 đến nay.

3.2. Lý thuyết tiếp cận
Trong quá trình thực hiện nội dung của đề án, chúng tôi sử dụng hệ
thống lý thuyết thi pháp học, phong cách học để đi sâu tìm hiểu những đặc
điểm cơ bản trong thế giới nghệ thuật thơ Trần Vạn Giã. Đây là những cơ sở
quan trọng và cần thiết để khái quát về đặc trưng phong các tác giả và những
đóng góp cụ thể của ơng đối với tiến trình phát triển thơ hiện đại Khánh Hịa
nói riêng và thơ Việt Nam nói chung.

9


4. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu đề án
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu Đặc điểm thơ Trần Vạn Giã, chúng tôi thực hiện nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu tiểu sử văn học nhà thơ Trần Vạn Giã.
- Tìm hiểu sự vận động của thơ Trần Vạn Giã trước và sau năm 1975.
- Đi sâu khảo sát, phân tích, xác định đặc điểm thơ Trần Vạn Giã trên
phương diện nội dung, cảm hứng.
- Đi sâu khảo sát, phân tích, xác định đặc điểm thơ Trần Vạn Giã trên
phương diện phương thức thể hiện.
- Nêu bật một số kết luận về những đóng góp của thế giới nghệ thuật thơ
Trần Vạn Giã.
4.2. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát, tìm hiểu thơ Trần Vạn Giã, đề án nhằm xác định những đặc
điểm nội dung và nghệ của thơ ông, khẳng định những đóng góp của ơng cho
thơ ca Khánh Hồ nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung.
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề án
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề án Đặc điểm thơ Trần Vạn Giã qua các
tập thơ đã được xuất bản từ 1963 đến 2022. Cụ thể như sau:
- Hồn chữ (Tập thơ là những sáng tác năm 1963, sau 1975 được in lại -
NXB Hội Nhà văn - 2017)
- Đi trong rừng biểu ngữ (Tập thơ là những sáng tác năm 1974, sau năm
1975 được in lại, Nxb Văn Nghệ - 2009)
- Tình yêu đẹp như bài thơ ( Tập thơ, Nxb Hội Nhà văn -1996)
- Gió đưa khói bếp lên trời (Tập thơ, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh
Khánh Hoà xuất bản, 2004)

10

- Trầm tư với lá (Tập thơ, Nxb Hội Nhà văn - 2006)

- Lục bát nhà quê (Tập thơ, Nxb Văn Nghệ - 2008)
- Mạch nguồn thơ vẫn chảy trong lòng xứ sở (Tập thơ, Nxb Hội Nhà
văn, 2013)
- Gió cuối ngày tháng Chạp (Tập thơ, Nxb Hội Nhà văn, 2016)
- Dịng sơng khơng chịu nỗi buồn (Tập thơ, Nxb Hội Nhà văn, 2016)
- Những bài thơ thời chưa tóc bạc (NXB Hội Nhà văn, 2020)
- Hàn Mặc Tử và bóng đêm ở Qui Hoà (Trường ca, Nxb Hội Nhà văn, 2021)
- Lời nguyện cầu bên bờ sơng Chị (Tập thơ, Nxb Hội Nhà văn, 2021)
- Sự tái tạo của đất nâu sau thời ôn dịch (Nxb Hội Nhà văn, 2022)
5.2. Phạm vi nghiên cứu của đề án
Phạm vi nghiên cứu trong nội dung đề án này là những vấn đề liên quan
đến đặc điểm về nội dung và phương thức thể hiện của thơ Trần Vạn Giã.
Thông qua sự so sánh những khác biệt trong sự vận động của phong cách thơ
Trần Vạn Giã trước sau 1975 và 2000, chúng tơi sẽ định hình những vấn đề
đổi mới và phát triển của tư duy thơ, quan điểm sáng tác, những vấn đề cảm
cảm hứng sáng tạo, ngôn ngữ, giọng điệu và không – thời gian nghệ thuật
trong thơ Trần Vạn Giã.
6. Phương pháp nghiên cứu đề án
Để tiến hành nghiên cứu đề án tốt nghiệp này, bên cạnh việc vận dụng
các kiến thức về lý luận văn học, văn học sử, chúng tôi đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Phương pháp phỏng vấn
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn nhà thơ Trần Vạn Giã để hiểu rõ hơn về
tiểu sử văn học, những quan niệm thơ và ảnh hưởng của tôn giáo trong thế
giới nghệ thuật thơ Trần Vạn Giã.

11

6.2. Phương pháp nghiên cứu văn học sử
Chúng tơi tiến hành tìm hiểu đặc điểm thơ Trần Vạn Giã trên hai giai

đoạn lịch sử trước và sau năm 1975, 2000 để thấy được sự vận động về mạch
tư tưởng, tình cảm của nhà thơ cũng như tìm hiểu sự đóng góp của thơ Trần
Vạn Giã đối với văn học Khánh Hồ nói riêng và văn học dân tộc nói chung.
6.3. Phương pháp phân tích văn học
Tiến hành phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật của một số bài thơ
tiêu biểu của nhà thơ Trần Vạn Giã.
6.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Chúng tôi tiến hành so sánh, đối chiếu thơ Trần Vạn Giã trước và sau
năm 1975, 2000 để thấy được sự vận động của thơ Trần Vạn Giã cũng như so
sánh với các nhà thơ cùng thời để thấy được nét độc đáo và vị trí của nhà thơ
trong văn học Việt Nam.
6.5. Phương pháp thống kê, tổng hợp và khái quát hóa
Trên cơ sở tiến hành thống kê các hình ảnh biểu tượng, những hình ảnh
thơ, hình tượng nghệ thuật được lặp đi lặp lại trong 13 tập thơ được lựa chọn
như trên, chúng tơi đã phân tích và khái qt đặc nội dung và nghệ thuật thơ
Trần Vạn Giã.
6.6. Phương pháp thi pháp học
Chúng tôi sử dụng hệ thống lý thuyết thi pháp học để đi sâu tìm hiểu
những đặc điểm cơ bản trong thế giới nghệ thuật thơ Trần Vạn Giã.
7. Cấu trúc của đề án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung triển
khai của đề án được thể hiện qua 3 chương như sau:
Chương 1. TRẦN VẠN GIÃ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO

Nội dung tìm hiểu của Chương này tập trung vào các vấn đề về cuộc

12

đời, sự nghiệp, những chặng đường thơ của Trần Vạn Giã và vị trí của nhà
thơ trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam.


Chương 2. THƠ TRẦN VẠN GIÃ NHÌN TỪ CÁI TƠI TRỮ TÌNH,
CẢM HỨNG SÁNG TẠO VÀ HỆ THỐNG CHỦ ĐỀ

Thông qua việc tìm hiểu sự phát triển của tư duy thơ, sự vận động của
cái tơi trữ trình trong thơ Trần Vạn Giã trước, sau 1975, 2000 và hệ thống
cảm hứng, đề tài cơ bản trong thế giới nghệ thuật của các thi phẩm mà Trần
Vạn Giã đã xuất bản từ trước đến nay, chúng tôi sẽ khái quát những đặc điểm
cơ bản về phương diện nội dung của thơ Trần Vạn Giã.

Chương 3. THƠ TRẦN VẠN GIÃ NHÌN TỪ NGƠN NGỮ, GIỌNG
ĐIỆU VÀ KHƠNG – THỜI GIAN NGHỆ THUẬT

Nội dung nghiên cứu của Chương này tập trung đi sâu những vấn đề về
ngôn ngữ, giọng điệu và không – thời gian nghệ thuật trong thơ Trần Vạn
Giã. Thông qua sự so sánh nội tại trong hành trình sáng tạo của Trần Vạn Giã,
chúng tôi sẽ nêu bật những đổi mới và cách tân về đặc điểm nghệ thuật trong
thế giới thơ của ông trong giai đoạn trước và sau 1975 và đặc biệt là chặng
đường sau năm 2000.

13

Chương 1. TRẦN VẠN GIÃ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO

1.1. Trần Vạn Giã – Con người và sự nghiệp
1.1.1. Tiểu sử nhà thơ
Trần Vạn Giã có tên khai sinh là Trần Ngọc Ẩn sinh ngày 2 tháng 2 năm
1945 tại Tu Bông, Vạn Giã, thuộc huyện Vạn Ninh tỉnh Khánh Hòa. Nguyên
quán tại Huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Quê cha ông ở Nghệ An, quê mẹ ở
miền đồi cát Vân Phong, Khánh Hịa. Sau này, ơng lấy bút danh Trần Vạn Giã

là nơi sinh ra của mình. Trần Vạn Giã sớm mất cha từ khi cịn trong bụng mẹ.
Cha ơng vốn một người xứ Nghệ. Cuối năm 1944, trên đường về xứ Nghệ,
lúc quay lại vì chiến tranh, cha ơng đã dừng lại bên đèo Cả và bặt vơ âm tín từ
đó. Ông sống suốt tuổi thơ bên người mẹ miền Trung chịu thương, chịu khó,
nơi triền cát Tu Bơng lẻ loi suốt tuổi xuân thì. Tuổi thơ Trần Vạn Giã chịu
nhiều vất vả vì thiếu ăn nhưng chưa bao giờ ơng sống trong buồn khổ vì điều
đó. Ơng biết ơn và u thương mẹ vơ cùng. Người mẹ miền gió cát Tu Bơng
ấy là hình tượng đẹp đẽ trong sáng tác thơ ca của ông:

Con bỏ quê lên phố
Mẹ ở lại với làng
Gom nỗi buồn trong gió

(Thưa mẹ con đi)
Ơng thường xun mơ, khóc và cười với mẹ trong tiềm thức của mình.
Ngồi mẹ, ông còn được sống trong vòng tay của bà nội những năm tháng
tuổi thơ. Ông từng tâm sự: “Khi bé thơ tôi hay ra rừng bần ngồi dưới gốc bần
xù xì, thơ ráp ngước lên vịm xanh với những tán lá lăn tăn, thấp thống chùm
quả mà ngỡ đó là bóng cha. Vì cây bần im lìm q đến những cơn gió thổi ào
ạt qua lá cũng khơng phát ra âm thanh. Đúng là hình dáng cha tơi” [Rặng
bần]. Hình ảnh của người cha chưa từng biết mặt cũng luôn lẩn quất trong tim
và ký ức của nhà thơ. Lớn lên Trần Vạn Giã làm đủ nghề phiêu dạt khắp nơi

14

để kiếm sống và đi học. Ơng làm cơng nhân bốc vác, bán báo dạo, dạy học,
viết báo, làm thơ… Cuộc đời lận đận vất vả đeo đuổi ông suốt hai phần ba
cuộc đời. Trần Vạn Giã bắt đầu làm thơ từ năm 18 tuổi. Những tác phẩm của
ơng được đăng trên các tạp chí Trình bày, Đối diện, Làm dân, Tiếng nói,
Nhân sinh… Năm 1971, ơng cùng bạn bè chủ biên tạp chí Nhân sinh, lên án

chính sách văn hóa của thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Ông bị bắt ở tù
và đi đày, đi lao cơng nhiều lần vì tham gia hoạt động u nước chống bắt
lính, đơn qn. Sau năm 1975, Trần Vạn Giã làm phóng viên báo Khánh Hịa
và đi kinh tế mới ở vùng Đất Sét, đây là vùng kinh tế mới thuộc huyện Diên
Khánh. Mười ba năm cuốc đất làm thơ. Sau đó, ơng trở về sống tại thành phố
Nha Trang, công tác ở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tỉnh Khánh Hòa
năm nhiệm kỳ. Trong thời gian này, ông vẫn tiếp tục làm thơ và đăng lên trên
các báo Văn nghệ Việt Nam, Tác phẩm Mới, Diễn đàn, Nhà văn, Phụ trang
thơ… Năm 1982 ơng là một trong những thành viên thuộc đồn trí thức văn
nghệ sĩ miền Nam đi Liên Xô học tập và công tác. Đến khi trở về, ông tiếp tục
công việc cũ cho đến nay.

Trần Vạn Giã như bao người sinh ra và lớn lên trong buổi loạn li của
đất nước, phải trải qua rất nhiều khó khăn, gian khổ để có được cuộc sống của
thời bình. Những chặng đường đã qua ơng đều ghi dấu sâu đậm trong thơ,
trang thơ của một con người sống và cống hiến hết mình trên trang viết.

1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Sự nghiệp sáng tác của Trần Vạn Giã gắn liền với hai giai đoạn trước và
sau 1975. Trước năm 1975, tập thơ đầu tiên được sáng tác là Hồn chữ viết
năm 1963, nhưng sau năm 1975 mới được in thành tập. Nhà thơ ghi nhiều dấu
ấn ở hai tập Miên ca hịa bình sáng tác và được in thành tập năm 1971, Đi
trong rừng biểu ngữ sáng tác năm 1974 và được in thành tập sau năm 1975.
Sau năm 1975, ông vẫn hăng say sáng tác. Chủ đề được nhắc đến trong thơ
ông phong phú hơn. Những tập thơ tiêu biểu như Tình yêu đẹp như bài thơ,

15

Gió đưa khói bếp lên trời, Những bài thơ thời chưa bạc tóc, Lục bát quê
nhà… Thơ Trần Vạn Giã được đăng trên các báo và tạp chí như Văn nghệ,

Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, Văn nghệ Trẻ, Báo Thanh Niên, Báo Tuổi Trẻ,
Khánh Hòa…. Trần Vạn Giã cũng được ghi nhận ở những giải thưởng trong
các cuộc thi của hội văn nghệ, giải thưởng văn học của tỉnh và được kết nạp
vào Hội nhà văn Việt Nam. Những tập thơ đã được xuất bản như: Hồn chữ,
Đi trong rừng biểu ngữ , Tình yêu đẹp như bài thơ, Gió đưa khói bếp lên trời ,
Trầm tư với lá, Lục bát nhà quê, Mạch nguồn thơ vẫn chảy trong lịng xứ sở,
Gió cuối ngày tháng Chạp, Dịng sơng khơng chịu nỗi buồn, Những bài thơ
thời chưa tóc bạc, Hàn Mặc Tử và bóng đêm ở Qui Hồ, Lời nguyện cầu bên
bờ sơng Chị, Sự tái tạo của đất nâu sau thời ôn dịch.

13 tập thơ là kết quả của quá trình sáng tạo miệt mài và đặt tình yêu thiết
tha vào con chữ. Ông là một trong số những nhà thơ đương đại hăng hái viết
và liên tục cho ra đời những đứa con tinh thần trong sự đón nhận, chờ đợi của
bạn đọc khắp nơi. Dù “cơm áo không đùa với khách thơ” nhưng Trần Vạn
Giã vẫn chưa bao giờ nguôi quên sứ mệnh của người cầm bút.

1.2. Hành trình sáng tạo của Trần Vạn Giã

1.2.1. Giai đoạn trước 1975
Trần Vạn Giã là nhà thơ đại diện của lớp nhà thơ sinh trưởng trong thời
kỳ đất nước bị chia cắt bởi khói lửa chiến tranh. Thời kỳ khắp nơi ở miền
Nam dấy lên phong trào đấu tranh vũ trang đòi Mỹ thi hành Hiệp định
Genève đòi quyền dân sinh dân chủ, Trần Vạn Giã theo con đường chung của
cả dân tộc sáng tác những vần thơ làm thức tỉnh dân tộc, thức tỉnh tuổi trẻ.
Với giác quan nhạy bén, ông sớm nhận diện kẻ thù và xác định vai trò của bản
thân trong cuộc chiến đấu. Trong chặng đường đầu tiên nhà thơ đã kịp thời
phản ánh khơng khí sục sôi của cuộc đấu tranh anh dũng của cuộc đấu tranh
anh dũng của cả nước qua các sáng tác hừng hực khí huyết của tuổi trẻ cứu
nước. Các tác phẩm như Bến chờ, Đếm xác hồi hương, Lời tự tình của mẹ,



×