Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Đề tài phân tích vai trò lãnh đạo của đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.75 KB, 19 trang )

lOMoARcPSD|39472803

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG
KHOA CƠNG NGHỆ THƠNG TIN, ROBOT VÀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO

-----🙞🙜🕮🙞🙜-----

TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRONG SỰ NGHIỆP GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

1930 - 1945

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : ThS. PHẠM KIM DUNG

SINH VIÊN THỰC HIỆN : NGUYỄN THANH HOÀ –
20050021

BÌNH DƯƠNG, 03/2024

lOMoARcPSD|39472803

MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................................. 2
LỜI CẢM ƠN........................................................................................................................ 3
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN...............................................................4
CHƯƠNG I: PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 – 1931 VÀ KHÔI PHỤC PHONG


TRÀO 1932 – 1935................................................................................................................5

1.1. Phong trào cách mạng 1930 – 1931............................................................................5
1.2. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng. Đại hội Đảng lần
thứ nhất (03/1935)..............................................................................................................6
CHƯƠNG II: PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936 – 1939.....................................................8
2.1. Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng.................................................................8
2.2. Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cơm áo hồ bình....................................9
CHƯƠNG III: PHONG TRÀO GIẢI PHĨNG DÂN TỘC 1939 – 1945........................11
3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng......................................11
3.2. Phong trào chống Pháp – Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang..................................................................................................................12
3.3. Cao trào kháng Nhật cứu nước................................................................................14
3.4. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền........................................................................16
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 18
CHƯƠNG VI: TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................19

2

lOMoARcPSD|39472803

LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám hiệu Trường Đại học Bình
Dương đã đưa mơn học Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam vào chương trình giảng dạy. Đặc
biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn – ThS. Phạm Kim Dung đã dạy
dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt thời gian học tập vừa qua.
Trong thời gian tham gia lớp học Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam của Cô, em đã có
thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, giúp em hiểu thêm về lịch sử Việt Nam qua các thời
kì kháng chiến của ông cha ta. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức nền tảng quý báu và là
hành trang để em có thể vững bước trên con đường học tập và làm việc sau này.

Do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu thực tế còn nhiều bỡ ngỡ. Mặc
dù em đã cố gắng hết sức nhưng chắc chắn bài báo cáo khó có thể tránh khỏi những thiếu sót
và nhiều chỗ cịn chưa chính xác, kính mong cơ xem xét và góp ý để bài báo cáo của em
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

3

lOMoARcPSD|39472803

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

……………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………….

Bình Dương, ngày 18 tháng 03 năm 2024

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

ThS. PHẠM KIM DUNG

4

lOMoARcPSD|39472803

CHƯƠNG I: PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 – 1931 VÀ KHÔI PHỤC PHONG
TRÀO 1932 – 1935

1.1. Phong trào cách mạng 1930 – 1931
Trong giai đoạn 1929 – 1933, trong khi Liên Xô đạt được những thành tựu quan trọng

trong việc xây dựng đất nước, các nước tư bản đối diện với một cuộc khủng hoảng kinh tế
quy mô lớn với hậu quả nặng nề, làm gia tăng mâu thuẫn xã hội sâu sắc. Đồng thời, phong
trào cách mạng toàn cầu cũng đang phát triển mạnh mẽ.

Cuộc khủng hoảng kinh tế này ảnh hưởng lớn đến các nước thuộc địa và phụ thuộc,
gây gián đoạn trong hoạt động sản xuất. Tại Việt Nam, thực dân Pháp tăng cường việc bóc

lột để bù đắp hậu quả của cuộc khủng hoảng tại chính quốc. Đồng thời, họ tiến hành chiến
dịch đàn áp để đối phó với cuộc Khởi nghĩa Yên Bái (02/1930). Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam và đế quốc Pháp cùng bè lũ tay sai ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng
Sản Việt Nam ra đời, với hệ thống tổ chức thống nhất và cương lĩnh chính trị đúng đắn, lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Từ tháng 01 đến tháng 04 năm 1930, phong trào bãi công của công nhân nổ ra liên
tiếp ở nhiều nơi. Trước sức mạnh của quần chúng, bộ máy chính quyền của đế quốc và tay
sai tan rã. Các tổ chức đảng lãnh đạo nông hội tại các thôn, xã đã đứng ra quản lý mọi khía
cạnh của đời sống xã hội ở nơng thơn, đối đầu với kẻ thù và hướng dẫn dân chủ cho quần
chúng. Họ hoạt động như một chính quyền cách mạng thông qua các uỷ ban tự quản, tương
tự như kiểu Xô Viết.

Tháng 09/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng thông tri cho Xứ ủy Trung Kỳ,
vạch rõ chủ trương không nên triển khai bạo động riêng lẻ tại một số địa phương vì chưa đủ
điều kiện để thực hiện. Trách nhiệm của Đảng là tổ chức quần chúng chống lại khủng bố,
duy trì sự ảnh hưởng của Đảng và Xơ Viết trong tâm trí quần chúng. Đến khi thất bại, ý
nghĩa của Xô viết sẽ tiếp tục ăn sâu vào tâm hồn quần chúng và lực lượng của Đảng và
Nông hội vẫn duy trì.

Cuối năm 1930, thực dân Pháp tập trung mọi lực lượng để đàn áp một cách khốc liệt.
Họ kết hợp thủ đoạn bạo lực với các chiêu trị chính trị, như cưỡng bức dân cày ra đầu thủ,

5

lOMoARcPSD|39472803

tổ chức rước cờ vàng, nhận thế quy thuận... Đầu năm 1931, hàng nghìn chiến sĩ cộng sản và
hàng vạn người yêu nước đã bị bắt, giết hoặc bị tù đày. Tháng 04/1931, toàn bộ Ban Chấp
hành Trung ương Đảng bị bắt, khơng cịn lại một ủy viên nào. Các tổ chức của Đảng và của

quần chúng hầu hết đã tan rã.

Tuy bị tổn thất nặng nề, nhưng phong trào cách mạng 1930-1931 mang ý nghĩa lịch
sử quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Nó khẳng định quyền lãnh đạo và năng lực của
giai cấp vô sản, đem lại niềm tin vững chắc cho nông dân vào giai cấp vô sản. Tinh thần anh
dũng của phong trào luôn nồng nàn trong tâm hồn quần chúng, và nó đã mở đường cho
những chiến thắng về sau. Cao trào này còn để lại cho Đảng những kinh nghiệm quý báu về
kết hợp chiến lược phản đế và phản phong kiến, liên minh công nông dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang.

Trong tháng 10 năm 1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã
tổ chức Hội nghị lần đầu tại Hương Cảng (tức Hồng Kông, Trung Quốc). Tại hội nghị này,
quyết định đổi tên Đảng từ “Đảng Cộng Sản Việt Nam” thành “Đảng Cộng Sản Đơng
Dương”. Đồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Ngày 18/11/1930,
Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị về vấn đề thành lập “Hội phản đế Đồng
minh”, tổ chức mặt trận đầu tiên để tập hợp đoàn kết các giai cấp và tầng lớp dân dân tộc,
khẳng định vai trị của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

1.2. Cuộc đấu tranh khôi phục tổ chức và phong trào cách mạng. Đại hội Đảng lần thứ
nhất (03/1935)

Tháng 01/1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã phát
hành Thông cáo về việc quân đội Pháp buộc dân cày ra đầu thú. Thông cáo này vạch rõ thủ
đoạn của kẻ thù và đề ra các biện pháp hướng dẫn quần chúng đấu tranh. Đồng thời, Hội
nghị Trung ương (03/1931) đã quyết định nhiều vấn đề để thúc đẩy đấu tranh.

Ngày 11/04/1931, Quốc tế Cộng sản đã ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản
Đông Dương là chi bộ độc lập. Điều này khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc. Đầu năm 1934, theo sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban


6

lOMoARcPSD|39472803

Chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập để lãnh đạo và chỉ đạo
phong trào trong nước.

Năm 1935, hệ thống tổ chức của Đảng đã được phục hồi, tạo điều kiện cho việc tiến
tới Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Tháng 03/1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã
họp ở Ma Cao (Trung Quốc). Tại đại hội này, Đảng thông qua Nghị quyết chính trị Điều lệ
Đảng và các nghị quyết về vận động quần chúng. Ban Chấp hành Trung ương mới được bầu,
với Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư. Đại hội cũng bầu đoàn đại biểu tham dự Đại hội VII
Quốc tế Cộng sản, trong đó Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc
tế Cộng sản. Đại hội lần thứ nhất đánh dấu sự phục hồi hệ thống tổ chức của Đảng và phong
trào cách mạng quần chúng, tạo điều kiện cho bước vào một giai đoạn cách mạng mới.

7

lOMoARcPSD|39472803

CHƯƠNG II: PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936 – 1939

2.1. Điều kiện lịch sử và chủ trương của Đảng

Để giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933, giai cấp tư
sản ở một số nước như Đức, Italia và Tây Ban Nha đã chứng kiến sự xuất hiện của chủ nghĩa
phát xít và thậm chí tạm thời thắng thế ở một số nơi. Nguy cơ từ chủ nghĩa phát xít và chiến
tranh thế giới đã đe doạ nghiêm trọng đến hịa bình và an ninh quốc tế.

Tại Hội nghị Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản tại Mátxcơva (Liên Xô) vào tháng

07/1935, đã xác định rằng kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa
phát xít. Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới là chống
lại chủ nghĩa phát xít, bảo vệ dân chủ và hịa bình. Để thực hiện nhiệm vụ này, giai cấp công
nhân ở các nước trên thế giới phải thống nhất hàng ngũ và lập mặt trận nhân dân rộng rãi.
Đồn đại biểu Đảng Cộng sản Đơng Dương đã tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, và
Tổng Bí thư Lê Hồng Phong đã được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.

Trong thời gian này, các đảng cộng sản đã nỗ lực lập mặt trận nhân dân chống lại chủ
nghĩa phát xít. Nhiều tù chính trị cộng sản đã được trả tự do. Các đồng chí đã tham gia ngay
vào công việc lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phong
trào cách mạng phát triển.

Sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế từ 1929 đến 1933, Đảng Cộng sản Đông Dương
đã khôi phục hệ thống tổ chức sau những thời kỳ đấu tranh gian khổ. Vào ngày 26-7-1936,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị tại Thượng Hải (Trung Quốc) dưới sự chủ
trì của Lê Hồng Phong, với sự tham gia của Hà Huy Tập và Phùng Chí Kiên. Hội nghị này
nhằm “sửa chữa những sai lầm” trước đó và “định lại chính sách mới” dựa trên những nghị
quyết của Đại hội lần thứ VII quốc tế cộng sản.

Các Hội nghị lần thứ ba (3-1937) và lần thứ tư (9-1937) của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã bàn luận sâu hơn về công tác tổ chức. Quyết định chuyển mạnh hơn nữa về
phương pháp tổ chức và hoạt động nhằm tập hợp đông đảo quần chúng trong mặt trận chống
phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hịa bình. Hội nghị Ban Chấp hành

8

lOMoARcPSD|39472803

Trung ương Đảng tháng 3-1938 đã nhấn mạnh “lập Mặt trận dân chủ thống nhất là một
nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại”.


Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đặt vấn đề nhận thức lại mối quan hệ
giữa hai nhiệm vụ: phản đế và điền địa. Chỉ thị của Ban Trung ương gửi các tổ chức của
Đảng (26-7-1936) đã rõ ràng: “Ở một xứ thuộc địa như Đơng Dương, trong hồn cảnh hiện
tại, nếu chúng ta quan tâm đến sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp, có thể sẽ gặp khó
khăn khi mở rộng phong trào dân tộc”.

2.2. Phong trào đấu tranh địi tự do, dân chủ, cơm áo hồ bình
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào vận động dân chủ đã diễn ra trên quy mô rộng

lớn và thu hút đông đảo quần chúng tham gia qua nhiều hình thức đấu tranh đa dạng. Đảng
đã khởi xướng cuộc vận động thành lập “Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội” để thu thập ý
kiến của quần chúng, tiến tới triệu tập Đại hội đại biểu nhân dân Đông Dương. Quần chúng
đã phản ứng tích cực bằng việc tổ chức các cuộc mít tinh, hội họp để tập hợp “dân nguyện”.
Đặc biệt, ở Nam Kỳ đã thành lập 600 ủy ban hành động để tập hợp quần chúng.

Năm 1937, Đảng đã tổ chức hai cuộc biểu dương lực lượng quần chúng dưới danh
nghĩa “đón rước”, tổ chức mít tinh, biểu tình và đưa đơn “dân nguyện”. Các báo chí tiếng
Việt và tiếng Pháp của Đảng cũng ra mặt. Nhiều sách chính trị phổ thơng được xuất bản để
giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lênin và chính sách mới của Đảng. Cuốn “Vấn đề dân cày” (1938)
của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp) tố cáo tội ác của đế quốc và
phong kiến đối với nơng dân, đồng thời làm rõ vai trị quan trọng của nông dân trong cách
mạng.

Cuốn “Chủ nghĩa Các Mác” của Hải Triều được in và phát hành vào năm 1938. Theo
sáng kiến của Đảng, Hội truyền bá quốc ngữ ra đời. Từ cuối năm 1937, phong trào truyền bá
quốc ngữ phát triển mạnh.

Hội nghị Trung ương Đảng (29 và 30-3-1938) đã quyết định lập Mặt trận Dân chủ
Đông Dương để tập hợp rộng rãi lực lượng và phát triển phong trào. Đồng thời, hội nghị đã

bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư của Đảng.

9

lOMoARcPSD|39472803

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (9-1939), thực dân Pháp đã đàn áp cách
mạng Đảng và rút vào hoạt động bí mật. Cuộc vận động dân chủ kết thúc. Đây thực sự là
một phong trào cách mạng sơi nổi, có tính quần chúng rộng rãi, nhằm thực hiện mục tiêu
trước mắt là chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hịa bình.

Qua cuộc vận động dân chủ, Đội quân chính trị quần chúng gồm hàng triệu người đã
được tập hợp, giác ngộ và rèn luyện. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng đã được mở rộng. Tổ
chức Đảng cũng được củng cố và phát triển. Năm 1939, từ Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã
gửi nhiều thư cho Trung ương Đảng ở trong nước, truyền đạt quan điểm của Quốc tế Cộng
sản và góp nhiều ý kiến quan trọng về sự lãnh đạo của Đảng. Cuộc vận động dân chủ từ năm
1936 đến 1939 đã mở rộng trận địa và lực lượng cách mạng ở cả nông thôn và thành thị,
thực sự là một bước chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám sau này.

10

lOMoARcPSD|39472803

CHƯƠNG III: PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1939 – 1945

3.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng
Vào 09/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Tại Đông Dương, chế độ đàn áp của

thực dân được củng cố, và lệnh thiết quân luật đã được áp đặt. Ngày 28/09/1939, Tồn
quyền Đơng Dương ban hành một sắc lệnh cấm tuyên truyền cộng sản, loại bỏ Đảng Cộng

sản Đơng Dương ra khỏi vịng pháp luật, giải thể các tổ chức và liên minh, đóng cửa các tờ
báo và nhà xuất bản, cấm tụ tập đông người và họp hành.

Ở Đơng Dương, thực dân Pháp đã áp dụng chính sách thời chiến và độc tài, đàn áp
mạnh mẽ phong trào cách mạng, và thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” để tăng cường
khai thác nguồn nhân lực và tài nguyên phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc. Vào tháng
09/1940, quân đội Nhật Bản đã tiến vào Đông Dương, và thực dân Pháp đã đầu hàng, hợp
tác với Nhật Bản để cùng nhau thống trị và bóc lột người dân Đông Dương, khiến họ phải
chịu đựng sự áp bức kép.

Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, Đảng đã kịp thời chuyển sang hoạt
động bí mật, chuyển hướng cơng tác chính về vùng nơng thơn, nhưng vẫn chú trọng đến các
khu đô thị. Ngày 29/09/1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã gửi một thông báo quan
trọng đến tồn thể Đảng, nhấn mạnh rằng “Tình hình Đơng Dương sẽ tiến triển đến vấn đề
giải phóng dân tộc”.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 11/1939 đã đưa ra quyết định
phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử, đưa nhân dân bước vào giai đoạn chủ động vận
động giải phóng dân tộc. Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước và bắt đầu
công tác tại Cao Bằng. Vào tháng 05/1941, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị lần thứ tám
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Hội nghị này đã hoàn thiện chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng
11/1939, khắc phục những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930, và tái khẳng
định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và
lý luận của Nguyễn Ái Quốc. Đây là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân Việt Nam trong việc

11

Downloaded by linh tran ()


lOMoARcPSD|39472803

chuẩn bị lực lượng và tiến lên trong công cuộc đánh đuổi Pháp và Nhật, giành lại độc lập tự
do cho dân tộc.

3.2. Phong trào chống Pháp – Nhật, đẩy mạnh chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa
vũ trang

Vào ngày 27/09/1940, khi quân đội Pháp tại Lạng Sơn bị quân Nhật tấn công và buộc
phải rút lui qua con đường Bắc Sơn-Thái Nguyên, người dân Bắc Sơn đã đứng lên dưới sự
dẫn dắt của đảng bộ địa phương, chiếm lấy đồn Mơ Nhai và kiểm sốt thị trấn Bắc Sơn. Đội
du kích Bắc Sơn được hình thành. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã đánh dấu một bước tiến
trong cuộc đấu tranh vũ trang nhằm giành độc lập cho đất nước. Tại Nam Kỳ, phong trào
cách mạng đã lan tỏa rộng khắp trong quần chúng.

Ngày 06/06/1941, Nguyễn Ái Quốc đã gửi thư kêu gọi tồn dân: “Khi mà quyền lợi
giải phóng dân tộc là quan trọng nhất, chúng ta cần phải đoàn kết để lật đổ các lực lượng đế
quốc và những kẻ phản bội dân tộc, nhằm giải thoát dân tộc khỏi cảnh nguy hiểm.” Pháp và
Nhật ngày càng gia tăng việc đàn áp phong trào cách mạng Việt Nam. Nhiều chiến sĩ cộng
sản bị bắt giữ, giam cầm và xử tử.

Vào tháng 08/1942, Nguyễn Ái Quốc khi đang công tác tại Trung Quốc cũng bị quân
đội Quốc gia Trung Hoa bắt giữ trong hơn một năm (từ tháng 08/1942 đến 09/1943). Trước
sự tàn bạo của kẻ thù, các chiến sĩ cộng sản đã thể hiện tinh thần kiên cường và giữ vững
niềm tin vào chiến thắng cuối cùng của cách mạng.

Ngày 25/10/1941, tổ chức “Việt Nam Độc lập Đồng minh” (Việt Minh) được thành
lập. Chương trình của Việt Minh đã đáp ứng được nguyện vọng giải phóng đất nước của mọi
tầng lớp nhân dân, do đó phong trào Việt Minh đã phát triển mạnh mẽ, bất chấp sự khủng bố

của kẻ thù. Đảng đã tích cực xây dựng và củng cố tổ chức của mình, mở nhiều khóa huấn
luyện ngắn hạn để đào tạo cán bộ về chính trị, quân sự và hậu cần. Nhiều cán bộ và đảng
viên đã trốn thoát khỏi các nhà tù như Sơn La, Chợ Chu, Buôn Ma Thuột… và trở về địa
phương để tham gia lãnh đạo phong trào.

Vào tháng 02/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã tổ chức cuộc họp tại Võng
La để đề ra các biện pháp cụ thể nhằm mở rộng phong trào quần chúng và chuẩn bị điều kiện
cho cuộc khởi nghĩa tương lai, có thể bùng nổ tại các trung tâm chiến lược của kẻ thù.

12

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

Đảng và Việt Minh đã xuất bản nhiều tờ báo. Ngay cả trong nhà tù của đế quốc, các
chiến sĩ cách mạng cũng sử dụng báo chí như một cơng cụ đấu tranh. Năm 1943, Đảng công
bố bản Đề cương về văn hóa Việt Nam, khẳng định rằng văn hóa cũng là một mặt trận cách
mạng và chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới dựa trên ba nguyên tắc: dân tộc, khoa
học và đại chúng. Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam được thành lập, thu hút
nhiều trí thức và nhà hoạt động văn hóa tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do.

Đảng đã vận động và hỗ trợ một số sinh viên, trí thức yêu nước thành lập Đảng Dân
chủ Việt Nam vào tháng 06/1944. Đảng này đã tham gia Mặt trận Việt Minh và hoạt động
tích cực, góp phần mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc.

Đảng cũng đã tăng cường công tác vận động trong quân đội, cả người Việt và người
Pháp. Từ Trung ương đến các địa phương, tất cả đều có ban binh vận.

Việt Minh là mặt trận đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn

luyện một lực lượng chính trị rộng lớn, đóng vai trò quan trọng và quyết định trong cuộc
tổng khởi nghĩa giành chính quyền sau này.

Bên cạnh việc xây dựng lực lượng chính trị, Đảng cũng chú trọng chuẩn bị lực lượng
vũ trang và các căn cứ địa cách mạng.

Dưới sự hướng dẫn của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đội du kích Bắc Sơn đã
được duy trì và phát triển thành lực lượng Cứu quốc quân. Sau tám tháng hoạt động khó
khăn, một nhóm của Cứu quốc qn đã thốt khỏi vịng vây của quân Pháp và tiến về biên
giới phía Bắc, nhưng đã bị phục kích và chịu tổn thất nặng nề trên đường. Nhóm Cứu quốc
qn cịn lại đã phân tán và tiếp tục hoạt động tại chỗ, phát triển cơ sở chính trị.

Vào cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định thành lập một đội vũ trang tại
Cao Bằng để thúc đẩy sự phát triển của cơ sở chính trị và chuẩn bị cho việc xây dựng lực
lượng vũ trang. Vào tháng 12/1941, Trung ương Đảng đã phát đi thông cáo về Cuộc chiến
tranh Thái Bình Dương và nhấn mạnh trách nhiệm cấp bách của Đảng, yêu cầu các đảng bộ
địa phương phải kích động nhân dân đấu tranh chống lại việc địch bắt lính và phu, chống lại
việc cướp bóc tài sản của nhân dân, đòi tăng lương và giảm giờ làm cho công nhân, củng cố
và mở rộng các đội tự vệ cứu quốc, thành lập các nhóm du kích nhỏ để tiến tới việc thành

13

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

lập các đội du kích chính thức, mở rộng cơ sở quần chúng và lực lượng vũ trang ở các khu
vực du kích… và tiến tới phát động khởi nghĩa giành chính quyền khi có cơ hội.

Vào tháng 10/1944, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho tồn dân, thơng báo về chủ trương

của Đảng liên quan đến việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân. Bức thư nhấn mạnh: “Kẻ
xâm lược sắp đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh sắp giành được chiến thắng cuối cùng.
Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ cịn trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian
rất gấp. Chúng ta phải hành động nhanh!”

Cuối năm 1944, tại Cao-Bắc-Lạng, cấp ủy địa phương đã nhanh chóng chuẩn bị cho
việc phát động chiến tranh du kích trong ba tỉnh. Lúc đó, Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở về
Cao Bằng và đã kịp thời quyết định hỗn việc phát động chiến tranh du kích trên quy mơ lớn
do chưa đủ điều kiện. Sau đó, Hồ Chí Minh đã ban hành Chỉ thị về việc thành lập Đội Việt
Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt động
và phương châm tác chiến của lực lượng vũ trang. Chỉ thị này có giá trị như một bản cương
lĩnh quân sự tóm tắt của Đảng.

Vào ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân, do Võ Nguyên
Giáp tổ chức, đã được thành lập tại Cao Bằng. Chỉ ba ngày sau, đội này đã liên tiếp giành
chiến thắng trong hai trận đánh tại Phai Khải (ngày 25/12) và Nà Ngần (ngày 26/12). Đội
này đã tăng cường hoạt động vũ trang và tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây
dựng cơ sở cách mạng, qua đó góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao-Bắc-Lạng.

Ngày 24/12/1944, một đoàn của Tổng bộ Việt Minh, do Hoàng Quốc Việt dẫn đầu, đã
sang Trung Quốc để liên lạc với các nước Đồng Minh nhằm phối hợp chống lại Nhật Bản.
Vào tháng 02/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng đã đến Trung Quốc để tìm kiếm sự hỗ trợ của
Đồng minh trong cuộc chiến chống lại phát xít Nhật.

3.3. Cao trào kháng Nhật cứu nước
Vào đầu năm 1945, khi Thế chiến thứ hai đang tiến tới hồi kết, Đảng đã nhận định

chính xác tình hình và hành động ngay trước khi Nhật Bản lật đổ Pháp. Tổng Bí thư Trường
Chinh đã triệu tập một Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng tại làng Đình
Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) để phân tích tình hình và đề ra một chủ trương chiến lược mới.


14

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

Ngày 12/03/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị “Nhật, Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”, làm rõ rằng hành động của Nhật Bản vào ngày 09/03/1945
là một cuộc đảo chính để tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; và xác định rằng kẻ thù cụ
thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đơng Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật.
Chỉ thị này đã thay đổi khẩu hiệu từ “đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp” sang “đánh đuổi phát
xít Nhật” và nêu lên khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đơng
Dương” để chống lại chính phủ thân Nhật.

Chỉ thị này đã quyết định phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước, thể hiện sự
lãnh đạo kiên quyết và kịp thời của Đảng. Đây đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động
của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật cứu nước và có ý nghĩa quyết định đối
với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Việt Minh, từ giữa tháng 03/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra sôi nổi
và mạnh mẽ.

Chiến tranh du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần đã nổ ra ở vùng thượng du và
trung du Bắc kỳ. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân và Cứu quốc Quân đã phối hợp
với lực lượng chính trị để giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng,
Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang…

Ngày 16/04/1945, Tổng bộ Việt Minh đã ra chỉ thị về việc tổ chức Ủy ban Giải phóng
Việt Nam. Ngày 15/05/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị quân
sự cách Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang). Hội nghị đã quyết định thống nhất các lực lượng

vũ trang thành Việt Nam Giải phóng Quân, phát triển lực lượng bán vũ trang và xây dựng
bảy chiến khu trên khắp cả nước. Hội nghị cũng đã thúc đẩy hoạt động vũ trang tuyên
truyền, diệt ác trừ gian, tạo điều kiện phát triển các tổ chức cứu quốc trong các tầng lớp nhân
dân thành thị và xây dựng lực lượng tự vệ cứu quốc.

Ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết nạn đói” đã
thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng nổi dậy với
khí thế cách mạng hùng hồn, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Báo chí cách mạng
của Đảng và mặt trận Việt Minh đã cơng khai hoạt động, gây ảnh hưởng chính trị sâu rộng.

15

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

Cao trào kháng Nhật cứu nước đã khơng chỉ khích lệ sự tham gia của đông đảo quần
chúng từ công nhân, nông dân, tiểu thương, học sinh, viên chức, mà còn thu hút cả tư sản
dân tộc và một số địa chủ nhỏ vào hoạt động cách mạng. Sự kiểm sốt của chính quyền Nhật
đã trở nên tê liệt ở nhiều nơi. Khơng khí chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa đã nóng lên khắp cả
nước.

Bản chất của cao trào này là một loạt các cuộc khởi nghĩa từng phần và chiến tranh
du kích địa phương, nhằm giành lấy quyền lực ở những nơi có điều kiện thuận lợi. Đây là
một cuộc chiến đấu hào hùng, đã mở rộng được trận địa cách mạng, tăng cường lực lượng
cách mạng, và khiến cho toàn Đảng, toàn dân sẵn sàng và chủ động tiến lên, nắm bắt cơ hội
khởi nghĩa khi thời cơ đến.

3.4. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Vào giữa tháng 08/1945, khi Chiến tranh thế giới thứ hai đang đi đến hồi kết, chính


phủ Nhật đã tuyên bố đầu hàng không điều kiện với Đồng minh vào ngày 15/08/1945, mở ra
cơ hội cách mạng. Trong bối cảnh đó, một số thành viên trong Chính phủ Bảo Đại-Trần
Trọng Kim đã tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cường quốc khác với hy vọng duy trì chế độ quân
chủ.

Mặc dù đã hợp tác với Việt Minh trong cuộc chiến chống Nhật, Chính phủ Mỹ sau đó
đã khơng hỗ trợ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Cơ hội giành chính
quyền chỉ kéo dài từ lúc Nhật đầu hàng cho đến khi quân Đồng minh tiến vào Đông Dương,
khoảng nửa cuối tháng Tám năm 1945.

Trong tình hình đó, việc giành chính quyền trở thành một cuộc chạy đua với thời
gian, và Đảng cùng nhân dân Việt Nam không thể chậm trễ. Họ không chỉ cần nắm bắt cơ
hội mà cịn phải đối phó với những nguy cơ để đưa cách mạng đến thành công.

Ngày 12/08/1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng đã ra lệnh khởi nghĩa. Ngày 13/08,
Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. Vào lúc
23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc đã ban bố “Quân lệnh số 1”, phát động lệnh
tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.

16

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

Ngày 14 và 15/08/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã được tổ chức tại Tân Trào
dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh, tập trung phân tích
tình hình và dự đốn rằng quân Đồng minh sắp vào Việt Nam và Pháp có ý định khơi phục
lại địa vị cũ ở Đơng Dương. Hội nghị đã quyết định phát động toàn dân nổi dậy, tổng khởi

nghĩa để giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh tiến vào Đông
Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là “Phản đối xâm lược! Hồn tồn độc lập! Chính
quyền nhân dân!” và phát động lệnh tổng khởi nghĩa trên toàn quốc.

Sau khi đánh giá tình hình, Thành ủy Hà Nội đã kết luận rằng đã có đủ điều kiện để
phát động tổng khởi nghĩa.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu sự kết
thúc của 15 năm đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương. Sự kiện này diễn ra trong bối cảnh thuận lợi khi Nhật Bản, kẻ thù trực tiếp của nhân
dân Việt Nam, đã đầu hàng Đồng minh và quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết tinh thần
chiến đấu. Chính quyền thân Nhật cũng đã suy yếu, tạo điều kiện cho nhân dân Việt Nam
tổng khởi nghĩa và giành chính quyền.

Vào ngày 23/08/1945, Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên-Huế đã huy động quần chúng
từ các huyện đã giành được chính quyền ở ngoại thành, và bộ máy chính quyền cùng quân
đội Nhật đã hoàn toàn tê liệt. Quần chúng đã chiếm các công sở mà không gặp phải sức
kháng cự nào. Sáng ngày 25/08, hơn một triệu người đã biểu tình tuần hành, và qn khởi
nghĩa đã chiếm các cơng sở, dẫn đến sự thành cơng nhanh chóng của cuộc khởi nghĩa.

Những cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các đô thị khác đã phá vỡ các cơ
quan đầu não của kẻ thù, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cả nước. Ngày
25/08/1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Ủy ban Dân tộc giải phóng đã trở
về Hà Nội. Vào ngày 30 tháng 8, tại cuộc mít tinh ở Ngọ Mơn, thành phố Huế, Bảo Đại đã
thoái vị và giao nộp ấn kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.

Cùng ngày, Hồ Chí Minh đã mời các cán bộ trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng
và các bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời đến trao đổi và góp ý kiến cho bản dự thảo Tuyên


17

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

ngôn Độc lập. Đây là những bước đi quan trọng hướng tới việc tuyên bố độc lập của Việt
Nam, đánh dấu sự thành công của cách mạng và sự khởi đầu của một quốc gia mới.
KẾT LUẬN

Quả thực, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện lịch sử đáng ghi nhớ,
khơng chỉ cho Việt Nam mà cịn cho cả phong trào giải phóng dân tộc trên tồn thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam, dù chỉ mới thành lập được 15 năm, đã chứng minh khả năng lãnh
đạo và tổ chức một cuộc cách mạng thành công, giành lại quyền lực từ tay kẻ chiếm đóng và
thiết lập một chính quyền độc lập. Điều này đã biến Việt Nam từ một quốc gia thuộc địa trở
thành một quốc gia tự chủ, nơi người dân có quyền tự quyết định tương lai và số phận của
mình. Đây là một bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới
trong lịch sử Việt Nam.

18

Downloaded by linh tran ()

lOMoARcPSD|39472803

CHƯƠNG VI: TÀI LIỆU THAM KHẢO
N. T. Phúc (2019). Giáo trình Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (Đối tượng: Khối các
ngành ngồi lý luận chính trị). Hà Nội

19


Downloaded by linh tran ()


×