Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Đáp án nghiệp vụ chuyên ngành (đã sửa) (4)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.3 KB, 57 trang )

TRẢ LỜI MÔN NGHIỆP VỤ CHUYÊN NGÀNH

Câu 1. Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự

- Điểu 112 BLTTHS năm 2003 quy định, khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điểu tra các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
(1 điểm)

+ Khởi tố vụ án hình sự.(1,5 điểm)
+ Khởi tố bị can.(1,5 điểm)
+ Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can theo quy định của BLTTHS; (1,5 điểm)
+ Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; (1,5 điểm)
+ Khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định
của BLTTHS; (1,5 điểm)
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của
BLTTHS; (1,5 điểm)
+ Nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; (1,5
điểm)
+ Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các
biện pháp ngăn chặn khác; (1,5 điểm)
+ Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan
điều tra theo quy định của BLTTHS. (1,5 điểm)
+Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu
rõ lý do; (1,5 điểm)
+ Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; (1,5
điểm)
+ Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; (1,5 điểm)
+ Quyết định việc truy tố bị can; (1,5 điểm)
+ Quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. (1,5 điểm)


Theo quy định tại Điều 113 BLTTHS năm 2003, khi thực hiện công tác kiểm sát điều
tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: (1 điểm)
+ Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của
Cơ quan điều tra; (1 điểm)
+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; (1 điểm)
+ Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; (1 điểm)
+ Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra; (1 điểm)
+ Yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều
tra viên; (1 điểm)
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm
pháp luật trong khi tiến hành điều tra; (1 điểm)

1

+ Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội
phạm và vi phạm pháp luật. (1 điểm)

Câu 2. Trình bày nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, phó
Viện trưởng Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự

Theo Điều 33 của Bộ luật TTHS năm 2003, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân là những người tiến hành tố tụng.

- Điều 36 BLTTHS năm 2003 quy định, trong tố tụng hình sự Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau đây:

* Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
+ Tổ chức và chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự;

+ Quyết định phân công Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án
hình sự;
+ Kiểm tra các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
+ Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án theo quy định của pháp luật;
+ Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
+ Quyết định rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật của Viện kiểm sát cấp dưới;
+ Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
* Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Viện trưởng như sau:
+ Khi Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng
uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng.
+ Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
* Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
+ Quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị
can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi
tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên;
+ Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định gia hạn
điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
+ Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan
điều tra;
+ Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan
điều tra;

+ Quyết định chuyển vụ án;

2

+ Quyết định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng
cầu giám định;

+ Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, quyết định phục hồi điều tra, quyết
định xử lý vật chứng;

+ Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Toà án;
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các
hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
* Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ và quyền hạn như Viện trưởng Viện kiểm sát
- Trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
+ Theo Khoản 4, Điều 36 BLTTHS 2003, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
+ Điều 4 BLTTHS năm 2003 quy định khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm
sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các qùn và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp
thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc
khơng cịn cần thiết nữa.
+ Theo quy định tại Điều 14 BLTTHS quy định: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được tiến
hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám định không được tham gia tố tụng, nếu có

lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
+ Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 tại Điều 73 quy định về Trách nhiệm của
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp như sau: Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp, pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi,
quyết định của mình trong việc khởi tố, bắt, giam, giữ, truy tố, tranh tụng, kháng nghị và
các hành vi, quyết định khác thuộc thẩm quyền; nếu làm trái pháp luật thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
(Một cách trả lời khác* Theo quy định tại Khoản 2 Điều 33 của BLTTHS năm 2003,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân là những người tiến hành tố tụng.
* Theo quy định tại Điều 36 BLTTHS năm 2003, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát trong tố tụng hình sự có nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau đây:
- Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
+ Tổ chức và chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự;

3

+ Quyết định phân công Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án
hình sự;

+ Kiểm tra các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tố tụng hình sự của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;

+ Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án theo quy định của pháp luật;


+ Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;

+ Quyết định rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp
luật của Viện kiểm sát cấp dưới;

+ Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Viện trưởng như sau:
+ Khi Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng
uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng.
+ Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
- Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
+ Quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị
can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi
tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên;
+ Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định gia hạn
điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
+ Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan
điều tra;
+ Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan
điều tra;
+ Quyết định chuyển vụ án;
+ Quyết định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng
cầu giám định;
+ Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, quyết định phục hồi điều tra, quyết
định xử lý vật chứng;

+ Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Toà án;
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các
hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
- Khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ và quyền hạn như Viện trưởng Viện kiểm sát

4

- Theo Khoản 4 Điều 36 BLTTHS 2003 thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.

* Bên cạnh đó cịn một sớ quy định chung cho những người tiến hành tố tụng
- Điều 4 BLTTHS năm 2003 quy định khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm
sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách
nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
thường xun kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp
thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc
khơng cịn cần thiết nữa.
- Điều 14 BLTTHS quy định: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh
án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được tiến hành tố tụng hoặc người
phiên dịch, người giám định không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho
rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
* Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014 tại Điều 73 quy định về Trách nhiệm của
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp như sau: Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động
tư pháp, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải nghiêm chỉnh chấp
hành Hiến pháp, pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi,

quyết định của mình trong việc khởi tố, bắt, giam, giữ, truy tố, tranh tụng, kháng nghị và
các hành vi, quyết định khác thuộc thẩm quyền; nếu làm trái pháp luật thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.)
Câu 3. Phân tích các điều kiện của phòng vệ chính đáng và điều kiện của vượt
quá giới hạn chính đáng phòng vệ chính đáng
* Điều kiện của phòng vệ chính đáng:
Khoản 1 Điều 15 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung 2009 quy định:
“1. Phịng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ
chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chớng trả lại
một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm.
- Điều kiện 1: Theo Điều 15 BLHS, cơ sở làm phát sinh quyền phịng vệ là sự tấn
cơng đang hiện hữu, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể, quyền hoặc lợi
ích chính đáng của mình hoặc của người khác.
Quyền hoặc lợi ích chính đáng bị xâm phạm có thể là quyền nhân thân, quyền sở hữu,
có thể bị xâm phạm qua những hành động của người tấn công (hành động cướp, hiếp
dâm…) hoặc cũng có thể qua không hành động (hành vi không cấp cứu người bị tai nạn
của bác sỹ mà khơng có lý do chính đáng). Hành vi tấn cơng xâm hại lợi ích hợp pháp
được quy định trong luật hình sự bao gồm: hành vi phạm tội và những hành vi nguy hiểm
cho xã hội khác như hành vi của người chưa đủ tuổi chịu TNHS, hành vi của người không

5

có năng lực TNHS, những hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến mức bị coi là tội
phạm…

- Điều kiện 2: Hành vi tấn công phải có thật và đang diễn ra chứ không phải do suy
đoán tưởng tượng.


Sự tấn công phải có thật, nghĩa là sự xâm hại đới với những lợi ích được pháp luật
bảo vệ phải tồn tại khách quan chứ không phải do suy đoán, tưởng tượng vì người thực
hiện hành vi phòng vệ tưởng tượng phải chịu TNHS do trên thực tế lợi ích hợp pháp
khơng bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại, trong khi hành vi phòng vệ tưởng tượng lại xâm
hại đến lợi ích được pháp luật bảo vệ nên họ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do hành vi
của họ gây nên. Hành vi tấn cơng xâm hại lợi ích hợp pháp phải đang xảy ra thì hành vi
phòng vệ mới được coi là hợp pháp và là PVCĐ. Được coi là hành vi tấn công đang xảy ra
khi người tấn công đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong cấu thành tội phạm,
lợi ích hợp pháp bị xâm hại và hành vi phạm tội đó chưa kết thúc. Ngoài ra, khoa học pháp
lý và thực tiễn áp dụng pháp luật còn thừa nhận cả trường hợp hành vi tấn công chưa xảy
ra nhưng có nguy cơ thực tế xảy ra ngay tức khắc, nếu không ngăn chặn kịp thời thì lợi ích
hợp pháp không thể bảo vệ được.

- Điều kiện 3: PVCĐ phải gây thiệt hại cho chính người đang có hành vi tấn cơng chứ
khơng được gây thiệt hại cho lợi ích của người khác.

Quy định này xuất phát từ mục đích của PVCĐ ḿn ngăn chặn được sự tấn cơng và
bảo vệ được lợi ích hợp pháp, người có hành vi phịng vệ phải hướng sự chớng trả của
mình vào việc gây thiệt hại cho người đang có hành vi tấn cơng. Hành vi của người phịng
vệ chỉ được chớng trả gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người có hành vi tấn công
chứ không được gây thiệt hại cho các lợi ích khác của người đang có hành vi tấn công vì
chỉ cần gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho người đang có hành vi tấn công đã đủ làm
tê liệt nguồn gốc làm phát sinh sự tấn công, bảo vệ được lợi ích hợp pháp nên gây thiệt hại
cho các lợi ích khác của người tấn công là không cần thiết.

- Điều kiện 4: Giữa hành vi phịng vệ và hành vi tấn cơng phải có sự tương xứng.
Tương xứng giữa hành vi phòng vệ và hành vi tấn công không có nghĩa là sự ngang
bằng theo nghĩa cơ học, người tấn công sử dụng công cụ, phương tiện gì thì người phịng
vệ cũng sử dụng cơng cụ, phương tiện đó hoặc hành vi tấn công gây thiệt hại đến mức nào
thì người phòng vệ cũng được quyền gây thiệt hại đến mức độ đó… mà phải hiểu là sự

tương xứng về tính chất và mức độ giữa hành vi phịng vệ và hành vi tấn cơng. Việc xác
định sự tương xứng phải dựa vào các yếu tố sau:
+ Dựa vào tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại: hành vi tấn cơng xâm hại tới quan
hệ xã hội có tính chất càng quan trọng thì đòi hỏi hành vi phòng vệ với cường độ cao thì
lợi ích hợp pháp mới có thể được bảo vệ.
+ Dựa vào tính chất của hành vi tấn cơng: hành vi tấn công sử dụng công cụ, phương
tiện, phương pháp nguy hiểm thì nguy cơ gây thiệt hại cho các lợi ích hợp pháp càng lớn,
do vậy phải có sự chống trả quyết liệt mới có khả năng bảo vệ được lợi ích hợp pháp và
ngược lại.
+ Dựa vào lực lượng (số người tham gia tấn công).
+ Dựa vào sự quyết tâm của người tấn công.

6

+ Căn cứ vào thời gian, địa điểm và những hoàn cảnh cụ thể khác khi xảy ra sự việc
Tương xứng không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại
phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho
người phòng vệ. Trong phịng vệ chính đáng, luật khơng đặt ra vấn đề tương xứng về mặt
hậu quả, có nghĩa là hậu quả gây ra ở phịng vệ chính đáng có thể lớn hơn hậu quả gây ra
của hành vi tấn công nếu như sự gây hậu quả đó là cần thiết, phù hợp với hoàn cảnh và
mức độ của hành vi tấn công.
Một hành vi được coi là phịng vệ chính đáng khi thỏa mãn đầy đủ 4 điều kiện nêu
trên. Việc xác đinh một hành vi có được coi là phịng vệ chính đáng hay không có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự vì theo Luật hình sự quy định hành vi
phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm.
* Điều kiện phòng vệ vượt quá giới hạn:
Khoản 2 Điều 15 BLHS quy định: “Vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng là hành
vi chớng trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình

sự.”
- Điều kiện vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng giớng với điều kiện của
phịng vệ chính đáng ở chỗ cơ sở phát sinh cùng là sự tấn cơng đang hiện hữu xâm phạm
đến lợi ích Nhà nước, tập thế, quyền và lợi ích của mình hoặc của người khác và sự chớng
trả của người phịng vệ phải nhằm vào chính người tấn cơng, vào chính người đang gây ra
nguy hiểm cho xã hội: sự chống trả này có thể nhằm vào trực tiếp người tấn công hoặc
nhắm vào công cụ, phương tiện của người tấn công đang sử dụng nhưng khác nhau ở
phạm vi phòng vệ.
- Hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại
Điều kiện được coi vượt quá phịng về chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá
mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
xâm hại. Tức là mức độ gây thiệt hại của hành vi phòng vệ cao hơn mức độ gây thiệt hại
của hành vi tấn công, nhưng sự gây thiệt hại quá mức này phải là khơng cần thiết và khơng
phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm tương ứng, nhưng trách nhiệm hình sự không giống với những trường hợp
khác, do đây là một tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 46
BLHS
*Ý nghĩa của việc xác định một hành vi là phịng vệ chính đáng hay vượt quá giới
hạn phịng vệ chính đáng
- Xác định một hành vi được coi là phịng vệ chính đáng có ý nghĩa quan trọng trong
việc định tội danh. Luật quy định hành vi phòng vệ chính đáng khơng bị coi là tội phạm
- Xác định một hành vi là vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác quyết định hình phạt, định khung hình phạt. Luật coi phạm tội trong
trường vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng là một tình tiết giảm nhẹ TNHS

7

Câu 4. Dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội phạm

- Khái niệm mặt khách quan của tội phạm: Là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Mặt
khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm. (2 điểm)
- Các dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy
hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả; công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội. (2
điểm)
- Hành vi khách quan là dấu hiệu cơ bản trong mặt khách quan của tội phạm, là dấu
hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm. Không có hành vi khách quan thì không có
tội phạm. (2 điểm)
- Đặc điểm của dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội phạm:
+ Có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội: Hành vi khách quan của tội phạm xâm hại
đến những quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự, vì thế đã gây ra hoặc đe
dọa gây ra thiệt hại đáng kể. (3 điểm)
+ Là hoạt động có ý thức và ý chí. Hành vi khách quan của tội phạm phải là hành vi
được ý thức của chủ thể kiểm soát và ý chí của chủ thể điều khiển. (3 điểm)
+ Là hành vi trái pháp luật hình sự: Hành vi đó phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu
của tội phạm được quy định trong Luật hình sự, nên thường gọi là tính được quy định
trong Luật hình sự hay tính trái pháp luật hình sự. (3 điểm)
- Hình thức thể hiện của hành vi khách quan của tội phạm:
+ Hành động (phạm tội):
Là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng tác động tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể làm
một việc bị pháp luật cấm. (2 điểm)
Biểu hiện của hành động (phạm tội) có thể chỉ là động tác đơn giản, xảy ra một lần
trong thời gian ngắn hoặc có thể là tổng hợp nhiều động tác khác nhau hoặc có thể lặp đi
lặp lại liên tục trong thời gian dài. Hành động (phạm tội) có thể là tác động trực tiếp vào
đối tượng tác động của tội phạm hoặc có thể thông qua công cụ, phương tiện. Hành động
phạm tội có thể được thực hiện qua lời nói hoặc việc làm… (2 điểm)
+ Không hành động (phạm tội):

Là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối
tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể
không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm, mặc dù có đủ điều kiện để làm. (2
điểm)

Biểu hiện: chủ thể đã không làm đã không làm một việc có nghĩa vụ pháp lý phải
làm, trong khi có đủ điều kiện để làm (1 điểm)

Điều kiện để việc không hành động trở thành hành vi phạm tội:
Chủ thể có nghĩa vụ pháp lý phải làm (nghĩa vụ phát sinh do luật định, nghĩa vụ
phát sinh do quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nghĩa vụ phát sinh do nghề
nghiệp, nghĩa vụ phát sinh do hợp đồng, nghĩa vụ phát sinh do xử sự trước đó của chủ
thể).

8

Chủ thể có đủ điều kiện để thực hiện nghĩa vụ, tức là có đủ khả năng (năng lực cá
nhân để hành động thực hiện nghiac vụ) và điều kiện (yếu tố khách quan để thực hiện
nghĩa vụ, như có máy móc, thiết bị, dụng cụ hỗ trợ…) (2 điểm)

- Các dạng cấu trúc đặc biệt của hành vi khách quan:
+ Tội ghép: là tội phạm mà hành vi khách quan được hình thành bởi nhiều hành vi

khác nhau xảy ra đồng thời, xâm hại các khách thể khác nhau. (1 điểm)
+ Tội kéo dài: là tội phạm mà hành vi khách quan có khả năng diễn ra không gián

đoạn trong khoảng thời gian dài.(1 điểm)
+ Tội liên tục: là tội phạm có hành vi khách quan bao gồm nhiều hành vi cùng loại

xảy ra kế tiếp nhau về mặt thời gian, xâm hại cùng khách thể và đều bị chi phối bởi ý định

phạm tội cụ thể thống nhất. (1 điểm)

- Ý nghĩa của việc xác định dấu hiệu hành vi trong mặt khác quan của tội phạm:
+ Trong việc định tội: Giúp xác định hành vi đã thực hiện có cấu thành tội phạm hay
không, cấu thành tội gì. (1 điểm)
+ Trong việc định khung hình phạt: Hành vi thực hiện được quy định tại khung hình
phạt nào. (1 điểm)
+ Trong việc quyết định hình phạt.(1 điểm)
Câu 5. Phân biệt trường hơp vô ý phạm tội vì cẩu thả với trường hợp gây hậu
quả nguy hại cho xã hội vì sự kiện bất ngờ theo quy định của BLHS.
1. Các khái niệm
- Vô ý phạm tội vì cẩu thả là lỗi trong trường hợp người phạm tội đã gây ra hậu quả
nguy hại cho xã hội, do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả đó, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. (3 điểm)
- Vô ý phạm tội do cẩu thả là một trong hai hình thức của lỗi vô ý phạm tội (1 điểm)
- Trường hợp sự kiện bất ngờ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã
hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải
thấy trước hậu quả của hành vi đó (3 điểm)
2. Phân biệt trường hợp vô ý phạm tội do cẩu thả với trường hợp sự kiện bất ngờ:
- Giống nhau:
+ Đều là hành vi nguy hiểm cho xã hội (1 điểm)
+ Hậu quả nguy hại cho xã hội đã xảy ra (1 điểm)
- Khác nhau:
+ Người vô ý phạm tội do cẩu thả không thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của
hành vi của mình.
Người gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ không thấy trước hoặc có
thể thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi của mình (4 điểm)
+ Người vô ý phạm tội do cẩu thả buộc phải thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội
của hành vi của mình
Người vô ý phạm tội do cẩu thả không thấy trước nhưng có khả năng thấy trước hậu

quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của họ đã gây ra nếu họ có sự chú ý cần thiết, người
vô ý phạm tội do cẩu thả có nghĩa vụ phải tuân thủ những quy tắc xử sự chung trong cuộc

9

sống đã được mặc nhiên thừa nhận, nghĩa vụ phát sinh từ địa vị của họ trong hoàn cảnh cụ
thể…nên họ buộc phải thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội của hành vi của mình.

Người gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ không có khả năng thấy
trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của họ đã gây ra mặc dù có sự chú ý cần
thiết, nên họ không có nghĩa vụ (không buộc) phải thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội
của hành vi của mình. (6 điểm)

+ Về nguyên nhân dẫn tới hành vi gây hậu quả thiệt hại cho xã hội:
Trường hợp vô ý phạm tội do cẩu thả có nguyên nhân chủ quan, do người thực hiện
hành vi cẩu thả, thiếu thận trọng khi xử sự.
Trường hợp sự kiện bất ngờ có nguyên nhân khách quan, người thực hiện hành vi
không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả nguy hại. (4 điểm)
+ Về hậu quả pháp lý:
Người vô ý phạm tội do cẩu thả được coi là có lỗi, do đó phải chịu trách nhiệm hình
sự.
Người gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ không có lỗi, do không
phải chịu trách nhiệm hình sự. (4 điểm)
- Ý nghĩa: việc phân biệt hai trường hợp vô ý phạm tội vì cẩu thả với gây thiệt hại do
sự kiện bất ngờ có ý nghĩa giúp xác định hành vi đã xảy ra trong hai trường hợp trên là có
tội hay không có tội. (3 điểm)
Câu 6. Hãy cho biết nhân thân người phạm tội có ý nghĩa như thế nào trong việc
giải quyết trách nhiệm hình sự của họ và tại sao có ý nghĩa đó.
*Khái niệm nhân thân người phạm tội và mối liên hệ của nhân thân người phạm tội

với trách nhiệm hình sự của họ:
- Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm
riêng biệt của người phạm tội. Những đặc điểm này có thể là về mặt xã hội, về tâm lý và
về sinh học. Đó là những đặc điểm như tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, lới
sớng, hoàn cảnh gia đình và bản thân, ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức lao động,
tôn giáo, tiền án, tiền sự. (4 điểm)
- Những đặc điểm nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc giải
quyết TNHS của người phạm tội vì:
+ Các đặc điểm đó ảnh hưởng tới tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm
tội. (3 điểm)
+ Các đặc điểm đó ảnh hưởng tới khả năng cải tạo và giáo dục của người phạm tội. (3
điểm)
* Ý nghĩa của nhân thân người phạm tội trong việc giải quyết TNHS của họ:
- Có ý nghĩa khi xác định TNHS. Ví dụ: trong nhiều tội phạm, dù chưa gây ra những
hậu quả đã được quy định nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm nếu người thực hiện có
tiền án, tiền sự (được quy định cụ thể trong điều luật). (4 điểm)
- Có ý nghĩa định khung hình phạt. Ví dụ: trong nhiều tội phạm, những đặc điểm
nhân thân người phạm tội là tình tiết định khung tăng nặng, như “tái phạm nguy hiểm” (4
điểm)

10

- Có ý nghĩa khi quyết định hình phạt. Một số đặc điểm về nhân thân người phạm tội
được quy định là tình tiết giảm nhẹ TNHS hoặc tăng nặng TNHS tại Điều 46 và 48 BLHS
(4 điểm)

- Có ý nghĩa khi xem xét để áp dụng các chế định như: miễn TNHS, miễn hình phạt,
miễn chấp hành hình phạt, án treo,... (4 điểm)

- Ngoài ra trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, căn cứ vào nhân thân người

phạm tội có thể làm sáng rõ các vấn đề như lỗi, động cơ và mục đích phạm tội ...Trong
việc cải tạo giáo dục người phạm tội, để đạt hiệu quả cũng cần phải dựa vào nhân thân của
họ để có những biện pháp phù hợp. (4 điểm)

Câu 7. Phân biệt lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin theo quy
định của BLHS

* Khái niệm:
- Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. (2
điểm)
- Lỗi cố ý có hai hình thức là cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp (1 điểm)
- Lỗi vô ý có hai hình thức là vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả (1 điểm)
- Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận
thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy
không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. (3 điểm)
- Lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin là lỗi trong trường hợp người phạm tội tuy thấy
trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả
đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vẫn thực hiện và đã gây ra hậu quả
nguy hại đó. (3 điểm)
* Phân biệt lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý phạm tội vì quá tự tin:
- Giống nhau:
+ Người phạm tội đều nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của mình, đều thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi đó có thể gây ra. (1
điểm)
+ Người phạm tội đều không mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra.
(1 điểm)
- Khác nhau:
+ Hình thức lỗi: Lỗi cố ý gián tiếp và lỗi vô ý vì quá tự tin khác nhau về hình thức
lỗi. (2 điểm)

+ Về lý trí: Tuy đều nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của
mình nhưng người có lỗi cố ý gián tiếp nhận thức đầy đủ tính chất phạm tội của hành vi
của mình. Họ thấy trước cả khả năng xảy ra và không xảy ra của hậu quả nguy hiểm cho
xã hội của hành vi của mình, nhưng đối với họ, khả năng nào xảy ra cũng được. Còn đối
với người phạm tội do lỗi vô ý vì quá tự tin, người có lỗi nhận thức không đầy đủ tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình. Họ thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội
có thể xảy ra hoặc không xảy ra nhưng họ dựa vào những tình tiết thực tế và cụ thể để loại

11

trừ khả năng hậu quả xảy ra. Đối với họ, chỉ cịn lại khả năng hậu quả khơng xảy ra nên họ
mới thực hiện hành vi. (5 điểm)

+ Về ý chí: Tuy đều khơng mong muốn hậu quả nguy hại cho xã hội xảy ra nhưng ý
chí của người phạm tội trong hai trường hợp này không giống nhau. Người phạm tội với
lỗi cố ý gián tiếp có ý thức chấp nhận hậu quả đó nếu xảy ra, cịn người phạm tội với lỗi
vơ ý vì quá tự tin không mong muốn hậu quả xảy ra mà cho rằng, với những điều kiện
khác quan và chủ quan, hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. (5 điểm)

Từ đó thấy rằng, trách nhiệm pháp lý mà người có lỗi cố ý gián tiếp phải gánh chịu là
do có thái độ bỏ mặc đối với hậu quả, cịn với người có lỗi vơ ý vì quá tự tin là do đã quá
tự tin khi đánh giá, lựa chọn cách xử sự dẫn đến việc gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội.
(2 điểm)

- Ý nghĩa:
+ Việc phân biệt lỗi cố ý gián tiếp với lỗi vô ý vì quá tự tin là cơ sở để định tội đúng
trong những trường hợp lỗi cố ý gián tiếp hay lỗi vô ý vì quá tự tin là yếu tố bắt buộc trong
cấu thành tội phạm cụ thể. (2 điểm)
+ Trong những trường hợp hành vi phạm tội giống nhau nhưng thực hiện do lỗi khác
nhau thì việc phân biệt lỗi cố ý gián tiếp với lỗi vô ý vì quá tự tin có ý nghĩa đánh giá mức

độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, làm căn cứ để quyết định hình phạt. Người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội với lỗi cố ý gián tiếp phải chịu trách nhiệm pháp
lý nghiêm khắc hơn so với việc thực hiện hành vi đó với lỗi vô ý vì quá tự tin. (2 điểm)
Câu 8. Trình bày khái niệm, các ăn cứ để cho hưởng án treo. Phân biệt án treo
với hình phạt cải tạo không giam giữ.
1. Khái niệm án treo: là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Án treo thể hiện tính nhân đạo của đạo luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến
khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực xã hội
cũng như gia đình, (3 điểm)
2. Các căn cứ cho hưởng án treo:
- Về mức hình phạt tù
+ Những người bị tịa án phạt tù khơng quá 3 năm, không kể tội đã phạm là tội gì đều
có thể được xem xét cho hưởng án treo (2 điểm).
+ Trường hợp bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà hình phạt chung không
quá 3 năm tù thì cũng thuộc diện được xem xét cho hưởng án treo. Tuy nhiên, trường hợp
này phải được xem xét thận trọng và chặt chẽ hơn để quyết định có cho hưởng án treo hay
không (2 điểm).
- Về nhân thân người phạm tội
+ Người được hưởng án treo phải là người có thân nhân tương đới tớt. Đó là người
chấp hành đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của
bản thân với tư cách là thành viên trong xã hội, nói chung họ là người chưa có tiền án, tiền
sự (3 điểm)
+ Đối với những người có tiền án, tiền sự, nếu xét tính chất của tiền án, tiền sự cùng
với tính chất của tội phạm mới thực hiện và các căn cứ khác thấy không cần bắt chấp hành

12

hình phạt tù thì cũng có thể cho hưởng án treo nhưng tinh thần chung là hạn chế và thật
chặt chẽ (2 điểm).


+ Khi đánh giá nhân thân người phạm tội phải xem xét toàn diện tất cả các đặc điểm
về nhân thân, trong đó cần chú ý những đặc điểm nhân thân ảnh hưởng đến khả năng tự
giáo dục, cải tạo. Thái độ của người phạm tội sau khi gây án và khi bị xét xử cũng có ý
nghĩa nhận định đến việc cho họ hưởng án treo hay không. Vì những đặc điểm nhân thân
của người phạm tội không chỉ là căn cứ quan trọng của quyết định hình phạt mà còn là căn
cứ cần thiết để xem xét người phạm tội với đều kiện cụ thể có khả năng tự giáo dục, cải
tạo hay không để quyết định cho hưởng án treo. (3 điểm)

- Có tình tiết giảm nhẹ
Có nhiều tình tiết giảm nhẹ có nghĩa là phải có từ 2 tình tiết trở lên trong đó nhất định
phải có một tình tiết ghi nhận tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự (3 điểm).
- Xét thấy không cần phải bắt chấp hành án phạt tù
Phải căn cứ vào u cầu phịng ngừa và chớng tội phạm ở từng loại tội trong môi
trường xã hội cụ thể của từng thời kỳ để các định cần hay không cần bắt người bị phạt tù
phải chấp hành hình phạt tù hay cho hưởng án treo. Người phạm tội được hưởng án treo là
người thực sự có khả năng tự hoàn lương trong môi trường xã hội cụ thể, khơng có nguy
cơ tái phạm, bời tính chất loại tội phạm họ đã thực hiện cũng như do ảnh hưởng xấu của
đối tượng xung quanh (4 điểm).
3. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với án treo:
+ Giống nhau:
Hình phạt cải tạo không giam giữ với án treo được áp dụng đối với người đang có nơi
làm việc ổn định hoặc nơi thường trú rõ ràng, người bị kết án không bị tước quyền tự do
thân thể nhưng họ đều bị Tòa án giao cho cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc chính
quyền địa phương nơi họ thường trú giám sát, giáo dục. (2 điểm)
+ Khác nhau:
Cải tạo khơng giam giữ là hình phạt chính trong hệ thớng hình phạt, cịn án treo là
một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. (2 điểm)
Phạm vi, điều kiện được áp dụng khác nhau: án treo được áp dụng đối với tất cả các
loại tội nếu đáp ứng được các điều kiện theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự. Cịn
hình phạt cải tạo khơng giam giữ chỉ được áp dụng đới với người phạm tội ít nghiêm trọng

hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định. (2 điểm)
Người được hưởng án treo không bị khấu trừ thu nhập cịn người bị kết án cải tạo
khơng giam giữ bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước
(riêng đối với người chưa thành niên phạm tội không bị khấu trừ). (2 điểm)
Câu 9. Phân tích biện pháp tạm giữ theo Điều 86 BLTTHS
- Tạm giữ được quy định tại Điều 79, Điều 86 BLTTHS. Tạm giữ được hiểu là biện
pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng
đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội
tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

13

- Khoản 1 Điều 48 BLHS quy định người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự
thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.

- Khoản 2 Điều 48 BLHS quy định người bị tạm giữ có quyền:
+ Được biết lý do mình bị tạm giữ;
+ Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
+ Trình bày lời khai;
+ Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
+ Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
+ Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng.
- Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của
pháp luật.
- Mục đích tạm giữ:
+ Mục đích của tạm giữ đới với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, người phạm tội đầu thú, tự thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh
pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan điều

tra bước đầu thu thập chứng cứ, tài liệu bước đầu xác định được tính chất hành vi của
người bị tạm giữ.
+ Mục đích của tạm giữ đới với người bị bắt theo quyết định truy nã là để tạo thời
gian cho cơ quan ra quyết định truy nã đến nhận người.
- Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 86
BLTTHS thì tạm giữ được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp sau đây:
+ Những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
+ Những người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang
+ Người phạm tội tự thú, đầu thú
+ Người bị bắt theo quyết định truy nã.
Trong trường hợp người bị bắt phạm tội qua tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính
chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động hoặc
biểu hiện cản trở điều tra thì không cần phải tạm giữ.
Việc tạm giữ đối với bị lệnh truy nã chỉ được đặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra quyết
định truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.
Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường sẽ bị tạm giữ vì trong trường hợp này
cơ quan điều tra đã xác định được phải ngăn chặn người này bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng
cứ.
- Thẩm quyền ra quyết định tạm giữ
+ Theo quy định tại Khoản 2 Điều 86 BLTTHS, những người có quyền ra lệnh tạm
giữ bao gồm:
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy
đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

14

Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển
+ Theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì cơ quan điều tra từ cấp huyện trở lên

mới có quyền ra lệnh tạm giữ. Chính qùn và cơng an cấp xã phường, thị trấn không có
quyền ra lệnh tạm giữ theo tủ tục tố tụng hình sự. Vì vậy khi nhận người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang, người đang bị truy nã UBND xã phường, thị trấn phải tiến
hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải ngay
người bị bắt đến cơ quan có thẩm quyền.
- Thủ tục tạm giữ
+ Việc tạm giữ phải có quyết định của người có thẩm quyền
+ Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải giao
cho người bị tạm giữ một bản.
+ Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải
được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp.
+ Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát
ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do
ngay cho người bị tạm giữ.
+ Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho
người bị tạm giữ.
+ Theo quy định tại Điều 14 Luật tổ chức Viện kiểm sát năm 2014, nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự:
Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm
giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân.
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, các biện
pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy
định của luật.
- Thời hạn tạm giữ
Theo Điều 87 BLTTHS 2003 thì thời hạn tạm giữ được quy định như sau:
+ Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người
bị bắt.
+ Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ,
nhưng không quá ba ngày.

Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần
thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện
kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn
và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn
hoặc quyết định không phê chuẩn.
+ Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính
bằng một ngày tạm giam.
Tạm giữ là những biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, ngăn chặn hành vi phạm tội, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra thu
thập chứng cứ, tài liệu, bước đầu xác định hành vi, tính chất của hành vi phạm tội.

15

Câu 10. Phân tích biện pháp tạm giam theo quy định tại Điều 88 BLTTHS năm
2003

- Tạm giam được quy định tại Điều 88 BLTTHS. Tạm giam là một trong những biện
pháp ngăn chặn do người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo để tiến hành điều
tra, truy tố, xét xử đối với các vụ án (2 điểm)

- Mục đích tạm giam:
+ Ngăn chặn không để bị can, bị cáo có hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy
tố, xét xử (1 điểm)
+ Áp dụng biện pháp tạm giam nhằm mục đích ngăn chặn không để bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội (1 điểm)
+ Để bảo đảm thi hành án (1 điểm)
Đối tượng áp dụng: Theo quy định khoản 1, 2 Điều 88 BLTTHS năm 2003 thì: Tạm
giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây: (1,5
điểm)
+ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng (1,5

điểm)
+ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự
quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội (1,5 điểm)
+ Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng
tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp
dụng biện pháp ngăn chặn khác (1,5 điểm), trừ những trường hợp sau đây:
Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; (1,5 điểm)
Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc
cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; (1,5 điểm)
Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia (1,5 điểm)
- Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
+ Theo quy định tại Khoản 3 Điều 88 những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam
bao gồm: (1 điểm)
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các
cấp; (1,5 điểm)
Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; (1,5 điểm)
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao; Hội đồng xét xử; (1,5 điểm)
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh
tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. (1,5 điểm)
- Thủ tục tạm giam
+ Việc tạm giam phải có lệnh viếtcủa người có thẩm quyền, lệnh tạm giam phải ghi
rõ ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của người ra lệnh; họ tên địa chỉ của người bị tạm
giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam và giao cho người bị tạm giam một bản (1,5
điểm)

16


+ Lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được
Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành (1,5 điểm)

+ Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê
chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. (1,5 điểm)

+ Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc
xét phê chuẩn (1,5 điểm)

+ Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông
báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết (1,5 điểm)

Câu 11. Phân tích nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình sự,
quy định tại Điều 10 BLHTTHS Việt Nam năm 2003

Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là một trong những nguyên tắc cơ bản trong
luật tố tụng hình sự được quy định tại Điều 10 của BLTTHS 2003. Nguyên tắc này có nội
dung như sau:

- Thứ nhất, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp
hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ
những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. (5 điểm)

+ Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp
BLTTHS cho phép để xác định sự thật của vụ án như: Lấy lời khai, hỏi cung, khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét và các
hoạt động điều tra khác theo quy định của BLTTHS. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng không được sử dụng các biện pháp không hợp pháp như: Bức cung, nhục
hình hoặc các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ khác trái với quy định của pháp luật (4
điểm)

+ Xác định sự thật của vụ án một cách khách quan là tiến hành điều tra, truy tố, xét
xử một cách vô tư, không định kiến, không suy diễn, mà phải dựa vào những chứng cứ đã
được thu thập và đánh giá theo đúng quy định của BLTTHS. Các quyết định của các cơ
quan tiến hành tố tụng phải có căn cứ pháp luật. (4 điểm)

+ Xác định sự thật của vụ án một cách toàn diện là xem xét hành vi phạm tội với đầy
đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, không tách rời nhau; thu thập và đánh giá cả chứng cứ
xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, kiểm tra mọi giả thiết có thể đặt ra. (4 điểm)

+ Xác định sự thật của vụ án một cách đầy đủ là làm sáng tỏ mọi tình tiết có ý nghĩa
giải quyết đúng đắn vụ án, trong đó có những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo; những nguyên nhân và điều kiện phạm tội… BLTTHS cũng
quy định nếu việc điềutra không đầy đủ thì phải điều tra bổ sung. Việc điều tra khơng đầy
đủ cịn là cơ sở để hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm (5 điểm).

- Thứ hai, trách nhiệm chứng minh tội phạm được BLTTHS quy định thuộc về các
cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là
mình vô tội; (5 điểm)

17

Như vậy muốn xác định bị can, bị cáo có tội hay không thì các cơ quan tố tụng phải
chứng minh, dựa trên những chứng cứ thu thập được. Bị can, bị cáo có quyền đưa ra
những chứng cứ để chứng minh mình vô tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ lời khai
của bị can, bị cáo, kết hợp với các chứng cứ khác, các cơ quan tiến hành tố tụng xác định
bị can, bị cáo có tội hay không có tội (3 điểm).


(Câu 11B. Trình bày nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình
sự

- Nguyên tắc cơ bản trong luật tố tụng hình sự: Là những phương châm, những định
hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự, được quy định trong
BLTTHS (1,5 điểm)

- Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là một trong những nguyên tắc cơ bản trong
luật tố tụng hình sự được quy định tại Điều 15 BLTTHS năm 2015 (1,5 điểm)

Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình sự được thể hiện như sau:
- Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để
xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng
cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (3 điểm)
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp
hợp pháp để xác định sự thật của vụ án như: lấy lời khai, hỏi cung, khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét và các hoạt động
điều tra khác theo quy định của BLTTHS (2 điểm)
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không được sử dụng các
biện pháp không hợp pháp như: Bức cung, nhục hình hoặc các biện pháp thu thập tài liệu,
chứng cứ khác trái với quy định của pháp luật. (1 điểm)
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải xác định đầy đủ các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những tình tiết được quy định tại Điều 51 BLHS.
(1 điểm)
+ Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải xác định đầy đủ các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những tình tiết được quy định tại điều 52 BLHS.
(1 điểm)
- Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng vì: Cơ

quan tiến hành tố tụng là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án là các cơ quan được nhà
nước giao nhiệm vụ làm rõ sự thật khách quan của vụ án, những nhiệm vụ này được quy
định cụ thể trong BLTTHS. (3 điểm)
+ Bị can, bị cáo không phải chứng minh mình có tội: Bản chất người phạm tội luôn
muốn che giấu hành vi phạm tội, và lời nhận tội của bị can, bị cáo không phải là nguồn
chứng cứ duy nhất để chứng minh hành vi phạm tội. Nếu các cơ quan tiến hành tố tụng
không chứng minh được bị can, bị cáo có tội thì không thể kết tội. (3 điểm)
+ Luật tố tụng hình sự không quy định bị can, bị cáo phải khai đúng sự thật, mặt khác
bị can, bị cáo không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Muốn xác định được bị can, bị
cáo có tội hay không phải dựa trên cơ sở những chứng cứ đã thu được trong vụ án để xem
xét. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị can, bị cáo có quyền đưa ra những chứng

18

cứ để chứng minh là mình vô tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của
bị can, bị cáo kết hợp những chứng khác cơ quan tiến hành tố tụng xác định bị can, bị cáo
có tội hay không có tội. (3 điểm)

+Trong quá trình tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội
thẩm không được thiên vị, cảm tình cá nhân, phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án
trên tất cả các phương diện, cân nhắc kỹ mọi tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải
quyết đúng đắn vụ án. (3 điểm)

- Mọi tình tiết thu được trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều được đánh giá
khách quan, toàn diện, có căn cứ để rút ra kết luận chính xác về vụ án (2 điểm)

- Ý nghĩa:
+ Nguyên tắc này đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội (1 điểm)
+ Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự (1 điểm))
Câu 12. Phân tích nguyên tắc: Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật” quy định tại Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm
2003.
* Yêu cầu của nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật”:
Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước CHXHCNVN có quyền xét xử và
quyết định bị cáo có tội hay khơng tội, vì thế quyết định của Tịa án phải khách quan và
chính xác, nên độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử là một nguyên tắc quan
trọng của tố tụng hình sự Việt Nam. Ngun tắc này khơng chỉ địi hỏi Thẩm phán và Hội
thẩm khi xét xử phải độc lập, mà còn xác định đây là một nguyên tắc phải được mọi cơ
quan, tổ chức và cá nhân tôn trọng. (5 điểm)
* Nội dung của nguyên tắc:
Thứ nhất, việc xét xử phải độc lập. Thể hiện:
- Không một cơ quan, tổ chức và cá nhân nào được can thiệp vào việc xét xử của Hội
đồng xét xử. (2,5 điểm)
- Hội đồng xét xử không lệ thuộc vào ý kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
cũng như của các bên đương sự (2,5 điểm)
- Tòa án cấp trên hướng dẫn các Tòa án cấp dưới về thống nhất áp dụng pháp luật
nhưng không quyết định trước về chủ trương xét xử một vụ án cụ thể buộc Tòa án cấp
dưới phải theo (2,5 điểm).
- Thẩm phán và Hội thẩm còn phải độc lập với nhau trong suy nghĩ và phán quyết của
mình, không lệ thuộc nhau, khơng áp đặt nhau. Tịa án xét xử tập thể và quyết định theo đa
số. (2,5 điểm).
- Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập nhưng không tách rời đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo Tịa án qua việc chỉ ra đường lới xét xử trong từng giai đoạn cách mạng và
với từng loại án. Độc lập xét xử cũng không có nghĩa là khơng có sự kiểm tra, giám sát.
Tịa án cấp trên có quyền kiểm tra những bản án và quyết định của tòa án cấp dưới và hủy
bỏ chúng trong trường hợp trái pháp luật hoặc không có cơ sở đúng đắn (5 điểm)


19

Thứ hai, việc xét xử chỉ tuân theo pháp luật, thể hiện: mọi quyết định của Tòa án, của
Hội đồng xét xử phải dựa vào những quy định của pháp luật, sao cho bản án và các quyết
định đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ pháp luật. (2,5 điểm)

Hai nội dung “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ chặt chẽ. Độc lập
là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật và chỉ tuân
theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập. (2,5
điểm)

Đây là nguyên tắc vô cùng quan trọng trong tố tụng hình sự Việt Nam. Để thực hiện
tốt nguyên tắc này, phải xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh làm cơ sở cho
việc xét xử độc lập và không ngừng nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ và ý
thức pháp luật cho Thẩm phán và Hội thẩm. (5 điểm).

Câu 13. Phân tích những quy định về Giới hạn của việc xét xử theo thủ tục xét
xử sơ thẩm hình sự

- Điều 298 BLTTHS quy định giới hạn của việc xét xử theo thủ tục xét xử sơ thẩm
hình sự: (1 điểm)

+ Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã
truy tớ và Tịa án đã quyết định đưa ra xét xử (2 điểm)

+ Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố
trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã
truy tố (2 điểm)

+ Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố

trong cùng một điều luật có nghĩa là với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tớ, Tịa án
có thể xét xử bị cáo theo khoản nặng hơn hoặc theo khoản nhẹ hơn so với khoản mà Viện
kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật (2 điểm)

+ Tòa án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm
sát đã truy tố (2 điểm)

Tội phạm khác bằng tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trường hợp điều luật
quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với hai tội phạm
như nhau (2 điểm).

Tội phạm khác nhẹ hơn tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trường hợp điều luật
quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đới với tội phạm
khác nhẹ hơn so với tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Để xác định tội nào nhẹ hơn, tội nào
nặng hơn thì cần thực hiện theo thứ tự như sau (2 điểm):

Trước hết xem xét hình phạt chính đới với hai tội phạm, nếu tội nào điều luật có quy
định mức hình phạt cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội nặng hơn (2 điểm).

Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với hai tội là tù có
thời hạn (không quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù trung thân) thì tội nào, điều luật
quy định mức phạt tù cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội đó nặng hơn (2 điểm).

Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều tử
hình hoặc đều tù chung thân hoặc đều tù có thời hạn và mức hình phạt tù cao nhất đối với
cả hai tội như nhau thì tội nào điều luật quy định mức hình phạt cao hơn là tội đó nặng hơn
(2 điểm).

20



×