Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đặc điểm thơ Haiku văn hóa Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.32 KB, 30 trang )

MỞ BÀI
Quần đảo Phù Tang nằm duỗi mình như một mỹ nhân, gối đầu lên sóng
nước cận Bắc Cực và thả chân vào vùng biển nhiệt đới Thái Bình Dương. Chính vì
vị trí địa lý đặc biệt như vậy mà đất nước này có một thiên nhiên tuyệt đẹp, dịu
dàng tinh tế nhưng cũng rất hung bạo: động đất, núi lửa, sóng thần… thường xuất
hiện như những biểu tượng kinh hoàng của nguyên lý hủy diệt. Có lẽ vì vậy mà
người Nhật thường cảm nhận cái đẹp trong từng khoảnh khắc chứ không hướng về
cái đẹp của sự trường tồn, vĩnh cửu.
Người Nhật tôn kính hoa anh đào (sakura) vì hoa rơi khi đang độ tươi thắm,
đó là biết "chết" một cách cao đẹp, tựa như tinh thần võ sĩ đạo (samurai). Nhật Bản
là một cửa hàng thời tiết, trưng bày những biến đổi tinh tế của bốn mùa. Mỗi lần
đổi mùa, thiên nhiên như mời mọc ta bước vào một nhịp điệu mới, với một vẻ
quyến rũ và gợi cảm vô song. Nền văn học Nhật Bản là một nền văn học lâu đời và
đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Từng được nhận hai giải Noben văn học đó là
Y.Kawabata năm 1969 và K.Oe năm 1994. Và cũng là quốc gia vinh dự có tiểu
thuyết sớm nhất trên thế giới (Truyện Genji thế kỉ XI), song nhìn vào lịch sử văn
học Nhật Bản, thơ vẫn chiếm vị trí áp đảo về cả số lượng và chất lượng nghệ thuật.
Có thể nói, văn học Nhật Bản từ cổ đại đến thời Minh Trị, thơ chiếm vị trí chủ đạo.
Người dân xứ sở hoa anh đào thường tự hào đất nước mình là một “thi
quốc”. Trong các thể thơ truyền thống Nhật Bản, Tanka và Haiku tiêu biểu hơn cả.
Cả hai thể thơ này đều ngắn, cô đọng và gắn với mỹ học Nhật Bản: yêu cái nhỏ bé,
kiệm lời, những khoảng trống vô ngôn… Trong đó, Haiku là kết tinh của tư duy
nghệ thuật và vẻ đẹp văn hóa đất nước Phù Tang. Haiku được xem là thể thơ có
dung lượng nhỏ nhất trong nền thơ ca thế giới. Nội dung, thi pháp thơ haiku vô
cùng thâm diệu, phong phú, thấm đượm hương vị của Phật giáo Thiền tông nói
riêng và tinh thần của văn hoá phương Đông nói chung.

NỘI DUNG
PHẦN 1. THƠ HAIKU VÀ NHÀ THƠ M.BASHO
1.Vài nét về thơ Haiku
1.1 Nguồn gốc hình thành thơ Haiku




Haiku là thể thơ phái sinh từ Tanka. Tanka là thể thơ tiêu biểu nhất của waka - tên
gọi chung của thơ viết bằng tiếng Nhật để phân biệt với Hán thi, nên về sau, người
ta dùng từ Tanka đồng nhất với waka. Bài thơ theo thể Tanka có 31 âm tiết, chia
thành 5 dòng theo nhịp phách 5-7-5-7-7. Từ thế kỷ XIV - XV, khi Tanka bắt đầu
có dấu hiệu đi xuống, trên thi đàn Nhật Bản xuất hiện thể Renga (liên ca). Renga
cũng có nhịp phách 5-7-5-7-7 như Tanka nhưng tách thành hai phần 5-7-5 và 7-7
rõ rệt, số lượng câu không hạn chế. Thực chất, Renga là trò chơi nối thơ của các
nhà thơ Tanka. Trong bài renga liên hoàn, khổ đầu được gọi là hokku (phát cú) và
quy chiếu theo mùa trong năm. Sang thế kỉ XVI, công chúng yêu thơ Nhật Bản rất
thích trò chơi nối thơ nên renga trở nên phổ biến và bình dân hơn, thậm chí có
nhiều bài renga được làm với mục đích hài hước, châm chọc gọi là haikai. Phần
đầu hokku của bài renga là tiền thân của thơ haiku. Như vậy, haiku có nguồn gốc
từ tanka, renga. Lúc đầu có tên là haikai (đến thế kỉ XIX mới có tên gọi haiku).
Mặc dù khó có thể xác định được thời điểm ra đời chính xác, song haiku được rất
thịnh hành vào thế kỉ XVII và phát triển mạnh trong thời Edo (1603 - 1867). Vào
thời kì này, haiku đã dần mất đi sắc thái hóm hỉnh, trào lộng nguyên thủy và thay
vào đó là âm hưởng bàng bạc, sâu thẳm của Thiền tông. Haiku phiên âm theo lối
chữ Kanji (Hán tự) là bài cú, có nghĩa là câu nói để trình bày.
1.2 Đặc điểm thơ Haiku
1.2.1 Về hình thức
Haiku là thể thơ ngắn nhất thế giới, mỗi bài thường chỉ có 17 âm tiết (có thể ngắn
hoặc dài hơn một vài âm tiết). Trong nguyên bản tiếng Nhật, 17 âm tiết này thường
được viết thành một dòng nhưng khi phiên âm la-tinh lại ngắt thành 3 dòng 5-7-5.
Haiku cổ điển có niêm luật chặt chẽ. Một bài thơ haiku phải thể hiện được cảm
thức về thời gian qua quý ngữ (kigo). Quý ngữ có thể là từ miêu tả các mùa xuân,
hạ, thu, đông hoặc là các hình ảnh, hoạt động mang đặc trưng của mùa. Việc dùng
quý ngữ chỉ mùa thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người Nhật với thiên nhiên. Người
Phù Tang rất nhạy cảm với bốn mùa, có cảm quan tinh tế về thời tiết, nhất là sự

thay đổi của thiên nhiên. Tuy vậy, thiên nhiên trong thơ haiku thường là những
cảnh vật bình dị, nhỏ bé, tầm thường và dễ bị lãng quên như chú ếch, con quạ, chú
khỉ nhỏ bé, chim đỗ quyên, tiếng ve, đóa hoa dại nở bên bờ suối, hòn đá…Hai đề
tài nổi bật của haiku là thiên nhiên và cuộc sống đời thường.


1.2.2 Về phương thức biểu hiện
Do một bài thơ chỉ gồm 17 âm tiết nên các thi sĩ haiku thường bắt đầu từ những
điểm nhìn đơn lẻ, chớp lấy một khoảnh khắc có thần của thực tại, đẩy lên đỉnh
điểm của cảm xúc và sáng tạo theo nguyên lý mùa và tính tương quan hình ảnh.
Trong một bài thơ haiku thường có một hình ảnh lớn (vũ trụ) tương xứng với một
hình ảnh nhỏ (đời thường). Haiku không mô tả cảm xúc mà chủ yếu ghi lại sự việc
xảy ra trước mắt. Nhà thơ ít dùng tính từ và trạng từ làm hạn chế sự tưởng tượng
của người đọc, vì thế, haiku rất giàu sức gợi. Ở thơ haiku, ta bắt gặp bút pháp của
tranh thủy mặc, thiên về thần thái hơn là đường nét. Kết cấu bỏ lửng của thơ haiku
chính là cái hư không bảng lảng khó nắm bắt của tinh thần Thiền tông. Gọi là hư
không bởi trong khoảng không gian đó ta không nhận thấy bất cứ hình thể hay sắc
tướng nào. Tuy nhiên có đáng tin cậy không cái thấy trong phạm vi tri giác của con
người? Bởi vì khoảng không gian ấy không phải là chân không trống rỗng tuyệt
đối như của tờ giấy trắng hay phông nền trắng tinh. Mà đó là vùng không gian của
những hoạt động giao cảm và chiêm nghiệm, bao hàm vô số tiềm năng và sắc thái
nằm ngoài các khuôn mẫu nhận thức đời thường của chúng ta. Nó tương đồng với
khái niệm “hư không” của Phật giáo Thiền tông. Hư không là cảnh giới tịch lặng
trong tâm hành giả lúc nhập định (chứng ngộ Phật tính), không phải là rỗng rang
vô tri vô giác. Đó là trạng thái của cái tâm trở về với bản tính ban sơ trong suốt,
chưa khởi ý tham lam, sân hận, si mê. Nó có thể được ví như tấm gương trong sáng
vô ngần, như cái tâm con trẻ chưa phủ chút bụi bặm, tiềm tàng khả năng phản
chiếu, thu nhận vạn vật.
1.2.3 Cảm thức thẩm mỹ của thơ haiku.
Từ một thể thơ được làm với mục đích hài hước, bông lơn, đùa vui, về sau, do ảnh

hưởng của tư tưởng Thiền tông, thơ haiku thể hiện những cảm thức thẩm mỹ khác
nhau. Những cảm thức thẩm mỹ này thể hiện cái nhìn của các thi sĩ haiku về thiên
nhiên và con người mang đậm màu sắc Thiền tông. Thơ haiku đề cao những cảm
thức thẩm mỹ tinh tế như cái Vắng lặng (sabi), Đơn sơ (wabi), Buồn thương
(aware), Nhẹ nhàng (karumi), U huyền (yùgen), …
Sabi (tịch) : Là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật, tự chúng bộc lộ
những điều kỳ diệu, như trong một không gian vắng lặng, tiếng ve như thấm sâu
vào đá: Vắng lặng u trầm/thấm sâu vào đá/tiếng ve ngâm (Basho). Nếu cảm thức


sabi là tâm điểm gắn với tư tưởng Thiền tông thì wabi (đà) lại gần gũi với các sự
vật bình thường hơn. Đó là những cảm nhận lắng đọng về những thứ nhỏ nhoi,
mong manh như con ốc nhỏ, một chiếc lá rơi, một giọt sương mai…Cảm thức
aware (bi ai) là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp buồn thương của sự vật.
Tuy nhiên, đó không phải là cái bi lụy, bi tráng mà aware là một niềm bi cảm thâm
trầm: đẹp và buồn như trong bài thơ: Trên cành khô/ quạ đậu/ chiều thu (Basho).
Karumi (khinh): Bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát.
Karumi thể hiện phong thái ung dung, tự tại của thi sĩ. Thi sĩ haiku thường cảm
nhận và biểu đạt được vẻ đẹp của con người và sự vật bé nhỏ tưởng chừng như bị
quên lãng. Phát hiện từ trong những vật bình thường, cái đẹp bình dị, đơn sơ là một
cảm thức mang tính karumi. Karumi thường mang đến cho người đọc những phút
giây bình yên khi trước những cảm nhận về đời thường: Từ phương trời xa/ cánh
hoa đào lả tả/ gợn sóng hồ Bi-wa.(Basho).
Từ cảm thức về sự cô tịch (sabi), nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thân thuộc (wabi) và
thể hiện sự nhẹ nhàng thanh thoát, ung dung, tự tại (karumi) đến vẻ đẹp buồn
(aware), haiku đã thể hiện những sắc thẩm mỹ mang dấu ấn Thiền tông và văn hóa
Phù Tang.
1.3 Cách dùng kigo (quý ngữ) trong thơ haiku
1.3.1 Kigo và những quy ước trong cách dùng
Kigo là quý ngữ, là từ chỉ mùa trong thơ haiku Nhật Bản. Nói cách khác, tất

cả những từ ngữ liên hệ đến mùa đều được gọi là kigo. Thời gian được miêu tả
trong thơ haiku chủ yếu là thời gian hiện tại, thời gian sinh hoạt. Đó là thời gian
của vũ trụ tự nhiên: nước chảy, mây trôi, hoa nở, chim hót, ngọn đồi phủ sương...
Đó là thời gian xảy ra sự kiện hoặc thời gian hoạt động của sự vật và con người
trong thời điểm hiện tại. Và thời gian hiện tại đó luôn gắn với bốn mùa: xuân, hạ,
thu, đông của xứ sở mặt trời mọc. Haiku là thể thơ không đòi hỏi chặt chẽ về vần,
niêm luật, bằng trắc hay đối nhau, nhưng nó có những quy định riêng về kigo: Một
bài haiku phải có kigo (phải có từ chỉ mùa).
Yếu tố "mùa" là yếu tố khá quan trọng trong thơ haiku. Các nhà thơ haiku
hầu như lúc nào cũng đưa mùa vào thơ. Bốn mùa qua đi đều để lại cho haiku một


dấu chân nào đấy, có khi là bóng hoa anh đào, có khi là những cơn mưa hay chiếc
lá phong chuyển sang sắc đỏ...
Khí hậu của Nhật Bản khá phức tạp. Nhiệt độ trung bình hàng năm của Nhật
Bản khoảng 14,6 độ c, tuy nhiên, khí hậu ở các vùng khác nhau khá rõ do hình
dáng thon dài của nước Nhật. Ngay ngày nở của hoa anh đào ở các vùng khác nhau
của Nhật Bản cũng khác nhau. Hoa anh đào là quốc hoa, là biểu tượng của nước
Nhật, nở vào mùa xuân, có màu trắng và màu phớt hồng, rất đẹp. Khi nở rộ, hoa
anh đào giống như áng mây trắng hoặc hồng, bồng bềnh trong sương khói, rất lãng
mạn, chỉ cần một cơn gió thổi qua là những cánh hoa thi nhau rụng xuống, phủ kín
mặt đất tạo nên một thảm hoa tuyệt đẹp. Hoa anh đào rơi ngay khi còn tươi rói,
một cái đẹp mong manh, gợi cảm. Người Nhật thường chờ đón ngày hoa anh đào
nở với một niềm háo hức lạ lùng và vô tuyến truyền hình thường đưa tin ngày bông
hoa anh đào đầu tiên nở ở các vùng trên đất nước. Mặc dù vậy, khí hậu của Nhật
vẫn có bốn mùa rõ rệt: xuân. hạ, thu, đông. Mùa đông ở Nhật khá lạnh và trên thực
tế thì cái lạnh bắt đầu ngay từ cuối mùa thu. Ở Tokyo, mùa đông thỉnh thoảng tuyết
có rơi nhưng không nhiều. Mùa hè ở Nhật khá nóng và ẩm, mưa nhiều. Mùa xuân
và mùa thu là hai mùa đẹp nhất trong năm. Nhật Bản cũng có rất nhiều lễ hội gắn
với các mùa trong năm: lễ hội mừng năm mới, lễ tiết phân, lễ tảo mộ, lễ hội vu lan,

lễ hội mùa hạ, lễ hội nông nghiệp, lễ hội Tanahata...
Các nhà thơ haiku luôn có ý thức đưa mùa vào thơ. Trong thơ haiku, yếu tố
mùa rất quan trọng tuy với thời gian nó bớt đi sự quan trọng quyết định của buổi
đầu. Bài haiku thường có một chữ liên quan đến mùa ở ngay câu đầu hoặc một câu
nào đó trong bài. Nó có thể suy diễn từ khí hậu nóng, lạnh, ngày dài hay ngắn, thời
tiết, địa lý đến tên chùa chiền, quần áo, lễ hội, các loại cây cối, chim chóc, hoa cỏ...
Cách dùng kigo có những quy ước nhất định, những quy ước này giúp nhà
thơ tiết kiệm được chữ dùng trong việc thông tin trong thơ mà vẫn chuyển tải được
đúng ý đồ của người nghệ sĩ sáng tạo tới bạn đọc. Khi nói "trăng" (tsuki) thông
thường thì phải hiểu là trăng tròn mùa thu, nếu không, phải nói cụ thể, chính xác
hơn nữa như oborozuki (trăng mờ mùa xuân) hay kangetsu (trăng lạnh mùa đông).
Nói "hoa" (hana) phải hiểu là hoa anh đào, chỉ mùa xuân; nói “gặt lúa mạch” để chỉ
mùa đông... Ví dụ:


Một đám mây hoa
Chuông đền Ueno vang vọng
Hay đền Asakusa.
Khi đọc bài thơ này của Basho, người Nhật hiểu ngay ông đang nhắc đến
tiếng chuông mùa xuân, vì “một đám mây hoa” (Hana no kumo) chỉ hoa anh đào
đang nở rộ, đó là biểu tượng của mùa xuân, là “từ chỉ mùa” – một quy ước của
người Nhật trong sáng tạo thơ haiku.
Những từ chỉ mùa rất thông dụng trong thơ haiku. Trong thơ ca Nhật Bản
nói chung, kể cả tanka hay haiku, thiên nhiên đóng một vai trò rất quan trọng, như
một kỹ thuật, như một quy ước trong sáng tác, trong nghệ thuật giữa tác phẩm với
bạn đọc. Nắm được quy ước này người đọc mới có thể hiểu được bài thơ. Lòng yêu
thích thiên nhiên và sự nhạy cảm của người Nhật đối với thời tiết là một điều dễ
nhận thấy trong tâm hồn người Nhật. Những quy ước về mùa có làm phong phú
nội dung thơ ca nhưng một mặt nó cũng tạo ra những câu thúc và khuôn sáo.
Những từ chỉ mùa rất phong phú trong thơ haiku. Sau đây là một số loài

động vật và thực vật thông dụng trong thơ haiku, vì haiku còn nói đến nhiều giống
chỉ sống ở vùng ôn đới và đôi khi chỉ sống ở Nhật Bản:
Mùa xuân (tháng giêng đến tháng ba âm lịch):
Thực vật: Mơ (ume), lan tím (sumire), anh đào (Sakura), hải đường (tsubaki), lê
(nashi), tử đằng (fuji), đào (momo), liễu (yanagi), hồng vàng (yamabuki), ngải cứu
(yomogi), cây đuôi chồn (waraki).
Động vật: Chim oanh (uguisu), cú (tsubakurame), sơn ca (hibari), ong (hachi), ếch
(kawazu), tằm (kaiko), bướm (cho), sẻ con (susume no ko).
Vụ mùa: Ngày dài (hinaga), đêm 88 (hachijuhachiya) để chỉ mùa hái trà, tiết xuân
(haruoshimu), vãn xuân (yukuharu).
Thiên văn - Địa lý: trăng mờ sương (oborozuki), tuyết tan (yukidoke), sương lam
(kasumi).
Sinh hoạt - hội hè: Bánh nếp bọc lá (kusamochi), diều (tako), vỡ ruộng
(hatakeuchi), ngắt lá chè (chatsumi)...


Mùa hè (tháng tư đến tháng sáu âm lịch):
Thực vật: Hoa xương bồ (ayame), hoa diên vĩ (kakitssubata), hoa sơn chi
(kuchinasshi), sen (hachisu), kim tước chi (hahakigi), mẫu đơn (botan), hoa lưu ly
thảo (wasurenagusa).
Động vật: Chim bói cá (u), gà nước (kuina), cò (sagi), cuốc (hototogisu), đom đóm
(hotaru), kiến (ari), muỗi (ka), cá hương (ayu), ve (semu), cá vàng (kingyo).
Vụ mùa: Đêm vắn (mijikayo), đầu mùa mưa hè (nyuubai), cái nóng (atsusa), kề thu
(akichikashi).
Thiên văn - Địa lý: Sấm (kaminari), mống trời (niji), mưa rào (yuudachi).
Sinh hoạt - hội hè: Gặt lúa mạch (mugikari), áo mát (yukata), mùng (kaya), cấy lúa
(taue)...
Mùa thu (tháng bảy đến tháng chín âm lịch):
Thực vật: Lau sậy (ashi), cúc (kiku), chuối (basho), lau già (ogi), quả hồng (kaki).
Động vật: Chuồn chuồn (kagero), dế mèn (kirigirisu), dế tùng (matsumushi), chim

cút (uzura), ngỗng trời (kari), chim "cát" (sandpiper, shigi), hải âu (miyakodori), gà
gô (yamadori).
Vụ mùa: Đêm lạnh (yosamu), hơi nóng còn sót (zansho), trung thu (chuushuu).
Thiên văn - Địa lý: Sông ngân (Amanokawa), chớp nháng (inazuma), trăng (tsuki),
sương thu (kiri), tiếng thu (aki no koe).
Sinh hoạt - Hội hè: Thất tịch (tanabata), chày (kinuta), ngắm trăng (tsukimi), tảo
mộ (hakamairi), được mùa (honen)...
Mùa đông (tháng mười đến tháng chạp âm lịch):
Thực vật: Tầm gửi (yodoriki), lá rụng (ochiba), hành (negi), thủy tiên (suisen), sơn
trà (sazanka), củ cải trắng (daikon).
Động vật: Vịt trời (kamo), chim óc cau (chidori), hạc (tsuru), thỏ (usagi), sò (kaki),
một loại chim cú (mimizuku).
Vụ mùa: Lập đông (ritto), cuối năm (toshi no kure), trừ tịch (oomisoka).


Thiên văn - Địa lý: Đồng khô lá (kareno), sương giá (shimo), lửa ma trơi
(kitsunebi), tuyết đầu mùa (hatsuyuki).
Sinh hoạt - Hội hè: Tất (tabi), ho (seki), nệm (futon), đốt than (sumiyaki), quét bồ
hóng (susuhaki)...
1.3.2 Các nhà thơ Haiku có khi dùng Kigo qua các hình ảnh chỉ mùa, cũng có khi
dùng Kigo trực tiếp - nói rõ là mùa nào.
Mùa trong thơ Haiku có khi thể hiện qua các hình ảnh chỉ mùa:
Fuku tabi ni
cho no inaoru
yanagi bana.
(Trên cành liễu nghiêng/con bướm đổi chỗ/mỗi lần gió lên). (M. Basho)
Basho đã dùng Kigo: cho (bướm), yanagi (liễu) để chỉ mùa xuân. Dùng kigo như
vậy giúp người đọc có thể thấy được không gian mùa xuân tươi đẹp, lãng mạn với
hình ảnh rực rỡ sắc màu của bướm bên cành liễu đang đâm chồi nảy lộc xanh mướt
trong làn gió nhẹ và tiết xuân mát dịu… đúng như ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ

mà ông vẫn tiết kiệm được từ ngữ, không cần phải miêu tả cụ thể.
Bài thơ sau dùng Kigo chỉ mùa đông qua hình ảnh tuyết (yuki):
Futari mishi
yuki wa kotoshi mo
furikeru ka.
(Đã rơi năm nào/ tuyết mà ta ngắm/ bây giờ lại rơi). (M. Basho)
Nhiều bài thơ nói đến tháng, qua đó ta thấy mùa:
Mưa tháng năm rơi
Và những con ếch
Bơi đến cửa nhà tôi.

(Sanpu)


Trong bài thơ này Sanpu miêu tả cơn mưa mùa hè.
Ở những ví dụ trên, tác giả đã dùng kigo qua các hình ảnh chỉ mùa, còn nhiều bài
thơ khác tác giả dùng Kigo trực tiếp - nói rõ là mùa nào.
Ví dụ:
Mùa xuân đến rồi
vô danh ngọn đồi ấy
sáng nay khoác áo sương mù.

(M. Basho)

hay:
Gió mùa thu
làm sao em bé hái
hoa tím bây giờ!

(K. Issa)


1.3.3. Kigo thường nằm ở câu đầu bài Haiku
Hototogisu
naku ya goshaku no
ayamegusa.
(Vang tiếng chim cu/ và lá diên vĩ/ vươn năm bộ cao). (M. Basho)
Hototogisu là chim cu (chim đỗ quyên), loài chim báo hiệu mùa hè. Đây là quý
ngữ chỉ mùa hè.
Tuy nhiên, cũng có một số bài kigo nằm ở câu hai hoặc câu ba:
Moro moro no
kokoro yanagi ni
makasubeshi.
(Trao cho cây liễu/ mọi niềm ước vọng/ mọi điều chán chê). (M. Basho)


Kigo: cây liễu (yanagi) nằm ở câu thơ thứ hai chỉ mùa xuân - loại này ít gặp nhất.
Na batakeni
hanami gao
naru suzume kana
(Trong đồng rau cải/ trăm mắt ngắm hoa/ một bầy chim sẻ). (M. Basho)
Kigo: chim sẻ (suzume) ở câu ba chỉ mùa xuân.
Có khi kigo ở cả câu hai và câu ba:
Fuku tabi ni
chô no inaoru
yanagi kana.
(Trên cành liễu nghiêng/ con bướm đổi chỗ/ mỗi lần gió lên). (M. Basho)
Kigo: bướm (chô) nằm ở câu hai và liễu (yanagi) nằm ở câu ba đều chỉ mùa xuân.

2. Nhà thơ M.Basho


Matsuo.Basho (1644-1694) Thiền sư, thi sĩ lỗi lạc của thời Edo Nhật Bản, tên
thật là Matsuo Munefusa là con trai út thứ bảy của một samurai cấp thấp phục vụ
cho lãnh chúa thành Ueno, ngôi thành nằm giữa đường từ Kyoto đến Ise. Basho
được thừa nhận là người phát triển những câu đầu trong thể renga thành một thể thơ
độc lập mang âm hưởng sâu thẳm của thiền đạo Masaoka Shiki hoàn thiện sự tách
biệt này thêm nữa và chuyển sang gọi nó là thể haiku.
Năm mới được 9 tuổi ông vào lâu đài Ueno làm tùy tùng cho lãnh chúa, và
trở thành bạn thân thiết với con trai vị lãnh chúa, một người chỉ hơn Basho vài tuổi
tên là Yoshitada. Hai người cùng nhau vui chơi, học tập và làm thơ. Cũng trong


những năm đó sự phát lộ năng khiếu của ông đã được nhà thơ, nhà phê bình xuất sắc
đương thời tên Kitamura Kigin phát hiện. Ông bắt đầu được Kitamura Kigin rèn
luyện và có bài thơ đầu tay năm ông 18 tuổi và được nhiều người biết đến. Trong
tập thơ xuất bản ở Kyoto năm 1644, có hai bài của Basho và một bài của Yoshisada.
Nếu dòng đời cứ bình yên trôi đi thì chắc hẳn Basho đã suốt đời an phận một người
võ sĩ cấp dưới, thi thoảng cùng chủ quân nâng chén thưởng nguyệt trong những
ngày nhàn hạ. Ngờ đâu vận đời trớ trêu, Yoshisada chẳng may lâm bạo bệnh và mất
sớm khi vừa mới hai lăm tuổi. Basho lên núi Koya đặt một nạm tóc của bạn vào
chùa và quyết định rời bỏ lâu đài Ueno mặc dù chưa được sự đồng ý của lãnh chúa.
Ông đến Kyoto vừa để tiêu dao những ngày tháng kinh kì nhằm khuây khỏa vừa để
theo đuổi nghiệp thơ ông


tiếp tục đọc Văn học Nhật Bản cổ đại, nghiên cứu văn học Trung Quốc và cả thư
pháp. Ông thường sống trong nhà Kigin hoặc tá túc trong một đền chùa.
Tiếp đó ông dời kinh đô đến Edo, thủ phủ của của chế độ mạc phủ
Tokugawa. Ở Edo, Basho đã làm nhiều nghề khác nhau nhưng nhận thấy mình chỉ
hợp với văn đạo, ông đã đi theo nghiệp thơ văn lấy bút hiệu là Tousei (Đào Thanh)
và luôn tìm cách trau dồi thêm về thi ca, ông bắt đầu mở lớp dạy thơ haikai, thu

nhận môn đệ và người ái mộ thơ Basho ngày một nhiều. Năm 1680, Basho xuất bản
tập thơ “Hai mươi bài thơ do môn đệ của Tousei sáng tác độc lập”.
Năm ba mươi bảy tuổi giữa lúc danh tiếng của Basho lan rộng, ông được
phong là “bậc thầy dạy thơ haikai” thì nhà thơ đột nhiên quyết định thôi dạy, dọn
về sống trong một túp lều tranh ở Fukugawa (Thẩm Xuyên) cạnh bờ sông Sumida.
Một môn đệ là Sampu (Sam Phong) xây cho Thầy mình túp lều để làm bạn với
thiên nhiên. Có đệ tử mang tặng cây ba tiêu (cây chuối) một giống cây đương thời
chỉ có ở Trung Hoa. Được Basho trồng cạnh túp lều, khách đến chơi gọi là “Ba Tiêu
Am” và chủ nhân là “ Ba Tiêu Tiên Sinh”. Trong khoảng thời gian này Basho tu tập
Thiền dưới sự hướng dẫn của Thiền sư Boccho.
Năm 1682, Edo xảy ra trận hỏa hoạn lớn, túp lều tranh của Basho cũng chìm
trong biển lửa, trắng tay Basho trở thành người không nhà cửa. Ý tưởng phiêu bạt
chợt bùng trong tâm trí ông.
Mùa thu năm 1684, Basho bắt đầu cuộc hành trình “gió biển mây ngàn” của
mình. Theo con đường ven biển về phía Tây, ông lang thang thăm lại cố hương
Ueno rồi đi Nagoya. Ở đó ông cầm đầu một nhóm thi sĩ soạn nên năm tập renga
xuất sắc mang tên Đông nhật. Đến mùa hạ năm sau Basho mới trở về Edo sau khi
thăm viếng nhiều nơi chuyến đi lớn đầu tiên này được ông ghi lại trong kỉ hành
mang tên Nhật ký phơi thân đồng nội.


Hai năm sau Basho tạo nên chấn động văn chương bằng bài thơ về bước nhảy
bất ngờ của con ếch mà tiếng động của nó khi chạm mặt nước ao cũ vang


trong thinh lặng của đêm đen như khoảnh khắc đạt đến Đốn ngộ của thiền sư. Đăng
trong hợp tuyển của ông và đồ đệ mang tên Xuân nhật.
Chuyến đi kế tiếp của Basho là hướng về Kashima được ông mô tả trong kỉ
hành Kashima (1687). Đây là chuyến đi mà đích đến của Basho là đền Kashima,
thăm sư phụ Boccho và ngắm hoa anh đào ở Yoshino mà nhớ về người bạn cũ yểu

mệnh tại Ueno năm xưa.
Ngay sau chyến đi ngắn ngày ấy, Basho lại bỏ ra một năm trời đi lang thang
cùng thiên nhiên, sông núi. Từ Edo đến bờ biển Suma. Ông đến Sarashina để chứng
kiến mùa trăng ở đỉnh Obasute. Năm 1689 Basho cùng đệ tử Sora thực hiện chuyến
đi nổi tiếng là hành trình lên miền Oku ở Đông Bắc của đảo Honshu – một vùng
thủa ấy còn hoang sơ, chưa có người khai phá. Basho phiêu bạt gần ba năm trời,
quãng đường ông đi qua hơn 2500km.
Sau chuyến hành trình Basho về Kyoto sống hai năm. Năm 1691, Basho trở
lại Edo với danh tiếng đạt mức tột đỉnh. Tâm hồn lãng tử của Basho lúc nào cũng
thôi thúc ông dấn bước vào cuộc hành trình gian nan như người đi tìm Đạo.
Năm 1694 Basho thực hiện chuyến lữ hành cuối cùng đến Otsu, rồi ghé qua
Kyoto ở lại Rakushisha sau đó ông đến Osaka. Vốn đã tiều tụy, khi ở Oshaka ông
lại mắc chứng tiêu chảy không cách nào chữa khỏi. Trong những ngày cuối đời ông
viết :
“Dang dở cuộc hành trình chỉ

còn mộng tôi phiêu lãng trên
những cánh đồng hoang”
(Basho)


Ngày 12/10/1694 Basho qua đời. Cái chết cũng đẹp như cuộc đời ông, trên
nửa cung đường của chuyến hành hương, giữa môn sinh và bằng hữu ông ra đi. Đến
phút cuối cùng của cuộc đời ông vẫn làm thơ vẫn chưa nguôi mộng sông hồ.


Những bước đường phiêu lãng, du hành khắp nơi trên đất nước là cảm hứng
sáng tác gắn liền với khối tác phẩm đồ sộ của Basho. Những trang bút ký và bài thơ
huyền bí để lại cho hậu thế là tài sản vô giá. Sau khi nhà thơ mất, một số đệ tử đã
tập hợp những bài thơ của ông thành Ba tiêu thất bộ tập. Những tác phẩm Basho để

lại cho đời là: Ngày Đông (1684), năm tập, viết chung với bạn thơ Du kí lang thang
đồng nội (1685).
Ngày Xuân (1686) viết chung với đồ đệ Nhật kí hành trình Kashima (1687), Ghi
chép trên chiếc túi hành hương (1688), Lối lên miền Oku (1689), Áo tơi cho khỉ
(1691).

PHẦN 2. THƠ HAIKU BASHO – BỨC TRANH THIÊN NHIÊN
BỐN MÙA NHẬT BẢN
2.1. Hình ảnh thiên nhiên bốn mùa
Thơ haiku được ví như bức tranh bốn mùa của Nhật Bản, mỗi bài thơ đều gắn
liền với hình ảnh thiên nhiên. Và thiên nhiên trong thơ Haiku cũng thật đa dạng và
phong phú, khi thì nó được hiện lên và khắc họa rất rõ nét, khi thì lại lung linh, mờ ảo
như những con sóng mặt hồ. Mỗi bài thơ là một bức tranh tuyệt mỹ, những tác phẩm
kiệt xuất ấy là kết quả của một đời lãng du trên bước đường hành giả, làm lữ nhân phù
thế. Thiên nhiên trong thơ Basho thật tươi đẹp hồn nhiên trữ tình nồng thắm. Điều này
đã được thể hiện rõ trong những bức tranh thiên nhiên mang đậm màu sắc luân
chuyển theo từng mùa.
Bức tranh mùa xuân.
Trong tiềm thức của con người phương Đông thì mùa xuân là mùa của nhựa
sống tràn trề, cây cối đâm chồi nảy lộc. Mùa xuân luôn mang đến cho thi sĩ nguồn
cảm hứng dồi dào để sáng tác những vần thơ bất hủ. Chứa đựng trong những vần thơ
mượt mà ấy lại là một chiều sâu suy nghĩ hay những triết lí nhân sinh vô cùng quý
báu. Đứng trước những cảnh sắc của thiên nhiên trong mùa xuân nhà thơ Basho từng
viết:
Một đám mây hoa
Chuông đền Ueno vang vọng


Hay đền Asakasa
Chuông chùa vang vọng gợi cho người đọc thấy đựơc sự trang nghiêm, cổ kính,

trầm mặc và có phần cô tịch của những ngôi đền nằm trên đỉnh núi vào mùa xuân.
Tiếng chuông vang lên phá tan sự ngưng đọng, yên tĩnh của không gian. Đồng thời
cũng phá tan sự yên tĩnh trong tâm tưởng con người, trong lòng Basho, khiến dòng
suy tưởng ấy như chùng lại. Không gian mùa xuân ở đây là không gian tầng bậc:
không gian có chiều cao của “đám mây hoa”, có độ rộng và xa của tiếng chuông vang
vọng và không gian ấy đựơc biến chuyển từ trạng thái tĩnh sang động chính bởi âm
thanh chuông chùa. Bức tiểu hoạ này thật nên thơ nhưng cũng mang đậm thiền
tính.Một bức tranh mà mọi sự vật xuất hiện trong tranh đều đang cựa quậy, biến
đổi. Thiên nhiên, con người và vũ trụ cùng biến đổi. Cái động của thiên nhiên đang
bừng lên sức sống, tiếng động của âm thanh là sự mời gọi lòng rạo rực, háo hức của
con người phải hành động.Trong bài thơ, thiên nhiên khoác trên mình vẻ đẹp thanh
tao, trầm mặc, con người đi tìm và tôn thờ vẻ đẹp ấy. Như vậy vẻ đẹp thiên nhiên của
đất nứơc Nhật Bản vào mùa xuân mang vẻ đẹp trầm mặc và tráng lệ, đó cũng chính là
vẻ đẹp của đời sống tâm linh. Một khi con người cảm nhận được những giá trị cũng
như những điều bình dị nhất đó thì họ sẽ hành động để quay trở về với thiên nhiên,
quay về với cuộc sống hiện tại và bản thể những nét văn hoá tâm linh.
Đi qua thơ haiku mùa xuân của Basho ta như bước lên những thảm cỏ xanh,
phảng phất đâu đó hương thơm của những cánh hoa anh đào, tai nghe đầy tiếng chim
tước, lòng như tràn đầy hơi thở của sự sống. Không gian mùa xuân trong thơ haiku
Basho ấm áp, tươi vui…tất cả được giăng mắc trên khắp cành cây, ngọn cỏ, tràn lan
khắp mười phương, phảng phất khắp thiên - địa - nhân.
Bức tranh mùa hạ
Nói tới mùa hạ ta liên tưởng tới sức nóng của thời tiết, tới những hình ảnh thân
thuộc, gần gũi như Furin (chuông gió), hanabi (pháo hoa), cảnh bình minh, nhưng có
lẽ hình ảnh đặc trưng và đầy đủ nhất của một mùa hè đầy nắng và gió, đó là hình ảnh
của một loài côn trùng (semi) hay còn gọi là ve sầu. Đa số người dân Nhật Bản cho
rằng, tiếng kêu của loài ve sầu có thể làm cho mùa hạ sinh động hơn, có sức lôi cuốn
hơn, song ve sầu vẫn là biểu hiện của một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng kêu suốt thời
gian nghỉ ngơi để mong có thể giữ lại khoảng khắc đẹp nhất trong cuộc đời mình.
Tiếng ve mải kêu

không hề để lộ
cái chết cận kề


Ở đây Basho không đi miêu tả chú ve mà dừng lại ở tiếng ve “mãi kêu”. Một đặc tính
của ve sầu là kêu râm ran, dường như không ngừng nghỉ khi hạ tới, tiếng ve làm cho
mùa hạ như náo nhiệt hơn, bầu trời thêm căng tràn, mây xanh trong và nắng vàng rải
khắp nơi nơi. Nhưng rồi cũng chính tiếng kêu đó lại báo hiệu một vòng đời mới cho
chú, sau hạ chú phải lột xác, điều đó cũng đồng nghĩa với cái chết. Nhưng chú không
quan tâm tới điều đó, điều chú quan tâm là tác dụng, ý nghĩa tiếng kêu của mình với
đời sống con người. Chú ve nhỏ bé nhưng cũng có tâm hồn, cũng biết nghĩ tới giá trị
sống như con người vậy.
Bức tranh mùa thu
Trong một dàn nhạc nếu mùa xuân mang đến tiếng nhạc tươi vui, mùa hạ mang đến
cung đàn réo rắt, thì mùa thu lại mang đến những tiếng nhạc trong trẻo nhất. Thu đến
với cảm giác se lạnh, dường như nhận thấy đựơc mọi thứ đang dần ngưng đọng lại.
Những làn gió nhẹ, những lá vàng lác đác, đám lá khô xào xạc, cánh cúc ngây thơ, sắc
phong rủ đỏ…tất cả tạo nên sắc thu riêng biệt, đặc trưng không thể lẫn lộn. Con người
và thiên nhiên trong thơ Haiku nói chung và thơ Haiku Basho nói riêng luôn hoà điệu
với nhau. Khi không gian nhuốm màu thu thì tất cả hiển hiện trước mắt như một minh
chứng. Nhà thơ Basho của chúng ta từng thừa nhận:
Trăng thu
suốt đêm tôi dạo
loanh quanh bên hồ
hay ông cũng từng viết về hình ảnh em bé trong đêm thu:
em bé nhọc nhằn
trong khi xay gạo
vẫn nhìn lên trăng
Cuộc sống chất chứa biết bao điều phải lo toan, suy nghĩ, đó là quy luật với bất
kì con người nào khi đựơc sinh ra trên đời này. Trong sự hối hả của cuộc sống sẽ có

một thời khắc nào đó ta cảm thấy mệt mỏi, chán chường…có lẽ nơi mà ta muốn
hướng mình tới nhất đó chính là thiên nhiên. Dù là ở trạng thái nào thiên nhiên cũng
làm giúp ta lấy lại thăng bằng, sự thoải mái, thanh tịnh trong tâm hồn.
Bức tranh mùa đông


Mỗi mùa ở Nhật Bản có một đặc trưng riêng, mùa đông bao phủ bởi một gam màu
trắng tinh khiết của tuyết. Đất trời chuyển lạnh, đối nghịch với cái oi ả của ngày hạ
sang. Tâm hồn Basho không bỏ lỡ cơ hội đó để đặt nét bút chấm phá lên nền trời.
Mùa đông vò võ
thế gian một màu
và âm thanh gió
Đông sang, mọi vật từ cành cây, đường phố, nhà cửa… đều trở thành những nét vẽ
trên nền tuyết trắng. Tuyết tràn ngập khắp nơi…gợi lên cho con người cảm giác lạnh
lẽo nhưng lại cũng đem lại cảm nhận của sự thuần khiết, tinh khôi. Người Nhật mong
chờ đông tới, mong những bông hoa tuyết rơi rơi, tràn ngập khắp nơi để có thể đùa
nghịch cùng tuyết trắng, và cũng chính trong cái tiết trời lạnh giá đó thì con người
mới có thể cảm nhận hết được sự ấm áp.

2.2. Tình yêu thiên nhiên và sự trân trọng những điều bình dị trong cuộc sống
Với mọi vẻ đẹp vốn có của mình, thiên nhiên trong thơ Basho là những hình
ảnh thật bình dị, nguyên sơ và hùng vĩ. Trong thơ, hình ảnh thiên nhiên không chỉ có:
tuyết, trăng... đến các loài hoa dại, bùn, cỏ..., các loài chim đỗ quyên, chim sẻ... còn
có cả chấy, ruồi, muỗi, rận, ... Basho đưa chúng vào thơ rất tự nhiên y như những gì
mắt ông trông thấy. Ông không hề có sự chọn lựa cảnh kiêu sa, lộng lẫy. Vì vậy, thiên
nhiên hiện lên thật hồn nhiên trong cái trong trẻo và nguyên sơ của nó.
Dòng thác trong
giữa làn sóng bạc
trăng mùa hạ lên.
Hay bản dịch khác

Trăng mùa hè


chiếu lên sóng không bụi
dòng Sông Trong.
(Đoàn Lê Giang dịch thơ)
Đấy là hình ảnh dòng thác, hay dòng Sông Trong (Kiyotaki), trong sạch không
bụi, lấp lánh sóng bạc khi trăng mùa hạ lên trông thật nguyên sơ, thanh sạch. Một bức
tranh tuyệt đẹp của dòng sông lấp lánh dưới trăng mùa hạ.
Bên cạnh những dòng sông, dòng thác là những ngọn đồi, hòn đảo vô danh tình
cờ trên đường đi ngang qua ông bắt gặp.
Mùa xuân đến rồi
vô danh ngọn đồi ấy
sáng nay khoác áo sương mù.
Đó là hình ảnh một ngọn đồi bao phủ bởi sương mù mùa xuân hay một hòn đảo
cô liêu, không tên hiện ra trong tiếng chim cu kêu não lòng.
Tiếng cu kêu
biến tan về phía
hòn đảo cô liêu.
Thiên nhiên trong mắt Basho mang vẻ đẹp nguyên thủy, sơ khai. Nếu Basho so
với Nguyễn Trãi (Việt Nam) cũng hay viết về đề tài thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ thì
cả hai có điểm tương đồng. Nguyễn Trãi tả thiên nhiên bằng những vần thơ:
Thanh Hư trúc mọc như rừng


Thác bay phơi phới như gương lạnh người
Đêm qua trăng lẫn nước trời
Ta mơ cưỡi hạc lên chơi tiên đàn.
Động Thanh Hư của Nguyễn Trãi cũng trong vắt nguyên sơ dưới ánh trăng như
sông Kiyotaki hay đảo Sado, thác Mogami. Hình ảnh thiên nhiên cũng mang vẻ đẹp

hùng vĩ, mênh mông.
Không chỉ có Basho mà các nhà thơ yêu thiên nhiên đều có thể tìm ra vẻ đẹp
trong thiên nhiên một cách giản dị và tự nhiên:
Dục Thúy mưa tan non tựa ngọc,
Đại An triều dậy nước ngang trời
(Dục Thúy vũ tình phong tự ngọc
Đại an triều trướng thủy như thiên)
Vọng doanh
Hình ảnh thiên nhiên thanh sạch, hoang sơ khiến Basho mong được trở về với
thiên nhiên để cảm nghiệm cái đẹp mà nhà thơ muốn tìm cho mình và cho thơ ca.
Ta muốn ngà say
ngủ mơ trên đá
hoa cẩm chướng đầy.


Thiên nhiên trong thơ Basho còn là những hình ảnh gần gũi quen thuộc quanh
ta, nó hiện diện một rất hồn nhiên, khiêm tốn, bé bỏng dễ thương:
Trên thân nấm rơm
chiếc lá từ đâu đến
vẫn còn nằm yên.
hay đơn giản là hình ảnh chú chuồn chuồn kiên trì vượt qua gian nan để tồn tại mà cố
bám víu cho được trên ngọn cỏ rung rinh theo gió.
Con chuồn chuồn
đậu mãi mà không được
trên ngọn cỏ gió rung.
hình ảnh một con cua nhỏ đang bò dưới dòng nước trôi chảy vô tình. Dù cuộc sống
khắc nghiệt, cua vẫn bám víu lấy sự sống, cố bò lên bờ để khỏi bị nước cuốn trôi và
đã bò lên chân thi nhân.
Dưới làn nước trôi
có con cua nhỏ

bò lên chân tôi.
Những hình ảnh bình thường ta gặp trong cuộc sống. Ta thấy nó luôn được xuất hiện
trong thơ haiku của nhà thơ Basho. Nó được đưa vào thơ bởi cảm thức thẩm mỹ
truyền thống về cái đơn sơ, bình dị, mộc mạc... của tự nhiên.


Tóm lại, hình ảnh thiên nhiên ta gặp trong thơ Basho với vai trò là "quí ngữ"
nhưng nó chứa đựng vẻ đẹp đơn sơ, dung dị, nguyên thủy... trong từng câu chữ. Nó
chứa đựng bao tình cảm với thiên nhiên của nhà thơ Basho. Thơ haiku là thơ ca của
thiên nhiên vạn vật.

PHẦN 3: THƠ HAIKU BASO VÀ NHỮNG DẤU ẤN VĂN HÓA
NHẬT BẢN
3.1. Thơ haiku Baso và những cảm thức thẩm mỹ truyền thống của người
Nhật
Trong tập quán văn hóa đất nước nhật bản “cảm thức thẩm mỹ truyền thống”
đã ngấm sâu vào máu thịt của mỗi con người và nó luôn được đưa lên hàng đầu.
Người Nhật tôn thờ cái đẹp trong nghệ thuật lẫn thiên nhiên. Họ quen nhìn nhận
mọi cái thông qua cảm xúc riêng tư, ngay cả khi lẽ ra phải quan sát một cách tỉnh
táo, khách quan hơn. Tình yêu đối với cái đẹp, dĩ nhiên mọi dân tộc khác đều có,
nhưng ở người Nhật, đó là một bộ phận không thể tách rời với truyền thống dân
tộc. Thơ haiku Basho cũng như toàn bộ thơ văn Nhật đều thấm nhuần tính văn hóa
này. Phát hiện và khẳng định những cái đẹp hiện hữu trong những sự vật bình
thường của đời sống là một trong những nguyên lý thẩm mỹ của thơ Haiku. Những
cảm thức thẩm mỹ này thể hiện cái nhìn của các thi sĩ Haiku trước hiện thực mang
đậm màu sắc Thiền tông gắn với thiên nhiên và con người Nhật Bản. Trong thơ
Haiku, các cảm thức thẩm mỹ như Sabi (tịch), Wabi (đà), Aware (bi ai) và Karumi
(khinh) được thể hiện rất rõ nhằm diễn đạt những yếu tố tâm linh, bởi thơ haiku là
thơ của “kinh nghiệm của cảm thức, của trực giác tâm linh”, ta sẽ thấy được những
cảm thức thẩm mỹ truyền thống này qua:

Cảm thức Sabi: Sabi (tịch) là cảm thức nổi trội của thơ Haiku và thể hiện tập
trung nhất tư tưởng của Thiền tông. Sabi là linh hồn của tịnh liêu, là cảm thức về
sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật, nhìn thấy chúng tự bộc lộ những điều kỳ diệu. Sabi
là cô đơn nhưng là “niềm cô đơn huy hoàng”, là cảm thức hùng tráng chứ không
phải là cô đơn cá nhân, không mang tính bi lụy. Nó là sự tĩnh mịch không có giới
hạn. Khi con người và sự vật ở trong cảnh cô liêu, tĩnh lặng sâu xa chính là lúc tất
cả đã chìm vào hư vô, thoát khỏi bản ngã để tiến vào trạng thái vô ngã. Và như
vậy, Sabi là niềm cô tịnh vô ngã. Nhà thơ Basho đã đưa cảm thức Sabi đạt đến
đỉnh điểm trong một bài Haiku nổi tiếng:


Cánh quạ ô
Trên cây héo hắt
Trên cây héo hắt.
Bằng những nét phác thảo, thi sĩ Basho đã vẽ nên một bức tranh mùa thu mang tính
điển hình cao độ: tiêu điều, xơ xác, buồn tẻ... Sự im lìm của cánh quạ đen, sự héo
hắt của cành cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện thực tạo thành cái sâu
thẳm, vô hạn của cảm thức Sabi. Trong đó sự tương phản tương đồng được nhà thơ
sử dụng hợp lý. Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô và đêm thu có sự đối lập nhau
tạo thành một khung cảnh thật ảm đạm cô tịch. Nếu con quạ, cành cây khô là cái
hữu hạn thì đối lập với nó là cái vô hạn “đêm thu”. Bài thơ tạo nên một nỗi buồn
quạnh hiu của một mảng thiên nhiên và biết đâu, đó cũng chính là sự xót xa buồn
tủi của chính Basho trước thế thái nhân tình đầy rẫy những chết chóc, bi thương
của xã hội đương thời.
- Cảm thức Wabi: Nếu cảm thức Sabi là tâm điểm gắn với tư tưởng Thiền tông thì
Wabi (đà) lại gần gũi với các sự vật bình thường hơn. Wabi là một khái niệm của
Phật giáo Thiền tông nói đến sự cảm nghiệm về sự thanh bình an lạc, sự dung dị
nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. Cũng mang ý nghĩa cô đơn
nhưng nếu Sabi nghiêng về cảm xúc thẩm mỹ thì Wabi lại nhằm ám chỉ đến điều
kiện sống và tình cảm của con người và sự vật hơn. Đó là những cảm nhận bất ngờ

về những cái “như thế” của sự vật tưởng chừng như rất nhỏ nhoi như con ốc nhỏ,
một chiếc lá rơi, một giọt sương mai... Cũng như con quạ đậu cành khô, con ếch
nhảy xuống ao, tiếng ve thấm xuyên vào đá, thi sĩ mô tả cánh con chim gõ kiến
đang gõ vào sự cô tịch cái nhịp điệu bình thường của cuộc sống:
Mái lều im
Một con chim gõ kiến
Gõ ngoài trụ hiên.
Trong sự lặng im của mái lều và cái trụ hiên bỗng vang lên tiếng chim kiến đang
gõ vào trụ hiên hay gõ vào không gian vắng lặng? Sự hiện diện của loài vật đang
hoạt động là một điều tự nhiên được thi sĩ cảm nhận một cách tinh tế tạo nên cảm
xúc thẩm mỹ ở người đọc.


- Cảm thức Aware: Cảm thức Aware là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học xuất
hiện khá sớm liên quan đến quan niệm của Phật giáo được văn chương Nhật sử
dụng khá rộng rãi. Ngay từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và trong tiểu thuyết Truyện
Genji (Murasaki), nhiều tác giả đã nói đến Aware. Aware (bi ai) là niềm bi cảm,
xao xuyến trước mọi vẻ đẹp của sự vật. Nó tương tự như một âm vang vọng lại khi
những gì đã qua, sắp qua sẽ tác động vào thế giới hiện hữu bằng một âm thanh nào
đó. Nhưng nó không nghiêng về cái bi lụy ngông cuồng của lãng mạn hay nỗi bi
tráng ngây ngất của bi kịch mà Aware là một bi cảm thâm trầm. Trước cái chết của
một người bạn, Basho viết:
Trăng rụng rồi
Bốn góc bàn quen thuộc
Còn lại mà thôi.
Ở đây, sự mất mát đối với thi nhân quá lớn nhưng tác giả không hề nói đến từ
“chết” mà dùng những sự vật quen thuộc thường ngày để diễn tả sự ra đi của bạn.
Như vậy, đây là bài ca bi ai về cái chết của một người bạn. Trăng rụng là nói đến
cái chết ấy. Nhưng bốn góc bàn, nơi người ấy thường ngồi vẫn còn lại như tất cả
những cái khác vẫn còn tồn tại trên cõi đời. Đây không phải nói đến cái bi kịch của

con người mà là sự cảm nhận của thi sĩ về sự sống và cái chết cũng đơn giản, bình
dị như bốn góc bàn ấy. Trong cuộc đời, mất và còn, khoảnh khắc này và khoảnh
khắc khác, con người ra đi còn sự vật gần gũi thì ở lại... tất cả là niềm bi cảm của
con người. Từ cảm thức về sự cô tịch (sabi) đến nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thanh
thoát (wabi) và khẳng định cái thanh cao, ung dung (karumi) trong con người và sự
vật là những biểu hiện của sắc thái thẩm mỹ mang dấu ấn Thiền tông trong thơ
haiku nói chung, đặc biệt trong thơ haiku của Basho. Đời sống văn hóa Nhật Bản
thấm đậm tính chất Thiền tông. Điều này không chỉ thể hiện trong văn học nghệ
thuật, (đặc biệt trong thơ Haiku) mà cả trong đời sống văn hoá tinh thần của người
Nhật Bản từ xưa đến nay. Đặc điểm này góp phần tạo nên nét bản sắc của văn hoá
Nhật Bản trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
- Cảm thức Karumi Karumi (khinh) bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng,
thanh thoát. Nó dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế
trong nội dung. Karumi được nói đến như một phong thái ung dung, tự tại. Chính
tâm thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ haiku có cái nhìn rất hiện thực khi phản ánh cuộc


×