Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính của các công ty bất động sản niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (959.62 KB, 71 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO </b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH </b>

<b>KHĨA LUẬN </b>

<b>TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC </b>

<b>PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN </b>

<b>CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CƠNG TY BẤT ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG </b>

<b>CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM </b>

<b>NGUYỄN THỊ THẢO NGÂN </b>

<b>TP. HỒ CHÍ MINH – 2024</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO </b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH </b>

<b>KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC </b>

<b>PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÁC CƠNG TY BẤT ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>i </small>

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>



Tác giả xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là do chính tác giả thực hiện, các số liệu được thu thập và sử dụng là trung thực, mọi nguồn tham khảo đều được trích dẫn đầy đủ trong danh mục tài liệu tham khảo.

<i>TP.HCM, ngày tháng năm 2024 </i>

Sinh viên thực hiện

<b>Nguyễn Thị Thảo Ngân </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>LỜI CẢM ƠN </b>



Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin bài tỏ sự biết ơn sâu

<b>sắc đến GVHD ThS. Mai Hồng Chi đã luôn đồng hành, hỗ trợ và hướng dẫn em tận </b>

tình trong suốt thời gian viết khóa luận. Em cũng xin bày tỏ sự tri ân của mình đến với thầy cơ trường Đại học Ngân hàng TP.HCM đã truyền đạt cho em những kiến thức về chuyên môn, những kỹ năng và những kinh nghiệm sống. Em xin kính chúc thầy cơ có thật nhiều sức khỏe và thành công trên con đường sự nghiệp, đặc biệt là trong công việc “trồng người” của mình.

Em cũng xin cảm ơn ba mẹ, bạn bè đã đồng hành và giúp đỡ em rất nhiều để em có thể hồn thành khóa luận của mình một cách tốt nhất có thể.

Trong q trình thực hiện khóa luận khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý, sửa dạy từ các thầy cơ để em có thể học hỏi và hoàn thiện hơn về kiến thức cũng như kỹ năng của mình.

Em xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Nguyễn Thị Thảo Ngân

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>DANH MỤC HÌNH ẢNH, BẢNG BIỂU ...vi </b>

<b>CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ... 1 </b>

<b>1.1 Tính cấp thiết của đề tài ... 1 </b>

<b>1.2 Mục tiêu nghiên cứu ... 2 </b>

1.2.1 Mục tiêu tổng quát ... 2

1.2.2 Mục tiêu cụ thể ... 2

<b>1.3 Câu hỏi nghiên cứu ... 2 </b>

<b>1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ... 2 </b>

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu ... 2

<b>2.1 Tổng quan các nghiên cứu trước có liên quan ... 6 </b>

2.1.1 Các nghiên cứu trên thế giới ... 6

2.1.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam ... 8

2.1.3 Tính mới của đề tài ... 9

<b>2.2 Cơ sở lý thuyết ... 10 </b>

2.2.1 Khái niệm chất lượng BCTC (Financial Reporting Quality) ... 10

2.2.2 Tiêu chuẩn của BCTC chất lượng ... 11

2.2.3 Các cách tiếp cận về phương pháp đo lường chất lượng BCTC ... 12

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

2.2.4 Lý thuyết nền ... 20

<b>CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 24 </b>

<b>3.1 Quy trình nghiên cứu ... 24 </b>

<b>3.2 Các biến trong mơ hình ... 25 </b>

3.2.1 Biến phụ thuộc ... 25

3.2.2 Biến độc lập ... 27

<b>3.3 Mô hình nghiên cứu ... 30 </b>

<b>3.4 Thu thập dữ liệu nghiên cứu ... 31 </b>

<b>3.5 Phương pháp phân tích hồi quy dữ liệu nghiên cứu ... 32 </b>

<b>CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ... 35 </b>

<b>4.1 Kết quả nghiên cứu... 35 </b>

4.1.1 Thống kê mô tả các biến trong mơ hình ... 35

4.1.2 Phân tích tương quan giữa các biến ... 36

4.1.3 Lựa chọn mô hình phù hợp ... 37

4.1.4 Kiểm định các khuyết tật của mơ hình ... 38

4.1.5 Kết quả hồi quy mơ hình hiệu chỉnh GLS ... 40

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<small>v </small>

<b>DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>DANH MỤC HÌNH ẢNH, BẢNG BIỂU </b>

Hình 3. 1: Sơ đồ quy trình nghiên cứu của khóa luận ... 24

Bảng 3. 1: Đo lường các biến trong mơ hình ... 31

Bảng 4. 1: Kết quả thống kê mơ tả các biến trong mơ hình ... 35

Bảng 4. 2: Ma trận hệ số tương quan các biến trong mơ hình ... 36

Bảng 4. 3: Kết quả hồi quy theo mơ hình Pooled OLS và mơ hình FEM ... 37

Bảng 4. 4: Kết quả kiểm định F-test ... 38

Bảng 4. 5: Giá trị VIF của mơ hình hồi quy ... 39

Bảng 4. 6: Kết quả kiểm định hiện tượng phương sai sai số thay đổi ... 39

Bảng 4. 7: Kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan ... 40

Bảng 4. 8: Kết quả hồi quy theo mô hình GLS ... 40

Bảng 4. 9: Tổng hợp kết quả kiểm định các giả thuyết ... 41

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU </b>

<b>1.1 Tính cấp thiết của đề tài </b>

Báo cáo tài chính (BCTC) là một bức tranh tổng quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nó khơng chỉ đơn thuần là một bảng số liệu, mà còn là nguồn thông tin quan trọng giúp những đối tượng sử dụng thông tin hiểu rõ hơn về doanh nghiệp mà họ quan tâm. Chất lượng của BCTC là một vấn đề được đặt lên hàng đầu vì nó trực tiếp tác động đến quyết định của những đối tượng sử dụng nó. Trên thị trường chứng khốn (TTCK) Việt Nam và thế giới, đã xảy ra nhiều vụ bê bối liên quan đến chất lượng BCTC điển hình như vụ việc của của Cơng ty cổ phần (CTCP) Tập đoàn Kỹ nghệ Gỗ Trường Thành (TTF), CTCP Thiết bị Y tế Việt Nhật (JVC) hay vụ bê bối của Enron Corporation đã cho thấy rằng việc cung cấp thiếu trung thực, sai lệch thông tin có thể gây ra những tổn thất lớn cho người sử dụng thông tin và cho cả công ty. Do đó, đây là một vấn đề được các nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam quan tâm.

Đã có nhiều nghiên cứu ở Việt Nam xoay quanh vấn đề chất lượng BCTC, song rất ít nghiên cứu về chất lượng BCTC của ngành bất động sản. Đây là ngành được xem là trụ cột của nền kinh tế, đóng góp lớn vào nền kinh tế với vai trò quan trọng trong việc tạo ra tài sản cố định cho quốc gia. Sự phát triển của ngành bất động sản không chỉ tạo động lực cho sự phát triển của thị trường tài chính, xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, nội thất, mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực kinh tế khác (Phạm, 2023). Do đó ngành bất động sản cần được quan tâm đầu tư phát triển. Trong đợt phát biểu chia sẻ với tạp chí kinh tế Việt Nam/VnEconomy vào tháng 1 năm 2023 Bộ Trưởng bộ Xây dựng - ông Nguyễn Thanh Nghị đã chia sẻ về những khó khăn, bất cập mà thị trường bất động sản ở Việt Nam đang phải đối mặt và những giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường này phát triển bền vững, lành mạnh. Một trong những khó khăn mà bộ trưởng bộ xây dựng chia sẻ chính là việc thị trường này gặp khó khăn trong huy động và tiếp cận các nguồn vốn và trái phiếu doanh nghiệp. Cơ cấu nguồn vốn cho thị trường bất động sản còn bất hợp lý (chủ yếu từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng, vốn huy động qua phát hành trái phiếu và tiền ứng trước của khách hàng, vốn chủ đầu tư chỉ chiếm khoảng 15 - 30% tổng mức đầu tư của dự án). Chưa có các nguồn vốn trung, dài hạn ổn định cho thị trường bất động sản (Ngân, 2023). Có thể thấy, ngành bất động sản là ngành đóng vai trị vô cùng quan trọng trong nền kinh tế song lại chưa có nhiều nghiên cứu về chất lượng BCTC của ngành này. Bên cạnh đó có thể thấy ngành bất động sản đang gặp khó khăn trong việc huy động vốn. Để thu hút được nguồn vốn cho ngành, mức độ trung thực của thông tin được công bố trên BCTC đóng một vai trị quan trọng. Vì vậy, tác giả nhận thấy việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam là cần thiết, bởi vì hiểu rõ về các nhân tố

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

nào ảnh hưởng đến chất lượng của BCTC không chỉ giúp tăng cường sự tin cậy của thông tin tài chính mà cịn hỗ trợ nhà đầu tư và các bên liên quan trong quá trình đưa ra quyết định đầu tư thơng minh. Do đó, tác giả chọn đề tài nghiên cứu cho khóa luận của

<i><b>mình là “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty bất </b></i>

<i><b>động sản trên niêm yết trên TTCK Việt Nam”. </b></i>

<b>1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu tổng quát </b>

Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

<b>1.2.2 Mục tiêu cụ thể </b>

- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

- Phân tích sự ảnh hưởng của từng các nhân tố đến chất lượng BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

- Đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng BCTC cũng như những lưu ý cho các đối tượng quan tâm và sử dụng BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

<b>1.3 Câu hỏi nghiên cứu </b>

Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu đề ra, khóa luận phải trả lời được những câu hỏi nghiên cứu sau:

Câu hỏi số 1: Các nhân tố nào ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam?

Câu hỏi số 2: Các nhân tố ảnh hưởng như thế nào đến chất lượng BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam?

Câu hỏi số 3: Những kiến nghị chính sách nào cho các đối tượng liên quan đến việc cung cấp, quản lý và sử dụng BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam?

<b>1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.4.1 Đối tượng nghiên cứu </b>

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này là các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>1.4.2 Phạm vi nghiên cứu </b>

- Phạm vi không gian: Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của 62 công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

- Phạm vi thời gian: Khóa luận sử dụng dữ liệu thứ cấp trên BCTC của 62 công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn 6 năm từ 2017 – 2022.

<b>1.5 Phương pháp nghiên cứu </b>

Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, thu thập dữ liệu thứ cấp từ BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam lấy từ Thomson Reuters kết hợp việc tổng hợp một số kết quả nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC và dựa trên các lý thuyết nền tảng trong lĩnh vực kế toán, kiểm tốn từ đó xây dựng mơ hình và các giả thuyết phù hợp với mục tiêu của bài nghiên cứu. Thực hiện các phân tích, kiểm định để xác định mối quan hệ giữa các nhân tố đến chất lượng BCTC tại các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

<b>1.6 Đóng góp của đề tài </b>

Đề tài “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam” đóng góp một số điểm sau:

- Luận văn góp phần làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của BCTC của các công ty bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam. Từ đó đưa ra các kiến nghị chính sách giúp nâng cao chất lượng BCTC của các công ty ngành bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

- Các cơ quan ban hành chính sách có thể tham khảo để từ đó đưa ra những những quy định, chế tài giúp nâng cao chất lượng BCTC của các công ty ngành bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

- Các đối tượng sử dụng thơng tin có thể tham khảo trong việc đánh giá, đưa ra các quyết định phù hợp với mục tiêu.

<b>1.7 Bố cục của đề tài </b>

Khóa luận gồm có 5 chương, bao gồm: Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu

Chương 2: Tổng quan về các nghiên cứu trước và cơ sở lý thuyết Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Chương 5: Kết luận chung và gợi ý chính sách

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 </b>

Trong chương này, tác giả đã nêu lên được tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và các câu hỏi nghiên cứu. Các đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu cũng như những đóng góp của đề tài nghiên cứu cũng được tác giả trình bày.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT </b>

<b>2.1 Tổng quan các nghiên cứu trước có liên quan 2.1.1 Các nghiên cứu trên thế giới </b>

Soyemi và Olawale (2019) tiến hành một nghiên cứu về sự ảnh hưởng của các yếu tố đặc điểm công ty đối với chất lượng của BCTC với mẫu gồm 25 công ty sản xuất niêm yết trên TTCK Nigeria trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2016. Nghiên cứu này áp dụng mơ hình đo lường chất lượng lợi nhuận của McNichols (2002) để đo lường chất lượng của BCTC. Kết quả cho thấy rằng các yếu tố như quy mơ của cơng ty, khả năng sinh lời có ảnh hưởng cùng chiều, trong khi tăng trưởng công ty và tài sản hữu hình (mức độ thâm dụng vốn) lại có ảnh hưởng ngược chiều đến chất lượng của BCTC của các công ty sản xuất niêm yết trên TTCK Nigeria.

Cũng tại Nigeria, Awodiran và Ogundele (2022) đã thực hiện một nghiên cứu về các nhân tố quyết định chất lượng BCTC sử dụng mẫu lựa chọn là 14 công ty sản xuất hàng công nghiệp niêm yết trên TTCK Nigeria. Dữ liệu được thu thập từ báo cáo thường niên của các công ty trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2019. Tác giả áp dụng mô đo lường chất lượng lợi nhuận của Dechow và Dichev (2002) để đo lường chất lượng BCTC. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng trong số 5 biến đưa vào mơ hình, có 4 biến có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng của BCTC: mức độ thâm dụng vốn và quy mô của cơng ty có ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng của BCTC, trong khi khả năng sinh lời và nguy cơ phá sản lại có ảnh hưởng ngược chiều. Mặt khác, biến tăng trưởng công ty không có ảnh hưởng đến chất lượng của BCTC trong phạm vi nghiên cứu này.

Một nghiên cứu khác tại Addis Ababa, Asegdew (2016) thực hiện nghiên cứu về các nhân tố quyết định chất lượng BCTC với mẫu nghiên cứu gồm 14 CTCP sản xuất được phân loại là đối tượng nộp thuế lớn. Dữ liệu thu thập từ BCTC từ năm 2009 đến năm 2015. Chất lượng BCTC được tác giả sử dụng mơ hình của Dechow và Dichev (2002) điều chỉnh để đo lường. Kết quả cho thấy chỉ có 4 nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng BCTC là khả năng sinh lời, loại cơng ty kiểm tốn, sự phân tán cổ phần tác động cùng chiều, quy mơ cơng ty tác động ngược chiều, cịn lại 3 biến là địn bẩy cơng ty, tính độc lập của Hội đồng quản trị (HĐQT), tính thanh khoản khơng có ý nghĩa về mặt thống kê.

Nghiên cứu của Echobu và các cộng sự (2017) đo lường chất lượng BCTC thông qua hành vi quản trị lợi nhuận (QTLN). Nghiên cứu sử dụng phần dư từ mô hình của Dechow và các cộng sự (1995) để đo lường chất lượng BCTC. Nghiên cứu được tiến hành trên một mẫu gồm 7 công ty ngành nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên, niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Nigeria trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

2015. Nghiên cứu nhằm xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên niêm yết ở Nigeria. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng có ba yếu tố có tác động tích cực đến chất lượng của BCTC, bao gồm địn bẩy, tính thanh khoản và quy mô của HĐQT, trong khi hai nhân tố cịn lại là tuổi của cơng ty và ủy ban kiểm tốn độc lập khơng có ý nghĩa thống kê.

Tại Tehran, thủ đô của Iran, Hamidzadeh và Zeinali (2015) đã thực hiện một nghiên cứu về tác động của cơ cấu tài sản (mức độ thâm dụng vốn) và tính thanh khoản đến chất lượng của BCTC của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Tehran. Nghiên cứu sử dụng mơ hình đo lường chất lượng lợi nhuận của McNichols (2002) để đo lường chất lượng của BCTC. Mẫu nghiên cứu được chọn là 100 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Tehran giai đoạn 2007 – 2011. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng tính thanh khoản có ảnh hưởng tích cực và đáng kể đến chất lượng của BCTC, trong khi cơ cấu tài sản (mức độ thâm dụng vốn) lại có tác động tiêu cực đến chất lượng của BCTC.

Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi Hassan và Bello (2013) về các nhân tố đặc điểm công ty và chất lượng BCTC của các công ty sản xuất niêm yết ở Nigaria. Mẫu nghiên cứu bao gồm 24 công ty, và dữ liệu được thu thập trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010. Chất lượng của BCTC được đo lường thơng qua mơ hình của McNichols (2002). Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng cả các biến được đưa vào mơ hình đều có tác động đáng kể đến chất lượng của BCTC. Trong số đó, các biến như địn bẩy tài chính, quy mơ của cơng ty, tính độc lập của HĐQT, quyền sở hữu (QSH) của tổ chức, khả năng sinh lời, và tăng trưởng của cơng ty đều ảnh hưởng tích cực đến chất lượng của BCTC, trong khi tính thanh khoản biến là duy nhất có tác động tiêu cực đối với chất lượng của BCTC.

Nghiên cứu của Klai và Omri (2011) về ảnh hưởng của cơ chế quản trị đến chất lượng BCTC của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Tunisia với mẫu nghiên cứu gồm 22 công ty phi tài chính giai đoạn 1997 - 2007. Hai mơ hình đã sử dụng để đo lường chất lượng của BCTC trong nghiên cứu này bao gồm mơ hình của McNichols (2002) và mơ hình của Ball và Brown (1968) và Collins và Kothari (1989). Tác giả đưa vào mơ hình nghiên cứu bốn nhân tố đại diện cho cơ chế quản trị. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 3 nhân tố gồm kiểm sốt bởi gia đình, kiểm sốt bởi nước ngoài, sự tập trung vốn chủ sở hữu tác động ngược chiều đến chất lượng BCTC và nhân tố cịn lại là kiểm sốt bởi nhà nước và các tổ chức tài chính tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC. Bên cạnh đó, cịn có 3 nhân tố được xem là biến kiểm soát gồm địn bẩy tài chính ảnh hưởng cùng chiều, cơ hội phát triển và quy mô công ty tác động ngược chiều đến chất lượng BCTC theo kết quả của nghiên cứu này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Waweru và Riro (2013) thực hiện nghiên cứu về ảnh hưởng của quản trị doanh nghiệp và các đặc điểm của công ty đến hành vi QTLN (được tác giả coi là chất lượng BCTC) của các công ty niêm yết ở Kenya. Nghiên cứu đo lường QTLN bằng mô hình của Kothari và các cộng sự (2005). Mẫu nghiên cứu gồm 37 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Nairobe giai đoạn 2006 – 2010. Các nhân tố liên quan đến cơ đến quản trị doanh nghiệp được tác giả xem xét gồm cơ cấu sở hữu, tính độc lập của HĐQT, tính độc lập của ủy ban kiểm tốn. Các nhân tố về đặc điểm công ty bao gồm quy mơ cơng ty, hiệu quả hoạt động, địn bẩy tài chính. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng trong số ba nhân tố về đặc điểm cơ chế quản trị doanh nghiệp, chỉ có hai nhân tố, bao gồm cơ cấu sở hữu và tính độc lập của HĐQT ảnh hưởng đáng kể đến QTLN, với cơ cấu sở hữu tác động cùng chiều và tính độc lập của HĐQT tác động ngược chiều, nhân tố tính độc lập của ủy ban kiểm tốn khơng có tác động đáng kể đến QTLN. Đối với các nhân tố về đặc điểm của công ty, chỉ có một yếu tố địn bẩy tài chính tác động tích cực đến QTLN, trong khi quy mơ của công ty và hiệu quả hoạt động của công ty khơng có tác động đáng kể đến QTLN.

<b>2.1.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam </b>

Tại Việt Nam các nghiên cứu về chất lượng BCTC cũng đang nhận được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá chất lượng BCTC dựa trên các thuộc tính của thơng tin, thường dựa vào quan điểm cá nhân của người đánh giá. Ví dụ, trong nghiên cứu của Lê Hồng Vân

<i>Trang và các cộng sự (2020) về “Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thơng tin kế </i>

<i>tốn trên BCTC của các doanh nghiệp niêm yết tại TP. Hồ Chí Minh”, các nhà nghiên </i>

cứu sử dụng thang đo Likert 5 mức độ để đo lường chất lượng thông tin kế tốn trên

<i>BCTC. Một ví dụ khác là nghiên cứu của Võ Thị Thúy Kiều (2019) về “Các nhân tố </i>

<i>ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế tốn trình bày trên BCTC của các đơn vị y tế cơng lập tại TP. Hồ Chí Minh”, cũng áp dụng thang đo Likert 5 mức độ để đo lường </i>

ảnh hưởng của các biến độc lập và đo lường biến phụ thuộc chất lượng thơng tin kế tốn trên BCTC. Như vậy, có thể thấy các nghiên cứu chủ yếu đo lường chất lượng BCTC dựa trên các đặc tính chất lượng thơng tin. Các nghiên cứu về chất lượng BCTC tiếp cận theo phương pháp đo lường theo QTLN và chất lượng lợi nhuận còn khá ít, điển hình một số cơng trình nghiên cứu như sau:

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) về các nhân tố tác động đến chất lượng BCTC của các cơng ty phi tài chính niêm yết trên sàn giao dịch HOSE và HNX tại TTCK Việt Nam. Nghiên cứu này sử dụng mẫu gồm 283 quan sát trong giai đoạn 2012 – 2014. Tác giả sử dụng mơ hình đo lường hành vi QTLN của Dechow và các cộng sự (1995) và mơ hình EBO điều chỉnh để đo lường chất lượng BCTC của các

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

công ty trong mẫu. Tổng cộng có năm nhóm nhân tố được xem xét ảnh hưởng đến chất lượng BCTC, gồm 23 biến độc lập được tác giả đưa vào mô hình nghiên cứu của mình. Các nhóm nhân tố này bao gồm: cơ cấu sở hữu, quản trị công ty, cơ cấu vốn, đặc điểm thị trường, và hiệu quả cơng ty. Trong nhóm nhân tố về cơ cấu sỡ hữu bao gồm các biến đại diện như QSH vốn của tổ chức, QSH vốn của nhà quản lý, QSH vốn của nước ngoài, sự tập trung QSH. Nhóm nhân tố về quản trị cơng ty gồm các biến đại diện như sự kiêm nhiệm của chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc, tính độc lập của HĐQT, chun mơn tài chính của HĐQT, quy mô HĐQT, mức độ thường xuyên các cuộc họp của HĐQT, kế hoạch thưởng. Các biến đại diện trong nhóm nhân tố về cơ cấu vốn gồm có địn bẩy tài chính, khả năng thanh tốn hiện hành. Tiếp đến là nhóm nhân tố về đặc điểm thị trường gồm các biến tuổi của công ty, thời gian niêm yết, tình trạng niêm yết, quy mơ cơng ty, loại cơng ty kiểm tốn, loại hình cơng nghiệp và tính trì hỗn của BCTC. Cuối cùng là nhóm nhân tố về hiệu quả của cơng ty gồm có các biến đại diện như triển vọng phát triển, lợi nhuận và chính sách cổ tức.

Một nghiên cứu khác được thực hiện gần đây bởi Nguyễn Ngọc Phong Lan (2023) về ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến cơ chế quản trị doanh nghiệp bao gồm 3 nhân tố đó là chất lượng kiểm tốn, tính độc lập của HĐQT, tỷ lệ sở hữu của HĐQT,và 3 nhân tố liên quan đến đặc điểm công ty bao gồm quy mơ cơng ty, địn bẩy tài chính, khả năng sinh lời đến chất lượng BCTC của các công ty niêm yết trên sàn HNX trên TTCK Việt Nam. Mẫu nghiên cứu bao gồm 897 quan sát giai đoạn 2010 - 2020. Tác giả sử dụng mô hình đo lường QTLN của Dechow và các cộng sự (1995) để đo lường chất lượng BCTC trong nghiên cứu của mình. Kết quả cho thấy cả 3 nhân tố liên quan đến cơ chế quản trị doanh nghiệp bao gồm tính độc lập của HĐQT, tỷ lệ sở hữu của HĐQT, chất lượng kiểm toán đều ảnh hưởng tích cực đến chất lượng BCTC. Đối với 3 nhân tố về đặc điểm cơng ty thì chỉ có duy nhất một nhân tố khả năng sinh lời tác động cùng chiều đến chất lượng BCTC. Hai nhân tố cịn lại là quy mơ cơng ty và địn bẩy tài chính khơng có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC trong nghiên cứu này.

<b>2.1.3 Tính mới của đề tài </b>

Qua việc tổng quan các nghiên cứu trên thế giới có thể thấy rằng các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC là một trong những chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu ở những quốc gia khác nhau quan tâm. Tuy vậy, các nghiên cứu vẫn chưa có sự thống nhất với nhau trong kết quả nghiên cứu, một số lý do lý giải cho sự khơng đồng nhất đó là do sự khác nhau về khu vực địa lý, thời điểm nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, mơ hình lựa chọn và các biến sử dụng trong mô hình. Thêm vào đó, dù đã có nhiều nghiên cứu xoay quanh vấn đề chất lượng BCTC, song các nghiên cứu với đối tượng là các công ty ngành bất động sản chưa phổ biến.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Tại Việt Nam, nghiên cứu về chất lượng BCTC vẫn chưa được phổ biến, và phần lớn các nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá chất lượng BCTC dựa trên các thuộc tính chất lượng thơng tin. Phương pháp đánh giá chất lượng BCTC theo QTLN và chất lượng lợi nhuận vẫn chưa được áp dụng rộng rãi. Đối tượng của các nghiên cứu chủ yếu là các công ty niêm yết trên HNX và HOSE chứ ít tập trung vào một ngành cụ thể. Cùng với đó, việc nhận thấy vai trị quan trọng của ngành bất động sản trong nền kinh tế Việt Nam, tác giả nhận thấy rằng, cần có một nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các công ty ngành bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam giai

<b>đoạn 2017 – 2022, với chất lượng BCTC được tiếp cận theo phương pháp đo lường theo </b>

quản trị QTLN.

Giai đoạn nghiên cứu 2017 – 2022 cũng là một trong những tính mới của đề tài này. Lựa chọn giai đoạn nghiên cứu từ 2017-2022 vì đây là một thời kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế của quốc gia. Trong giai đoạn này, có nhiều sự kiện và thay đổi chính trị, kinh tế trong đó đại dịch Covid 19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế tồn cầu nói chung và của Việt Nam nói riêng. Những biến động này có tác động đáng kể đến doanh nghiệp ở nhiều khía cạnh. Nó có thể gây ra sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng, làm suy giảm nhu cầu, tăng chi phí vận chuyển, giảm lợi nhuận và tạo ra sự không chắc chắn trong kinh doanh. Điều này sẽ tác động đến chất lượng của BCTC đặc biệt là QTLN của các doanh nghiệp do các mâu thuẫn lợi ích giữa nhà quản trị và nhà đầu tư. Nghiên cứu trong khoảng thời gian này có thể giúp hiểu rõ hơn về cách doanh nghiệp ứng xử trong bối cảnh biến động và thách thức của thị trường. Và tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu về chất lượng BCTC của ngành bất động sản trong giai đoạn này ở Việt Nam.

<b>2.2 Cơ sở lý thuyết </b>

<b>2.2.1 Khái niệm chất lượng BCTC (Financial Reporting Quality) </b>

Có nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng BCTC trong các tài liệu nghiên cứu hiện có. Theo Jonas và Blanchet (2000) định nghĩa “chất lượng BCTC là mức độ BCTC trình bày thơng tin tài chính đầy đủ và minh bạch, khơng nhằm mục đích xáo trộn hoặc đánh lừa người dùng”. Còn theo Biddle và các cộng sự (2009) thì chất lượng BCTC là độ chính xác mà BCTC truyền tải thông tin về hoạt động của công ty, đặc biệt là dòng tiền dự kiến nhằm thông báo cho các nhà đầu tư cổ phần. Hay “chất lượng BCTC là mức độ mà BCTC cung cấp thông tin trung thực và hợp lý về kết quả hoạt động cơ bản và tình hình tài chính” (Tang và các cộng sự, 2008). Silalahi và Sinambela (2017) định nghĩa “chất lượng BCTC là quy chuẩn được biết đến cần có trong thơng tin kế tốn để có thể thực hiện được mục đích của mình. Chất lượng của báo cáo được đo lường thơng qua bốn chiều hướng, đó là tính liên quan, đáng tin cậy, có thể so sánh, và có thể hiểu

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

được”. Nhìn chung chất lượng BCTC về cơ bản nó liên quan đến tính chính xác của BCTC (Jim-Suleiman và Ibiamke, 2021).

<b>2.2.2 Tiêu chuẩn của BCTC chất lượng </b>

<b>a. Tiêu chuẩn BCTC chất lượng theo quan điểm của FASB và IASB: </b>

Trong khuôn mẫu khái niệm của Ủy ban Chuẩn mực Kế tốn Tài chính (FASB) và Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Quốc tế (IASB) đều nêu rằng thông tin trên BCTC trở nên hữu ích hay BCTC chất lượng cao đạt được khi tn thủ các đặc tính chất lượng của thơng tin trên BCTC. Các đặc tính chất lượng này theo quan điểm hội tụ giữa FASB và IASB gồm hai đặc tính cơ bản và bốn đặc tính bổ sung. Hai đặc tính chất lượng cơ bản là “Tính thích hợp” (Relevance) và “Trình bày trung thực” hay “Đáng tin cậy” (Reliability). Bốn đặc tính bổ sung gồm: “Có thể so sánh”, “Có thể kiểm chứng”, “Có

<b>thể hiểu được” và “Tính kịp thời” </b>

<i><b>Tính thích hợp: Thơng tin kế tốn được xem là thích hợp nếu thơng tin đó có khả </b></i>

năng tạo ra sự khác biệt trong một quyết định bằng cách giúp người sử dụng trong việc dự đoán kết quả của các sự kiện trong quá khứ, hiện tại và tương lai, hoặc xác nhận hoặc điều chỉnh những dự đốn trước đó. Để được coi là thích hợp, thông tin cần phải được công bố kịp thời và phải có giá trị dự đốn hoặc giá trị xác nhận, hoặc cả hai.

<i><b>Trình bày trung thực (đáng tin cậy): Một thông tin được xem là trung thực hay </b></i>

đáng tin cậy phải đảm bảo các đặc điểm sau bao gồm đầy đủ, chính xác, có thể kiểm chứng được và trung lập.

Bên cạnh hai đặc tính cơ bản trên thì tính hữu ích của thơng tin tài chính sẽ được nâng cao nếu nó “Có thể so sánh”, “Có thể kiểm chứng”, “Tính kịp thời” và “Có thể hiểu được”.

<i><b>Có thể so sánh: Thông tin về một doanh nghiệp cụ thể trở nên rất hữu ích nếu có </b></i>

thể so sánh được với thông tin tương tự về các doanh nghiệp khác và thông tin tương tự về cùng một doanh nghiệp cho một thời kỳ khác hoặc một thời điểm khác. Khả năng so sánh giữa các doanh nghiệp và tính nhất quán trong việc áp dụng các phương pháp theo thời gian giúp tăng giá trị hữu ích của thơng tin trong các so sánh về cơ hội kinh tế tương đối hoặc hiệu quả hoạt động kinh doanh.

<i><b>Có thể kiểm chứng: Thơng tin kế tốn phải được trình bày một cách trung thực, </b></i>

phản ánh đúng các hiện tượng kinh tế. Thơng tin có thể kiểm chứng được nếu nó có được sự đồng thuận từ những người quan tâm độc lập và có hiểu biết khác nhau, mặc dù khơng nhất thiết phải nhất trí hồn tồn rằng một mơ tả cụ thể là một sự trình bày trung thực.

<i><b>Có thể hiểu được: Thơng tin cần được phân loại, mơ tả đặc điểm và trình bày rõ </b></i>

ràng và chính xác để người sử dụng thơng tin có thể dễ dàng hiểu được.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i><b>Tính kịp thời: Thơng tin cần được cung cấp kịp thời cho người sử dụng trước khi </b></i>

họ mất khả năng tác động đến các quyết định. Việc cung cấp thông tin không kịp thời hoặc cung cấp quá lâu sau các sự kiện được báo cáo làm cho thơng tin đó trở nên thiếu hữu ích và ít hoặc khơng có giá trị sử dụng.

<b>b. Tiêu chuẩn của BCTC chất lượng theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS): </b>

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 1 (VAS 01) - Chuẩn mực chung do Bộ trưởng Bộ tài chính ban hành, thơng tin hữu ích hay có chất lượng phải đảm bảo các đặc điểm định tính sau:

<i><b>“Trung thực: Các thơng tin và số liệu kế tốn phải được ghi chép và báo cáo dựa </b></i>

trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

<i><b>Khách quan: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng </b></i>

với thực tế, khơng bị xun tạc, khơng bị bóp méo.

<i><b>Đầy đủ: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế toán phải </b></i>

được ghi chép và báo cáo đầy đủ, khơng bị bỏ sót.

<i><b>Kịp thời: Các thơng tin và số liệu kế tốn phải được ghi chép và báo cáo kịp thời, </b></i>

đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ.

<i><b>Dễ hiểu: Các thơng tin và số liệu kế tốn trình bày trong BCTC phải rõ ràng, dễ </b></i>

hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là người có hiểu biết về kinh doanh, về kinh tế, tài chính, kế tốn ở mức trung bình. Thơng tin về những vấn đề phức tạp trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.

<i><b>Có thể so sánh: Các thơng tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một </b></i>

doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp chỉ có thể so sánh được khi tính tốn và trình bày nhất qn. Trường hợp khơng nhất qn thì phải giải trình trong phần thuyết minh để người sử dụng BCTC có thể so sánh thơng tin giữa các kỳ kế tốn, giữa các doanh nghiệp hoặc giữa thơng tin thực hiện với thơng tin dự tốn, kế hoạch.”

<b>2.2.3 Các cách tiếp cận về phương pháp đo lường chất lượng BCTC a. Đo lường chất lượng BCTC theo các đặc tính chất lượng thơng tin </b>

Cách tiếp cận theo phương pháp đo lường này nhằm đánh giá sự hữu ích của thơng tin trên BCTC qua việc đo lường các khía cạnh cũng như kích thước của các thơng tin tài chính và thơng tin phi tài chính. Trong phương pháp này, chất lượng BCTC được đánh giá dựa trên các thang đo. Các thang đo được xây dựng dựa trên đặc điểm chất lượng của Hội đồng Tiêu chuẩn Kế tốn Tài chính (FASB), bao gồm hai đặc điểm cơ bản là “thích hợp” và “đáng tin cậy” cùng với hai đặc điểm thứ yếu là “nhất quán” và

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

“có thể so sánh được”. Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) cũng xác định các đặc điểm chất lượng trên BCTC, cũng bao gồm hai đặc điểm cơ bản giống FASB là “thích hợp”và “trung thực” và bốn đặc điểm bổ sung gồm: “có thể so sánh”,“có thể hiểu được”, “có thể kiểm chứng” và “tính kịp thời”. Chuẩn mực kế tốn Việt Nam số 01 quy định các thuộc tính của chất lượng thông tin trên BCTC là “trung thực”, “khách quan”, “đầy đủ”, “kịp thời”, “có thể so sánh” và “dễ hiểu”.

Ưu điểm của phương pháp đo lường này là khả năng đo lường trực tiếp chất lượng thông tin trên BCTC. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có hạn chế là khả năng khó xác định thang đo cho các đặc điểm chất lượng. Việc đánh giá dựa trên thang đo phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của người đánh giá có thể dẫn đến kết quả không đảm bảo độ tin cậy cao và tình trạng chất lượng thơng tin trong BCTC khơng được phản ánh một cách chính xác.

<b>b. Đo lường chất lượng BCTC theo chất lượng lợi nhuận </b>

<b>Chất lượng lợi nhuận: Bellovwy và Don (2005) định nghĩa chất lượng lợi nhuận </b>

là khả năng lợi nhuận được báo cáo phản ánh “lợi nhuận thực” của cơng ty, cũng như tính hữu dụng của những con số báo cáo này trong việc dự đoán lợi nhuận trong tương lai. Theo Schipper và Vincent (2003) “lợi nhuận có chất lượng cao khi phản ánh chính xác hiệu quả hoạt động trong dài hạn của công ty”. Francis và các cộng sự (2004) phân loại 7 chỉ tiêu sử dụng đo lường chất lượng lợi nhuận theo 2 loại: Dựa trên cơ sở các nguyên tắc kế toán và dựa trên cơ sở thị trường. “Chất lượng dồn tích” (Accruals Quality), “tính bền vững” (Persistence), “khả năng dự báo” (Predictability) và “tính ổn định” (Smoothness) là các thuộc tính dựa trên cơ sở kế tốn, bởi vì chúng được đo bằng thơng tin kế tốn, trong khi đó “giá trị thích hợp” (Value Relevance), “tính kịp thời” (Timeliness) và “tính thận trọng” (Conservatism) được gọi là các chỉ tiêu dựa trên cơ sở thị trường vì được ước tính dựa vào mối quan hệ giữa lợi nhuận kế toán với sự phản ứng lại của thị trường. Dưới đây là một số mơ hình đo lường chất lượng lợi nhuận phổ biến dựa trên chỉ tiêu đo lường được nhiều nghiên cứu trước đây sử dụng để đo lường chất lượng lợi nhuận đó là chỉ tiêu chất lượng dồn tích.

<i><b>Chất lượng dồn tích (Accruals Quality): Dechow và Dichev (2002) định nghĩa </b></i>

chất lượng dồn tích là “mức độ tổng các khoản dồn tích phản ánh vào việc thực hiện dòng tiền hoạt động”. Thước đo này dựa trên quan điểm thu nhập gắn với dịng tiền hơn sẽ có chất lượng tốt hơn. Chất lượng dồn tích lần đầu tiên được đo lường bởi Dechow và Dichev (2002). Sau đó được McNichols (2002) mở rộng bằng cách đưa sự thay đổi về doanh thu và tài sản cố định hữu hình (PPE) vào mơ hình.

<b>- Mơ hình của Dechow & Dichev (2002) </b>

Mơ hình đo lường chất lượng dồn tích của Dechow & Dichev (2002) như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

TA<sub>t</sub> = β<sub>0</sub>+ β<sub>1</sub>CFO<sub>t−1</sub>+ β<sub>2</sub>CFO<sub>t</sub>+ β<sub>3</sub>CFO<sub>t+1</sub>+ ε<sub>t</sub> Trong đó:

TA<sub>t</sub>: Tổng dồn tích năm t

CFO: Dịng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh; ε<sub>t</sub>: phần dư

Mức độ của các khoản dồn tích khơng liên quan đến dịng tiền được phản ánh thông qua phần dư từ mơ hình hồi quy, và độ lệch chuẩn của phần dư là thước đo của chất lượng dồn tích, độ lệch chuẩn càng cao thì chất lượng dồn tích thấp càng thấp dẫn đến chất lượng BCTC càng thấp. Ngồi ra, chất lượng dồn tích cũng có thể được đo lường bằng |𝛆<sub>𝐭</sub>| (giá trị tuyệt đối của phần dư từ mơ hình). |𝛆<sub>𝐭</sub>| càng lớn thì chất lượng dồn tích càng thấp. Thước đo này được sử dụng trong nghiên cứu Chen và các cộng sự (2011), Ma (2012), Asegdew (2016), Nguyễn Thị Ngọc Trang và Bùi Kim Phương (2018).

<b>- Mơ hình của McNichols (2002) </b>

McNichols (2002) mở rộng mơ hình của Dechow & Dichev (2002) bằng cách đưa sự thay đổi về doanh thu và tài sản cố định hữu hình (PPE) vào mơ hình.

TA = β<sub>0</sub>+ β<sub>1</sub>CFO<sub>it−1</sub>+ β<sub>2</sub>CFO<sub>it</sub>+ β<sub>3</sub>CFO<sub>it+1</sub>+ β<sub>4</sub>∆REV<sub>it</sub>+ β<sub>5</sub>PPE<sub>it</sub>+ ε<sub>it</sub> Trong đó:

∆REV: Chênh lệch doanh thu thuần năm t và năm t-1

PPE: Nguyên giá bất động sản, nhà xưởng và thiết bị tại thời điểm cuối năm Chất lượng BCTC được đo lường dựa trên chất lượng lợi nhuận mang lại kết quả đáng tin cậy hơn so với phương pháp đo lường dựa trên đặc điểm chất lượng. Phương pháp này ít phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của người đánh giá và tập trung chặt chẽ vào thông tin thực tế trong BCTC. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là chỉ tập trung vào lợi nhuận để đánh giá chất lượng thông tin trên BCTC mà không xem xét các thông tin khác trên BCTC như các thơng tin phi tài chính hay thuyết minh BCTC dẫn đến chất lượng BCTC không được đánh giá một cách toàn diện.

<b>c. Đo lường chất lượng BCTC theo quản trị lợi nhuận </b>

Quản trị lợi nhuận (Earning Management) là “Một mảng tối mà ở đó kế toán đang bị làm sai do nhà quản trị đã “mài dũa” các khía cạnh của nó theo ý muốn của họ hơn là kết quả hoạt động tài chính cơ bản của cơng ty” (Levitt Jr, 1998). Theo Schipper (1989) thì đây là một sự can thiệp có mục đích vào q trình cơng bố BCTC ra bên ngồi, nhằm mục đích đạt được một số lợi ích cá nhân. “QTLN xảy ra khi nhà quản lý sử dụng sự điều chỉnh trong BCTC và trong cấu trúc các giao dịch để thay đổi BCTC, hoặc nhằm đánh lừa một số bên liên quan về hiệu quả hoạt động của công ty, hoặc ảnh hưởng đến kết quả của các hợp đồng phụ thuộc vào số liệu kế toán được báo cáo” (Healy và Wahlen,

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

1999). Nhiều tác giả bao gồm cả Christensen và các cộng sự (2015), Barth và các cộng sự (2008), xác định QTLN như một thước đo nghịch đảo của chất lượng BCTC. Việc QTLN có thể hợp pháp hoặc bất hợp pháp. QTLN được gọi là hợp pháp nếu hoạt động QTLN nằm trong giới hạn của các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (GAAP). Mặt khác, khi hành vi này vượt quá ranh giới của GAAP thì QTLN có thể bị coi là một loại gian lận, được gọi là QTLN bất hợp pháp (Al‐Khabash và Al‐Thuneibat, 2008). Song “việc QTLN hợp pháp hay bất hợp pháp đều ảnh hưởng đến chất lượng lợi nhuận, đồng thời ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của công ty” (Shuli, 2011).

Theo Roychowdhury (2006), Cohen và Zarowin (2010), Sun và các cộng sự (2014), QTLN được chia thành 2 loại: QTLN thực tế (Real Earnings Mangement - REM) và QTLN dựa trên cơ sở dồn tích (Accruals Earnings Management - AEM). Việc phân

<b>loại này dựa trên việc nó có tác động trực tiếp đến dịng tiền hay khơng. </b>

REM là việc thao túng lợi nhuận thông qua các hoạt động kinh doanh, ảnh hưởng trực tiếp đến dòng tiền (Sun và các cộng sự, 2014). Roychowdhury (2006) đưa ra định nghĩa về REM đó là “hành vi quản lý đi lệch khỏi hoạt động kinh doanh thông thường, được thúc đẩy bởi mong muốn của các nhà quản lý nhằm đánh lừa các bên liên quan tin rằng các mục tiêu BCTC đã được đáp ứng trong quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp”. Nghiên cứu của ơng đã tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng ban quan lý thực hiện hành vi REM thơng qua 3 cách đó là tham gia vào việc sản xuất dư thừa để giảm giá vốn hàng bán; giảm giá bán để tăng doanh số bán hàng trong một thời gian nhất định; cắt giảm chi phí tùy ý để tăng lợi nhuận ở hiện tại. Giá trị của cơng ty có thể bị giảm khi thực hiện hành vi REM vì các hành động nhằm tăng lợi nhuận trong ngắn hạn được thực hiện ở hiện tại có thể sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến dòng tiền trong tương lai. Ví dụ việc sản xuất quá mức dẫn đến việc tích tụ lượng hàng tồn kho dư thừa phải bán trong các kỳ kế tiếp do đó gây ra chi phí lưu trữ hàng tồn kho lớn hơn cho công ty.

Trong nghiên cứu của Roychowdhury (2006), tác giả đã phát triển mơ hình nhận diện ba hành vi REM phổ biến thơng qua các mơ hình ước tính liên quan đến dịng tiền hoạt động, chi phí sản xuất, và chi phí tùy ý.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

PROD<sub>t</sub>: chi phí sản xuất trong năm t của công ty (bao gồm giá vốn hàng bán và chênh lệch hàng tồn kho của công ty năm t so với năm t-1);

DISX<sub>t</sub>: chi phí tùy ý trong năm t của công ty (bao gồm chi phí quảng cáo; chi phí bán hàng, chi phí chung và quản lý (SG&A), chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D));

A<sub>t−1</sub>: tổng tài sản của công ty năm t-1; REV<sub>t</sub>: doanh thu thuần của công ty năm t

∆REV<sub>t</sub>: chênh lệch doanh thu thuần năm t và năm t-1; ∆REV<sub>t−1</sub>: chênh lệch doanh thu thuần năm t -1 và năm t-2; ε<sub>t</sub>: phần dư đại diện cho dòng tiền bất thường;

δ<sub>t</sub>: phần dư đại diện mức chi phí sản xuất bất thường; γ<sub>𝑡</sub>: phần dư đại diện mức chi phí tùy ý bất thường;

Mức độ QTLN thực tế (REM) là tổng giá trị tuyệt đối của các phần dư từ phương trình (1), (2) và (3).

Khác với REM, QTLN dựa trên cơ sở dồn tích (AEM) là QTLN thơng qua các ước tính và phương pháp kế tốn, khơng có tác động trực tiếp đến dịng tiền (Sun và các cộng sự, 2014). AEM đề cập đến các hành động của nhà quản lý nhằm thay đổi cách ghi nhận các sự kiện và giao dịch nhất định trong hệ thống kế toán (Jim-Suleiman và Ibiamke, 2021). Hay nói cách khác “AEM xảy ra là do các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận (GAAP) cho phép các nhà quản trị linh hoạt trong việc lựa chọn các phương pháp kế tốn, các chính sách kế tốn và ước tính kế tốn” (Anh và Mai, 2017). Theo VAS 01, nguyên tắc cơ sở dồn tích được định nghĩa: “Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế tốn vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền. BCTC lập trên cơ sở dồn tích phản ảnh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai”. Kế toán doanh nghiệp ghi nhận nghiệp vụ kinh tế phát sinh dựa trên cơ sở dồn tích nên lợi nhuận trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là lợi nhuận dồn tích, trong khi dịng tiền từ hoạt động kinh doanh trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ dựa trên khoản thực thu, thực chi. Chính vì vậy, khoản lệch này chính là biến kế tốn dồn tích. Nói một cách khác, “biến kế tốn dồn tích là phần lợi nhuận kế tốn khơng bằng tiền được trình bày trong BCTC” (Hồng, 2016).

Theo DeAngelo (1986), tổng dồn tích (Total Accrual - TA) trong một khoản thời gian nhất định bao gồm khoản dồn tích tùy ý (discre-tionary accrual – DA) và khoản dồn tích khơng tùy ý (Nondiscre-tionary accrual - NDA). Các khoản dồn tích khơng tùy

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

ý (các khoản dồn tích khơng thể điều chỉnh) phát sinh từ các giao dịch được thực hiện trong giai đoạn hiện tại, vốn là điều bình thường đối với cơng ty dựa trên mức độ hiệu quả hoạt động và chiến lược kinh doanh, quy ước của ngành và các sự kiện kinh tế vĩ mơ. Các khoản dồn tích tùy ý (các khoản dồn tích có thể điều chỉnh) phát sinh từ các giao dịch được thực hiện hoặc các phương pháp kế toán được lựa chọn để QTLN (Arkan, 2015). Do đó, khoản dồn tích tùy ý sẽ được sử dụng để đo lường hành vi QTLN.

Cả REM và AEM đều hướng đến mục tiêu là tác động đến BCTC. Khi BCTC có dấu hiệu của việc QTLN thì thơng tin được cơng bố trên BCTC sẽ trở nên không khách quan, không trung thực và không đáng tin cậy. “QTLN càng cao thông tin trên BCTC càng không đạt yêu cầu dẫn đến làm giảm chất lượng BCTC” (Anh và Mai, 2017).

Đa phần hoạt động QTLN đều được thực hiện thông qua việc thao túng các khoản dồn tích vì các khoản dồn tích mang tính chủ quan do đó dễ dàng điều chỉnh. Thêm vào đó, các điều chỉnh dồn tích được thực hiện sau khi kết thúc năm tài chính nên các nhà quản lý biết chính xác những gì họ muốn sửa đổi trong BCTC để đáp ứng mong đợi của các bên liên quan cũng như đáp ứng dự báo của các nhà phân tích. Cuối cùng việc QTLN thơng qua kế tốn dồn tích khơng ảnh hưởng đến dịng tiền cũng như hoạt động của cơng ty vì thế nó có thể được thực hiện mà khơng ảnh hưởng đến hiệu quả thực tế của công ty (Zarowin, 2015). Một số mơ hình phổ biến được sử dụng nhiều nhất trong việc phát hiện hành vi QTLN là: mơ hình Jones (1991), Dechow và các cộng sự (1995), mơ hình Kothari và các cộng sự (2005), Mơ hình Raman và Shahrur (2008).

<b>- Mơ hình của Jones (1991) </b>

Tất cả các biến của phương trình đều chia cho tài sản cuối năm t-1 để giảm thiểu rủi ro do phương sai không đồng nhất.

Biến kế tốn dồn tích khơng thể điều chỉnh (NDA) được tính như sau:

Các tham số α̂<sub>1</sub>, α̂<sub>2</sub>, α̂<sub>3</sub> được ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) của các hệ số α<sub>1</sub>, α<sub>2</sub>, α<sub>3</sub> từ mơ hình gốc của Jones.

Từ đó ta tính được phần dồn tích có thể điều chỉnh (DA) như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

∆REV<sub>it</sub>: Chênh lệch doanh thu của công ty i năm t và năm t-1;

PPE<sub>it</sub>: Nguyên giá bất động sản, nhà máy và các trang thiết bị của công ty i tại thời điểm cuối năm t;

A<sub>t−1</sub>: Tổng tài sản năm trước;

TA<sub>it</sub>: Tổng biến kế tốn dồn tích của công ty i năm t và TA<sub>it</sub> = ∆CA<sub>it</sub>− ∆Cash<sub>it</sub>− ∆CL<sub>it</sub>+ ∆STD<sub>it</sub>− DEP<sub>it</sub>

Với:

∆CA<sub>it</sub>: Chênh lệch tổng tài sản ngắn hạn của công ty i năm t và năm t-1;

∆Cash<sub>it</sub>: Chênh lệch khoản mục tiền và các khoản tương đương tiền của công ty i năm t và năm t-1;

∆CL<sub>it</sub>: Chênh lệch nợ ngắn hạn của công ty i năm t và năm t-1;

∆STD<sub>it</sub>: Chênh lệch nợ vay được bao gồm trong nợ ngắn hạn của công ty i năm t và năm t-1;

DEP<sub>it</sub>: Khấu hao và chi phí khấu trừ năm t.

Biến tổng kế tốn dồn tích TA cũng có thể được tính dựa trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ (DeAngelo, 1986), công thức như sau:

TA<sub>it</sub> = NI<sub>it</sub>− CFO<sub>it</sub> Trong đó:

NI<sub>it</sub>: lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty i năm t;

CFO<sub>it</sub>: lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của công ty i năm t.

<b>- Mơ hình Jones điều chỉnh (Dechow và các cộng sự, 1995) </b>

Dechow và các cộng sự (1995) đã phát triển mơ hình của Jones (1991) bằng cách sử dụng biến (∆REV<sub>it</sub>− ∆REC<sub>it</sub>) thay cho biến ∆REV<sub>it</sub> dựa trên quan điểm rằng các khoản dồn tích có thể điều chỉnh sẽ trở nên không đáng tin cậy khi nhà quản lý thực hiện quyền điều chỉnh đối với doanh thu. Chính vì vậy để khắc phục hạn chế này mơ hình đã bổ sung thêm biến nợ phải thu vào mơ hình gốc của Jones ngầm giả định rằng tất cả những thay đổi về doanh thu từ các khoản phải thu là do QTLN.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

∆REC<sub>it</sub>: chênh lệch các khoản phải thu thuần của công ty i trong năm t và t-1.

<b>- Mơ hình Jones điều chỉnh với ROA (Kothari và các cộng sự 2005) </b>

Kothari và các cộng sự (2005) phát triển một mơ hình dựa trên mơ hình của Jones (1991) và mơ hình Dechow và các cộng sự (1995) bằng việc thêm vào mơ hình biến hiệu quả hoạt động (ROA) như một biến độc lập. Kothari và các cộng sự (2005) cho rằng việc bổ sung ROA vào mơ hình là điều cần thiết nhằm đảm bảo sự chính xác, nâng cao độ tin cậy của các suy luận từ nghiên cứu, khi mà doanh nghiệp có sự tăng trưởng vượt bậc trong khoảng thời gian nào đó. Mơ hình của Kothari và các cộng sự (2005) như

A<sub>it−1</sub> <sup>+ α</sup><sup>4</sup><sup>ROA</sup><sup>it(or it−1)</sup><sup>+ ε</sup><sup>it</sup>

<b>- Mơ hình Raman và Shahrur (2008) </b>

Mơ hình Raman và Shahrur (2008), là mơ hình phát triển dựa trên mơ hình Jones điều chỉnh và mơ hình của Kothari và cộng sự (2005), khi bổ sung thêm vào mơ hình biến độc lập là tỷ lệ giá trị sổ sách trên thị trường như một cách đo lường của các cơ hội tăng trưởng của công ty. Raman và Shahrur (2008) cho rằng các công ty có cơ hội tăng trưởng cao hơn sẽ có xu hướng dồn tích cao hơn. Mơ hình này như sau:

BMK<sub>it</sub>: Tỷ lệ giá trị sổ sách trên thị trường được xác định bởi tỷ lệ của tổng tài sản trên tổng tài sản trừ đi giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu cộng với giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu.

Dựa vào các điểm tổng quan trên, trong nghiên cứu này tác giả lựa chọn phương pháp đo lường chất lượng BCTC thông qua QTLN dựa trên biến kế tốn dồn tích. Trong nghiên cứu "Kiểm định và nhận diện mơ hình nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các công ty niêm yết tại Việt Nam" của Nguyễn Anh Hiền và Phạm Anh Trung (2015) đã thực hiện đánh giá 3 mơ hình gồm mơ hình của Jones (1991), Dechow và các cộng sự (1995), Kothari và các cộng sự (2005), đây là 3 mơ hình được các tác giả cho là được vận dụng nhiều nhất trong các nghiên cứu để nhận diện hành vi QTLN. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng mơ hình của Dechow và các cộng sự (1995), Kothari và các cộng sự (2005) được xem là phù hợp để nhận diện hành vi QTLN của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam. Kết quả kiểm định trong nghiên cứu cũng cho thấy mơ hình của Kothari và các cộng sự (2005) được đánh giá là thích hợp nhất. Do đó, tác giả sẽ sử

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

dụng mơ hình của Kothari và các cộng sự (2005) để đo lường QTLN (gián tiếp đo lường chất lượng BCTC) trong nghiên cứu của mình.

<b>2.2.4 Lý thuyết nền </b>

<b>a. Lý thuyết ủy nhiệm (Agency theory) </b>

Lý thuyết ủy nhiệm (hay lý thuyết đại diện) được đề xướng đầu tiên bởi Ross (1973) và được phát triển thêm bởi Jensen và Meckling (1976). Lý thuyết ủy nhiệm về cơ bản giải thích mối quan hệ giữa hai bên, đó là bên ủy nhiệm (principal) và bên đại diện hay còn gọi là bên được ủy nhiệm (agent). Mối quan hệ ủy nhiệm được Jensen và Meckling (1976) định nghĩa như sau: “một hợp đồng trong đó một hay nhiều người sử dụng dịch vụ của một người khác để hoàn thành một cơng việc nào đó dưới danh nghĩa của mình, hành động này bao hàm sự ủy quyền quyền ra quyết định cho người khác”. Một các khái quát “mối quan hệ ủy nhiệm được thiết lập giữa hai hay nhiều bên khi mà một trong các bên này, gọi là người được ủy nhiệm (agent), hành động như một đại diện của bên kia, được gọi là người ủy quyền (principal), trong một bối cảnh ra quyết định đặc biệt” (Ross, 1973). Mối quan hệ ủy nhiệm thường xuất hiện trong hai trường hợp phổ biến là mối quan hệ giữa cổ đông với nhà quản lí và mối quan hệ giữa chủ nợ với các cổ đông của công ty.

Lý thuyết ủy nhiệm cho rằng cả hai bên trong một mối quan hệ ủy nhiệm đều có mục tiêu tối đa hóa lợi ích của mình. Bên được ủy nhiệm thường được kỳ vọng sẽ hành động mang lại lợi ích tối đa cho bên ủy nhiệm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, bên được ủy nhiệm thường hành động bởi lợi ích cá nhân và thường tập trung vào việc khai thác lợi ích cá nhân hơn là xem xét lợi ích của bên ủy nhiệm. Các vấn đề này dẫn đến việc phát sinh chi phí ủy nhiệm. Chi phí ủy nhiệm về cơ bản là loại chi phí để duy trì mối quan hệ ủy nhiệm hiệu quả. Jensen và Meckling (1976) chia chi phí ủy nhiệm thành ba loại gồm chi phí giám sát, chi phí liên kết và chi phí khác.

Lý thuyết ủy nhiệm nhấn mạnh vào sự xung đột lợi ích giữa các bên liên quan, đặc biệt là giữa nhà quản lý và cổ đơng. Điều này dẫn đến các nhà quản lý có thể có động cơ để thực hiện QTLN để đáp ứng các mục tiêu hoặc mong muốn cá nhân của họ, thay vì lợi ích tốt nhất cho cổ đơng. Các nhà quản lý có thể thực hiện QTLN bằng cách điều chỉnh các biến số tài chính như doanh thu, lợi nhuận, và chi phí để làm cho BCTC trở nên hấp dẫn hơn dù không phản ánh đúng thực tế của doanh nghiệp. Từ đó có thể làm cho BCTC khơng được phản ánh một cách khơng trung thực tình hình hoạt động của công ty, làm giảm chất lượng BCTC được báo cáo.

Hay trong mối quan hệ giữa cổ đông và chủ nợ, trong một doanh nghiệp, cổ đông và chủ nợ có các mục tiêu và quyền lợi riêng biệt. Cổ đông thường mong muốn thấy

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

doanh nghiệp có lợi nhuận cao để tăng giá trị cổ phiếu và cổ tức, trong khi chủ nợ quan tâm đến việc đảm bảo trả nợ và lãi suất theo hợp đồng. Khi đó nhà quản lý, trong vai trò người đại diện cho cổ đơng, có thể thực hiện các biện pháp QTLN nhằm tối ưu hóa kết quả tài chính. Điều này có thể bao gồm việc điều chỉnh thơng tin tài chính trong BCTC để tạo ra một hình ảnh tốt hơn về hiệu suất tài chính của doanh nghiệp, đồng thời giảm bớt áp lực từ chủ nợ và cổ đông. Hành vi QTLN được xem là một cách để giải quyết xung đột quyền lợi giữa cổ đơng và chủ nợ. Nhà quản lý có thể cố gắng cân đối giữa mong muốn của cổ đông và chủ nợ thông qua việc thực hiện các biện pháp QTLN có thể giữ được sự hài lịng của cả hai bên. Hành động đó làm cho BCTC khơng phản ánh trung thực tình hình hoạt động của công ty.

Lý thuyết ủy nhiệm thường được vận dụng trong các nghiên cứu về hành vi QTLN làm ảnh hưởng đến chất lượng BCTC nhằm giải thích sự ảnh hưởng của các nhân tố đến chất lượng của BCTC như nghiên cứu của Waweru và Riro (2013), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), Asegdew (2016), Bùi Văn Dương và Ngơ Hồng Điệp (2017), Echobu và các cộng sự (2017), Phạm Thị Bích Vân (2017).

<b>b. Lý thuyết tín hiệu (Signalling Theory) </b>

Lý thuyết tín hiệu (Signaling Theory) được giới thiệu lần đầu tiên bởi Spence (1978) qua bài nghiên cứu mang tên "Job Market Signaling". Lý thuyết tín hiệu đưa ra giải pháp để khắc phục tình trạng thơng tin bất cân xứng giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư bằng cơ chế phát tín hiệu - cách mà người có thơng tin nhiều hơn sử dụng tín hiệu để thuyết phục người khác về chất lượng của họ. Để giảm thiểu tình trạng không cân xứng trong việc chia sẻ thông tin, các doanh nghiệp cần sử dụng cơ chế tín hiệu để truyền đạt thông tin về chất lượng của họ đến các bên liên quan. Lý thuyết này giả định rằng bên có nhiều thơng tin hơn sẽ có động cơ để truyền đạt thơng tin này một cách chính xác hoặc khơng chính xác để tạo ra ấn tượng tốt hơn về mình. Theo Muzahem (2011) bằng việc tăng cường công bố thông tin, các nhà quản lý mong muốn nhận được nhiều lợi ích hơn như nâng cao danh tiếng công ty và từ đó làm giá trị cơng ty tăng lên.

Lý thuyết tín hiệu được áp dụng để giải thích hành vi QTLN của nhà quản lý thông qua việc xem xét cách họ truyền đạt thông tin về hiệu suất tài chính của cơng ty. Nhà quản lý có thể sử dụng các biện pháp QTLN như điều chỉnh kết quả tài chính để tạo ra tín hiệu rằng doanh nghiệp đang hoạt động hiệu quả và có tiềm năng tăng trưởng, từ đó thu hút sự quan tâm và đầu tư từ các bên liên quan.

Lý thuyết tín hiệu thường được vận dụng trong các nghiên cứu về hành vi QTLN làm ảnh hưởng đến chất lượng BCTC nhằm giải thích sự ảnh hưởng của các nhân tố đến

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

chất lượng của BCTC như nghiên cứu của Waweru và Riro (2013), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), Asegdew (2016), Phạm Thị Bích Vân (2017).

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 </b>

Trong chương 2, tác giả đã thực hiện tổng quan về các nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài cũng như nêu ra được những tính mới của đề tài. Những khái niệm cũng như những vấn đề liên quan đến chất lượng BCTC cũng được trình bày. Tác giả cũng đã nêu ra 2 lý thuyết nền tảng liên quan gồm lý thuyết ủy nhiệm và lý thuyết tín hiệu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<b>CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU </b>

<b>3.1 Quy trình nghiên cứu </b>

Quy trình nghiên cứu của khóa luận được xây dựng với 6 bước cụ thể theo sơ đồ sau:

<i><b>Bước 1: Xác định vấn đề, phạm vi nghiên cứu của khóa luận </b></i>

<i><b>Bước 2: Thực hiện khảo lược các nghiên cứu trước đây về chất lượng BCTC cũng </b></i>

như các nhân tố ảnh hưởng chất lượng của BCTC. Từ đó nêu ra tính mới của đề tài nghiên cứu. Hệ thống hóa các lý thuyết nền tảng có liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng của BCTC.

<i><b>Bước 3: Phát triển các giả thuyết nghiên cứu và thiết lập mơ hình nghiên cứu Bước 4: Thu thập dữ liệu nghiên cứu </b></i>

Xác định vấn đề nghiên cứu

Tổng quan các nghiên cứu trước đây và lý thuyết nền

tảng

Phát triển các giả thuyết và xây dựng mơ hình nghiên cứu

Thu thập dữ liệu

Phân tích hồi quy dữ liệu Bàn luận kết quả nghiên cứu

và đưa ra các khuyến nghị

<b>Hình 3. 1: Sơ đồ quy trình nghiên cứu của khóa luận </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<i><b>Bước 5: Phân tích, thực hiện các kiểm định và phân tích hồi quy dữ liệu bằng phần </b></i>

mềm Stata 17

<i><b>Bước 6: Dựa trên cơ sở kết quả phân tích ở bước 5, tiến hành bàn luận và so sánh </b></i>

với kết quả của các nghiên cứu trước đó, từ đó đề xuất một số hàm ý chính sách mà tác giả cho là hữu ích đối với các cơng ty ngành bất động sản, các nhà đầu tư cũng như những đối tượng quan tâm đến chất lượng BCTC của các công ty ngành bất động sản niêm yết trên TTCK Việt Nam.

<b>3.2 Các biến trong mơ hình 3.2.1 Biến phụ thuộc </b>

Như đã trình bày ở chương 2, khóa luận đo lường chất lượng BCTC thông qua hành vi QTLN sử dụng mô hình của Kothari và các cộng sự (2005). Mơ hình như sau:

TA<sub>it</sub>: Tổng biến kế tốn dồn tích của công ty i năm t A<sub>t−1</sub>: Tổng tài sản năm trước

∆REV<sub>it</sub>: Chênh lệch doanh thu của công ty i năm t và năm t-1

PPE<sub>it</sub>: Nguyên giá bất động sản, nhà máy và các trang thiết bị của công ty i tại thời điểm cuối năm t

β<sub>1</sub>, β<sub>2</sub>, β<sub>3</sub>, β<sub>4</sub> : các hệ số của mơ hình ε<sub>it</sub>: phần dư

Tổng dồn tích (TA) bao gồm dồn tích khơng thể điều chỉnh (NDA) và phần dồn tích có thể điều chỉnh (DA). Phần dồn tích có thể điều chỉnh (DA) đại điện cho QTLN (Bartov và các cộng sự, 2000; Hồng, 2016; Lai, 2011). Từ phân tích này ta có:

<small>A</small><sub>it−1</sub>

=

<sup>NDA</sup><sup>it</sup>

<small>A</small><sub>it−1</sub>

+

<sup>DA</sup><sup>it</sup>

<small>A</small><sub>it−1</sub> <sup>(1) </sup>

Với TA<sub>it</sub> = ∆CA<sub>it</sub>− ∆Cash<sub>it</sub>− ∆CL<sub>it</sub>+ ∆STD<sub>it</sub>− DEP<sub>it</sub>

∆CA<sub>it</sub>: Chênh lệch tổng tài sản ngắn hạn của công ty i năm t và năm t-1

∆Cash<sub>it</sub>: Chênh lệch khoản mục tiền và các khoản tương đương tiền của công ty i năm t và năm t-1

∆CL<sub>it</sub>: Chênh lệch nợ ngắn hạn của công ty i năm t và năm t-1

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

∆STD<sub>it</sub>: Chênh lệch nợ vay được bao gồm trong nợ ngắn hạn của công ty i năm t

Như vậy, biến kế tốn dồn tích có thể điều chỉnh (DA) càng cao thì QTLN càng cao và chất lượng BCTC càng thấp. Để tính được phần dồn tích có thể điều chỉnh <sup>DA</sup><sup>it</sup>

<b>Bước 2: Ước lượng các hệ số 𝛃</b><sub>𝟏</sub>, 𝛃<sub>𝟐</sub>, 𝛃<sub>𝟑</sub>, 𝛃<sub>𝟒</sub><b> của mơ hình gốc của Kothari và các cộng sự (2005) bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS): </b>

<small>A</small><sub>it−1</sub> cần xác định được β̂<sub>1</sub>, β̂<sub>2</sub>, β̂<sub>3</sub>, β̂<sub>4</sub>, A<sub>it−1</sub>, ∆REV<sub>it</sub>, ∆REC<sub>it</sub>, PPE<sub>it</sub>, ROA<sub>it</sub>. Với β̂<sub>1</sub>, β̂<sub>2</sub>, β̂<sub>3</sub>, β̂<sub>4</sub> là những tham số được ước lượng từ các hệ số β<sub>1</sub>, β<sub>2</sub>, β<sub>3</sub>, β<sub>4</sub> ở vì QTLN là hành vi điều chỉnh lợi nhuận nên dù là nhà quản lý thổi phồng lợi nhuận hay che giấu lợi nhuận (tương ứng với DA mang giá trị dương hay âm) thì cũng đều là hành vi QTLN. Như vậy

|

<sup>DA</sup><sup>it</sup>

<small>A</small><sub>it−1</sub>

|

làm đại diện cho chất lượng BCTC. Tuy nhiên,

|

<sup>DA</sup><sup>it</sup>

<small>A</small><sub>it−1</sub>

|

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

càng cao thì QTLN càng cao và chất lượng BCTC càng thấp. Do đó dựa trên các nghiên cứu trước như Asegdew (2016), Chen và cộng sự (2011) tác giả nhân giá trị tuyệt đối của

|

<sup>DA</sup><sup>it</sup>

<small>A</small><sub>it−1</sub>

|

với (-1), giá trị này cao hơn thể hiện chất lượng BCTC cao hơn.

<b>3.2.2 Biến độc lập </b>

Dựa trên các yếu tố cụ thể của công ty được cho là có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng BCTC trong các nghiên cứu trước đây. Sau khi đã cân nhắc và chọn lọc, khóa luận đề xuất 7 biến độc lập mang tính đại diện bao gồm: Quy mơ cơng ty (SIZE), địn bẩy tài chính (LEV), hiệu quả hoạt động (ROA), tính thanh khoản (LIQ), tốc độ tăng trưởng (GROWTH), mức độ thâm dụng vốn (PPETA), chính sách cổ tức (DP). Thực hiện xem xét liệu chất lượng BCTC có bị ảnh hưởng bởi các nhân tố này hay không.

<b>Quy mô công ty </b>

Theo các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa quy mô công ty và chất lượng BCTC, phần lớn các nghiên cứu đều tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa quy mô công và chất lượng BCTC như nghiên cứu của Soyemi và Olawale (2019), Awodiran và Ogundele (2022), Hassan và Bello (2013). Bên cạnh đó cũng có một số nghiên cứu cho rằng quy mơ cơng ty có ảnh hưởng ngược chiều đến chất lượng BCTC như nghiên cứu của Asegdew (2016), Klai và Omri (2011), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016). Một số ít nghiên cứu khác lại khơng tìm thấy mối quan hệ giữa quy mô công ty và chất lượng BCTC như nghiên cứu của Waweru và Riro (2013), Nguyễn Ngọc Phong Lan (2023). Theo Hassan và Bello (2013) cơng ty có quy mô lớn sẽ quan tâm đến danh tiếng của mình, bên cạnh đó những cơng ty lớn thường có cơ chế quản trị và hệ thống kiểm sốt nội bộ chặt chẽ, tiếp cận với dịch vụ kiểm tốn chất lượng từ các cơng ty kiểm tốn lớn do đó nhà quản lý sẽ có xu hướng hạn chế thực hiện hành vi QTLN hơn so với các cơng ty nhỏ và do đó chất lượng BCTC được cải thiện. Điều này có thể được giải thích bởi lý thuyết tín hiệu. Do đó tác giả đưa ra giả thuyết sau:

<i>H1: Quy mô công ty ảnh hưởng cùng chiều đến chất lượng BCTC </i>

<b>Địn bẩy tài chính </b>

Các nghiên cứu trước đây có sự khơng đồng nhất về kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa địn bẩy tài chính và chất lượng BCTC. Trong khi các nghiên cứu của Asegdew (2016), Nguyễn Ngọc Phong Lan (2023), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) khơng tìm thấy mối quan hệ thống kê nào về mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính và chất lượng BCTC. Thì Echobu và các cộng sự (2007), Hassan và Bello (2013), Klai và Omri (2011), Nguyễn Thị Phương Hồng (2016) lại tìm ra mối quan hệ tích cực giữa địn bẩy tài chính và chất lượng BCTC. Mặt khác Waweru và Riro (2013) lại tìm thấy mối quan hệ tiêu

</div>

×