Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Bồi dưỡng kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học của học viên đào giáo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở trường sĩ quan chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.99 KB, 55 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết </b>

Nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực chất lượng cao được coi là một trong những yếu tố quyết định đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã

<i>chỉ rõ: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài” [12, tr.115]. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 ngày càng phát </i>

triển mạnh mẽ, xu hướng xây dựng Nhà trường thông minh phải gắn liền với

<i>quan điểm đổi mới giáo dục: “Dạy học là dạy cách học, cách tư duy, cách sáng tạo…” [6], điều đó đã đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với chất </i>

lượng giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) của các trường sĩ quan Quân đội nói chung, Trường Sĩ quan Chính trị (SQCT) nói riêng. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) ở Nhà trường thì phát huy tính độc lập, sáng tạo của học viên trong hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm trang bị hệ thống kiến thức, phát triển phẩm chất và năng lực nghề nghiệp, nhất là khả năng làm việc độc lập, tự lực phát hiện vấn đề (PHVĐ) thực tiễn đặt ra.

Trong NCKH, PHVĐ là công việc đầu tiên nhà nghiên cứu phải thực hiện để hình thành đề tài nghiên cứu. Đây chính là cơ sở để giải quyết những tồn tại, hạn chế, những mâu thuẫn và vướng mắc ngay trong lý luận và thực tiễn GD&ĐT ở Nhà trường. Kỹ năng PHVĐ trong NCKH có vai trò rất quan trọng, giúp người học chủ động lựa chọn được những vấn đề khoa học bảo đảm tính cấp thiết, tính chân lý, tính khả thi, nhờ đó mà trình độ, kỹ năng nghiên cứu của bản thân người học không ngừng bổ sung, phát triển và hồn thiện. Thơng qua bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH cho học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV sẽ giúp hình thành và phát triển tư duy khoa học ngay trong quá trình học tập; tiếp thu, xử lý và vận dụng sáng tạo các kiến thức được trang bị vào điều kiện thực tiễn học tập công tác tại trường, qua đó góp phần nâng cao chất lượng, kết quả học tập của bản thân cũng như đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp GD&ĐT, NCKH của Nhà trường trong giai đoạn mới.

Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động NCKH nói chung, kỹ năng PHVĐ trong NCKH nói riêng; thời gian qua Nhà trường đã xây dựng kế hoạch, nội dung, phương pháp bồi dưỡng kỹ năng NCKH cho đội ngũ học viên một cách khoa học, chặt chẽ, đem lại những hiệu quả thiết thực. Các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH đã được tiến hành tương đối đa dạng, phong phú, do đó tư duy khoa học và kỹ năng PHVĐ trong NCKH đã bước đầu hình thành ở một bộ phận học viên, thể hiện thông qua nhiều sản phẩm, cơng trình khoa học học viên đạt chất lượng tốt, phản ánh đúng trình độ học tập, nghiên cứu của từng cá nhân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên còn gặp nhiều hạn chế, bất cập; các lực lượng sư phạm mới tập trung bồi dưỡng những kỹ năng NCKH nói chung như kỹ năng xây dựng đề cương nghiên cứu; kỹ năng lựa chọn, thu thập, xử lý thông tin; kỹ năng viết đề tài… mà chưa thực sự chú trọng đến bồi dưỡng những kỹ năng PHVĐ: Kỹ năng liên tưởng, tưởng tượng; kỹ năng phát hiện mâu thuẫn; kỹ năng đặt câu hỏi; kỹ năng tư duy phản biện... Biểu hiện cụ thể ở việc, học viên còn nghèo nàn, thiếu ý tưởng trong xác định vấn đề khoa học, những vấn đề nghiên cứu được người học đưa ra thường rập khuân, máy

<i>móc theo lối mịn, ít thấy được tính mới; bên cạnh đó “một bộ phận khơng nhỏ học viên cịn dựa dẫm, ỷ lại vào cơng trình khoa học đi trước, khơng có sự đầu tư trong nghiên cứu, thụ động ngay trong việc xác định, lựa chọn đề tài nghiên cứu, còn trùng lặp về hướng, cách tiếp cận nghiên cứu, ý tưởng chưa rõ, chưa bám sát thực tiễn giáo dục - đào tạo” [30, tr.4]. Những hạn chế </i>

này diễn ra trong bối cảnh, một bộ phận cán bộ, giảng viên và học viên chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, ý nghĩa bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH, chưa xác định rõ mục tiêu kỹ năng PHVĐ cần bồi dưỡng cho học viên. Bên cạnh đó, phương pháp và hình thức tiến hành bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH cho học viên chưa đa dạng, thiếu chặt chẽ… Điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng NCKH của Nhà trường.

Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, trước mục tiêu yêu cầu ngày càng cao về phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ quân đội, người giáo viên KHXH&NV, để đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện phẩm chất năng lực

<i>người học, nhất là năng lực trí tuệ, năng lực hành động thực tiễn phải“Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi” [12, tr.136]. Điều đó địi hỏi các lực lượng sư phạm ở trường SQCT phải </i>

tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp phát triển năng lực hành động sáng tạo cho học viên, trong đó, bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH có ý nghĩa quan trọng, trực tiếp nâng cao kiến thức, hình thành, phát triển tư duy khoa học của học viên trong quá trình đào tạo tại trường.

Xuất phát từ những lý do trên mà chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề

<i>tài “Bồi dưỡng kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay”. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cần thiết hiện nay, góp </i>

phần nâng cao chất lượng NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

<b>2. Tình hình nghiên cứu liên quan </b>

<b>Trong quá trình đào tạo ở các trường đại học, NCKH của người học là </b>

một trong những yêu cầu, nhiệm vụ không thể thiếu nhằm nâng cao chất lượng GD&ĐT. Chính vì thế, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

hoạt động NCKH, kỹ năng tổ chức hoạt động NCKH nói chung hay kỹ năng NCKH nói riêng, cả trong và ngồi quân đội.

<i>Cuốn sách: “Đi vào nghiên cứu khoa học” của tác giả Nguyễn Văn </i>

Tuấn [24] đã luận giải những nội dung cơ bản về khoa học, đạo đức khoa học và vấn đề công bố quốc tế. Tác giả đã đề cập tới những vấn đề cốt lõi khi tiến hành NCKH như cách đặt câu hỏi trong nghiên cứu, văn hóa, đạo đức khoa học cùng thước đo đánh giá năng lực của nhà khoa học. Ngồi ra tác giả cịn tập trung vào chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân khi tiến hành hoạt động nghiên cứu, qua đó giúp kích thích tính độc lập, sáng tạo và phát triển tư duy khoa học cho đội ngũ sinh viên khi mới bước vào NCKH.

<i>Cuốn sách: “Hoạt động nghiên cứu khoa học giáo dục của sinh viên sư phạm” của tác giả Phạm Hồng Quang [23] đã cung cấp những thông tin khái </i>

quát về hoạt động học tập ở đại học, hoạt động NCKH giáo dục, các vấn đề cơ bản về quy trình nghiên cứu, các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động NCKH giáo dục của sinh viên, trong đó tác giả nhấn mạnh tới những yêu cầu đối với sinh viên sư phạm trong khi NCKH, nhất là khâu phát hiện vấn đề, chọn vấn đề nghiên cứu.

<i>Tác giả Vũ Cao Đàm với cuốn sách: “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học” [14] đã phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về </i>

phương pháp luận NCKH. Tác giả khẳng định: NCKH là hoạt động trí tuệ sáng tạo của các nhà khoa học, nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị và ứng dụng vào việc cải tạo thế giới khách quan. Trong đó tác giả cũng đã làm rõ việc lựa chọn đề tài, xây dựng luận điểm khoa học, phương pháp phát hiện vấn đề trong nghiên cứu.

<i>Tác giả Lê Thị Thanh Chung với Luận án tiến sĩ Giáo dục học: “Biện pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên đại học sư phạm” [9]. Đề tài đã luận giải những vấn đề cơ bản của việc nâng cao chất </i>

lượng NCKH cho sinh viên đại học sư phạm, những nhân tố tác động đến việc nâng cao chất lượng NCKH của sinh viên, đồng thời đề xuất những biện pháp cơ bản nâng cao chất NCKH, trong đó nhấn mạnh biện pháp kích thích hứng thú NCKH và tư duy sáng tạo cho sinh viên.

<i>Tác giả Bùi Đăng Hiếu với cơng trình “Kỹ năng nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội” [17]. Tác giả đã đề cập một </i>

số vấn đề lý luận và thực tiễn, đưa ra các khái niệm về NCKH, kỹ năng NCKH và kỹ năng NCKH của sinh viên các trường đại học cao đẳng, đồng thời tác giả chỉ rõ quy trình, các khâu, các bước bồi dưỡng kỹ năng NCKH của sinh viên, đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng kỹ năng NCKH cho sinh viên.

<i>Tác giả Dương Quang Bích với cơng trình “Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của học viên Hệ Đào tạo sau đại học ở Học viện Chính trị - quân sự hiện nay” [2] đã đề cập đến nâng cao chất lượng NCKH của </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

học viên đào tạo sau đại học và học viên đào tạo chính trị viên ở Học viện Chính trị quân sự, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng NCKH cho học viên sau đại học.

<i>Tác giả Nguyễn Văn Lan với cơng trình nghiên cứu “Phát triển năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 hiện nay” [19], tác giải đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực </i>

tiễn vấn đề phát triển năng lực NCKH của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường Sĩ quan Lục quân 2. Theo tác giả việc phát triển năng lực NCKH của học viên là q trình khơng ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, nâng cao phương pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt, sáng tạo tri thức khoa học vào phát triển và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh trong quá trình học tập, rèn luyện ở trường cũng như trên cương vị công tác sau này.

<i>Tác giả Nguyễn Văn Phúc với cơng trình “Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học cho học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay” [22] đã luận giải về đặc điểm NCKH, tiêu chí </i>

đánh giá chất lượng, đánh giá thực trạng, xác định nguyên nhân, rút ra những kinh nghiệm nâng cao chất lượng NCKH của học viên đào tạo chính trị viên ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay.

<i>Tác giả Nguyễn Văn Tượng với luận án tiến sĩ khoa học chính trị: “Bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở nhà trường quân đội hiện nay” [25]. Tác giả đã làm rõ </i>

quan niệm về năng lực NCKH của học viên đào tạo giảng viên KHXH&NV ở nhà trường quân đội, xác định những yếu tố cấu thành năng lực NCKH bao gồm tri thức, năng lực tư duy khoa học và kỹ năng NCKH. Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng về kỹ năng NCKH của học viên, đã xác định yêu cầu và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXH&NV ở nhà trường quân đội hiện nay.

<i>Bài báo khoa học của tác giả Lê Văn Làm “Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo chính trị viên ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự [20]. Tác giả </i>

khẳng định tính tất yếu phải nâng cao chất lượng NCKH của học viên nói chung và học viên đào tạo chính trị viên trong nhà trường quân đội nói riêng.

<i>tác giả chỉ rõ: “Chất lượng cơng trình khoa học của học viên còn hạn chế. Tình trạng trùng lặp đối tượng, phạm vi nghiên cứu và kết cấu lơgíc đề tài vẫn là phổ biến. Nhiều đề tài, chuyên đề có nội dung sao chép của các cơng trình đã công bố. Từ thực trạng ấy, việc quan tâm hơn nữa đến nâng cao chất lượng NCKH của học viên là thực sự cần thiết để đáp ứng được mô hình, mục tiêu, u cầu đào tạo chính trị viên hiện nay” [20, tr. 64].</i>

Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu và bài viết trên đây là những định hướng, gợi ý quan trọng giúp tác giả trong q trình nghiên cứu. Nó góp

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

phần làm sáng tỏ những cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp quan trọng trong bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH. Các cơng trình đã khẳng định vai trò của NCKH, kỹ năng NCKH đối với việc nâng cao chất lượng GD&ĐT và NCKH của Nhà trường. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào đề cập đến vấn đề bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay. Do vậy đề tài không trùng lặp với các đề tài, cơng trình khoa học đã cơng bố.

<i><b>3. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu </b></i>

<i>* Mục tiêu nghiên cứu </i>

Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở trường SQCT hiện nay nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập, NCKH của học viên, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.

<i>* Nội dung nghiên cứu </i>

Luận giải một số vấn đề lý luận về bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT.

Đánh giá thực trạng bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay và tìm hiểu nguyên nhân.

Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay.

<b>4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu </b>

<i>* Đối tượng nghiên cứu </i>

Bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay.

<i>* Phạm vi nghiên cứu </i>

<i>Phạm vi nội dung, đối tượng, không gian khảo sát: Hoạt động bồi </i>

dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên

<i>KHXH&NV ở Tiểu đoàn 11 Trường SQCT. </i>

<i>Phạm vi thời gian: Các số liệu điều tra được sử dụng từ năm 2016 đến nay. Số liệu khảo sát năm 2020. </i>

<b>5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài </b>

<i>* Phương pháp luận </i>

Đề tài nghiên cứu dựa trên những quan điểm, nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, Quân ủy Trung ương, Trường SQCT về GD&ĐT và NCKH.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ </i>

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, chú trọng các phương pháp: Hệ thống và cấu trúc; lôgic và lịch sử; phân tích và tổng hợp; so sánh; tổng kết thực tiễn; điều tra khảo sát và phương pháp chuyên gia.

<i><b> 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài </b></i>

Đề tài góp phần bổ sung lý luận, thực tiễn và giải pháp bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay, cung cấp những luận cứ khoa học để lãnh đạo, chỉ huy các cấp ở Trường SQCT tiến hành tổ chức tốt hoạt động NCKH; đồng thời đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu giảng dạy và ứng dụng vào bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo

<i>giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay. </i>

<b>7. Kết cấu </b>

Đề tài gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các cơng trình khoa học đã cơng bố và phụ lục.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>Chương 1 </b>

<b>MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN BỒI DƯỠNG </b>

<b>KỸ NĂNG PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ </b>

<b>NHÂN VĂN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ </b>

<b>1.1. Một số vấn đề lý luận bồi dưỡng kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị </b>

<i><b>1.1.1. Kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn </b></i>

<i>* Vấn đề nghiên cứu (Vấn đề khoa học) </i>

<i>Vấn đề khoa học (Scientific problem) hay còn gọi là vấn đề nghiên cứu (Research problem) là vấn đề mà nhà nghiên cứu đặt ra như một bức xúc, một </i>

tình huống khó khăn hay một vấn nạn cần được giải quyết.

Vấn đề nghiên cứu, trước hết là những câu hỏi chứa đựng mâu thuẫn. Những câu hỏi được đặt ra khi nhà nghiên cứu đứng trước mâu thuẫn giữa hạn chế của tri thức khoa học hiện có với yêu cầu phát triển tri thức đó ở trình độ cao hơn. Đó là sự hiểu biết về sự tồn tại khách quan của đối tượng nghiên cứu mà bản chất, các quy luật của chúng chưa được phát hiện và điều chỉnh theo yêu cầu của nhà nghiên cứu. Thực chất vấn đề nghiên cứu là câu hỏi đặt ra đòi hỏi nhà nghiên cứu cần phải trả lời, phải thực hiện để giải quyết mâu thuẫn đó.

Vấn đề nghiên cứu là biểu hiện cụ thể của hướng nghiên cứu, phản ánh sự hiểu biết về cái chưa biết trong hiện thực cuộc sống. X. L. Rubinstein (1958)

<i>cho rằng: “Tư duy thường bắt đầu từ một vấn đề hay một câu hỏi, từ sự ngạc nhiên hay sự thắc mắc, từ sự mâu thuẫn...” [14]. Vấn đề nghiên cứu biểu thị </i>

mâu thuẫn được nảy sinh trong lý luận hay thực tiễn hoạt động sống của con người. Việc giải quyết mâu thuẫn vốn có của vấn đề sẽ thúc đẩy hoạt động

<i>nhận thức vận động, đồng thời là cơ sở cho việc lựa chọn đề tài nghiên cứu. Như vậy, có thể quan niệm: Vấn đề nghiên cứu là một câu hỏi, những điều chưa biết hoặc biết chưa đầy đủ, chưa thấu đáo về bản chất hoặc quy luật của các sự vật, hiện tượng chứa đựng mâu thuẫn mà người nghiên cứu cần phải trả lời, phải thực hiện để giải quyết mâu thuẫn nào đó của đối tượng nghiên cứu. </i>

Vấn đề nghiên cứu được thể hiện trong các loại câu hỏi như sau:

<i>Câu hỏi thuộc loại thực nghiệm: Đây là những câu hỏi có liên quan tới </i>

các sự kiện đã xảy ra hoặc các q trình có mối quan hệ nhân quả về thực tiễn cuộc sống. Để trả lời câu hỏi loại này, nhà nghiên cứu cần phải tiến hành quan sát hoặc làm thực nghiệm, tất cả các kết luận phải dựa trên độ tin cậy của số liệu thu thập trong quan sát và thực nghiệm.

<i>Câu hỏi thuộc loại quan niệm hay nhận thức: Loại câu hỏi này có thể </i>

được trả lời bằng những nhận thức một cách logic, hoặc chỉ là những suy nghĩ đơn giản cũng đủ để trả lời mà không cần tiến hành thực nghiệm hay quan sát. Suy nghĩ đơn giản được hiểu là có sự phân tích nhận thức và lý lẽ hay lý do,

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nghĩa là sử dụng các nguyên tắc, quy luật, pháp lý trong xã hội và những cơ sở khoa học có trước.

<i>Câu hỏi thuộc loại đánh giá: Câu hỏi thuộc loại đánh giá là câu hỏi thể </i>

hiện giá trị và tiêu chuẩn, liên quan tới việc đánh giá các giá trị về đạo đức hoặc giá trị thẩm mỹ. Để trả lời các câu hỏi loại này, cần hiểu biết nét đặc trưng giữa giá trị thực chất và giá trị sử dụng. Giá trị thực chất là giá trị hiện hữu riêng của sự vật mà không lệ thuộc vào cách sử dụng. Giá trị sử dụng là sự vật chỉ có giá trị khi nó đáp ứng được nhu cầu sử dụng và bị đánh giá

<i>khơng cịn giá trị khi khơng cịn đáp ứng được nhu cầu sử dụng nữa. * Phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học </i>

PHVĐ là công việc đầu tiên, có ý nghĩa định hướng q trình NCKH, là cơ sở để người nghiên cứu thực hiện các bước tiếp theo. Trong NCKH, đề tài nghiên cứu khơng phải là cái có sẵn mà là kết quả của cả quá trình phức tạp và biện chứng, từ những ghi nhận có được trong q trình lĩnh hội kiến thức đến kỹ năng quan sát và phân tích thực tế. Việc đối chiếu những phân tích đó với thực trạng kiến thức hiện tại nhằm mục đích PHVĐ nghiên cứu.

PHVĐ trong NCKH là một bước rất quan trọng trong quá trình phát

<i>triển nhận thức của con người. Do đó, có thể quan niệm: Phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học là quá trình lựa chọn một hay nhiều mâu thuẫn trong những mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng cần nghiên cứu mà chủ thể có thể giải quyết được nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu nhất định. </i>

Thực tiễn hoạt động của con người luôn nảy sinh hạn chế, bất cập hay những mâu thuẫn cần được giải quyết. Những mâu thuẫn này được lựa chọn và trở thành vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên, không phải mâu thuẫn nào cũng

<i>được lựa chọn nghiên cứu, nó phụ thuộc vào những điều kiện chủ quan, nhân </i>

tố khách quan và nhu cầu thực tiễn.

Điều kiện chủ quan là toàn bộ ý thức, ý chí và năng lực tổ chức các hoạt động của con người trong phát triển kỹ năng PHVĐ trong NCKH. Nó được biểu hiện cụ thể ở trình độ tri thức đã được lĩnh hội, động cơ, thái độ, trách nhiệm trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội tri thức mới, nâng cao phương pháp tư duy, khả năng sáng tạo và khả năng tổ chức hoạt động tự bồi dưỡng.

Nhân tố khách quan là điều kiện, môi trường NCKH của Nhà trường (trong đó có hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên). Độ sâu của một bài giảng, phương pháp giảng dạy của giảng viên, cơ sở vật chất và những chính sách cụ thể đối với hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH là những yếu tố thường xuyên tác động đến tình cảm, ý chí, ý thức phấn đấu của người học trong phát triển kỹ năng NCKH.

Nhà nghiên cứu phải bám sát nhu cầu thực tiễn để chọn vấn đề nghiên cứu phù hợp với khả năng, đúng tầm, có ý nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn, bảo đảm tính khả thi, khả năng khái quát, dự báo, khả năng ứng dụng của cơng trình nghiên cứu khi hồn thành. Vì thế, kết quả nghiên cứu thành công hay không phụ thuộc trước hết vào việc phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh trong thực tế cuộc sống.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i> Cách phát hiện vấn đề nghiên cứu khoa học </i>

<i> Phát hiện sự kiện nghiên cứu trong thực tiễn: Sự kiện nghiên cứu đó </i>

phải chứa đựng mâu thuẫn. Mâu thuẫn trong NCKH thường được thể hiện dưới dạng những yêu cầu trong thực tiễn, trong đời sống cần thoả mãn; sự không phù hợp giữa những điều đã biết trong lý luận với thực tiễn; sự không phù hợp giữa các lý luận; những điều cần giải đáp mới về lý luận...

<i> Nghiên cứu tài liệu: Đây là quá trình nhà nghiên cứu đọc các cơng </i>

trình nghiên cứu của các tác giả đi trước có liên quan tới lĩnh vực hiểu biết của mình. Quá trình đọc phải phân tích được các mặt mạnh - yếu trong các luận đề, luận cứ và luận chứng mà các cơng trình trước trình được xem xét hoặc xem xét chưa thấu đáo, những vấn đề mới nảy sinh. Ngoài ra nhà nghiên cứu phải lật ngược vấn đề, phân tích các tranh luận khoa học, phát hiện vướng mắc thực tế, đề ra cách tháo gỡ.

<i>Tham gia các hội thảo khoa học và xin ý kiến chuyên gia: Nhà </i>

nghiên cứu tham gia các cuộc hội thảo khoa học, thông qua tranh luận khoa học có thể nảy sinh ý tưởng, vấn đề nghiên cứu mới. Ý tưởng cho vấn đề nghiên cứu đó có thể là những khoảng trống, hướng đi mới, độc lập mà nhà nghiên cứu cần khám phá. Bên cạnh đó nhà nghiên cứu cần tranh thủ xin ý kiến chuyên gia, nhất là chuyên gia về lĩnh vực mà mình cần nghiên cứu để cùng bàn luận, thảo luận với họ về những vấn đề cần nghiên cứu.

<i>Cách chọn vấn đề nghiên cứu </i>

Khi đã xác định được lĩnh vực nghiên cứu cần quan tâm (trong các mâu thuẫn cần giải quyết), cần liệt kê lĩnh vực đó thành các lĩnh vực nhỏ (bằng phương pháp động não, tư duy hệ thống, đọc tài liệu); chọn một lĩnh vực nhỏ chưa có thơng tin nhiều mà bản thân thích thú làm vấn đề nghiên cứu.

*<i>Quan niệm về kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn </i>

Kỹ năng là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các lĩnh vực hoạt động của con người. Theo các nhà tâm lý học và giáo dục học, hiện nay đang tồn tại các quan niệm khác nhau về kỹ năng. Có quan niệm xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kỹ thuật thao tác hành động; quan niệm khác xem xét kỹ năng nghiêng về mặt năng lực của con người. Thực chất cả hai quan niệm này không phủ định nhau, sự khác biệt chỉ là ở phạm vi triển khai của kỹ năng hành động trong các tình huống, điều kiện khác nhau.

<i>Theo Từ điển Tiếng Việt: "Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức đã thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó áp dụng vào thực tế" </i>

[37, tr. 644]. Tuy nhiên, không phải việc vận dụng những kiến thức lý luận, lý thuyết vào một lĩnh vực, một cơng việc nào đó là đã có kỹ năng. Kỹ năng chỉ hình thành và phát triển trên cơ sở được rèn luyện, được thử thách trong thực tiễn, đồng thời chủ thể biết vận dụng một cách thành thạo vào giải quyết thành công những vấn đề đặt ra, mang lại hiệu quả cao, có giá trị trong thực tiễn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>Từ những nội dung trình bày như trên, có thể quan niệm: Kỹ năng là trình độ, khả năng vận dụng những tri thức và kinh nghiệm đã được chủ thể tiếp nhận vào thực hiện có hiệu quả những cơng việc nhất định </i>

NCKH là hoạt động nhận thức, tìm tịi, khám phá, sáng tạo hệ thống tri thức mới nhằm thoả mãn nhu cầu hoạt động chuyên môn của nhà nghiên cứu theo yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Đây là hoạt động có nhiều khó khăn phức tạp, muốn NCKH đạt kết quả tốt đòi hỏi nhà nghiên cứu phải có những kỹ năng, phương pháp nghiên cứu nhất định, hay nói cách khác, phải có các thao

<i>tác, kỹ thuật tác động vào đối tượng nghiên cứu. </i>

Nét đặc trưng trong hoạt động NCKH của học viên đào tạo giáo viên thể hiện ở chỗ: Có tính độc đáo về mục đích và kết quả hoạt động; hoạt động diễn ra trong điều kiện có kế hoạch và phụ thuộc vào nội dung, phương thức, thời hạn đào tạo; phương tiện hoạt động phong phú; nhịp độ học tập căng thẳng đòi hỏi học viên phải huy động cao về trí lực trong suốt quá trình đào tạo. Trong quá trình tham gia NCKH, học viên đào tạo giáo viên dần dần hiểu được các vấn đề phương pháp luận khoa học, các phương pháp và kĩ thuật nghiên cứu. Đặc biệt là phẩm chất khoa học - yếu tố quan trọng cấu thành nhân cách nhà khoa học được định hình ngày càng rõ nét hơn. Bên cạnh đó, tính độc lập trí tuệ trong NCKH được coi là nét phẩm chất điển hình và quan trọng của tâm lí học viên, trên nền tảng này, sẽ hình thành năng lực tự học, tự nghiên cứu cho người học. Do đó, muốn NCKH đạt có chất lượng, đòi hỏi học viên phải có động cơ, nhu cầu, thái độ trách nhiệm cao, được trang bị hệ thống kỹ năng NCKH, đặc biệt trong đó có kỹ năng PHVĐ.

<i>Từ những cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: Kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học là trình độ, khả năng vận dụng tri thức và kinh nghiệm của học viên vào thực hiện có hiệu quả q trình tìm tòi, phát hiện, đề xuất vấn đề nghiên cứu trong thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của học viên, đáp ứng yêu cầu đào tạo của Nhà trường. </i>

<i> - Các yếu tố cấu thành kỹ năng PHVĐ trong NCKH </i>

<i>Một là, tri thức: Tri thức là những dữ kiện, thông tin, sự mô tả có được </i>

nhờ trải nghiệm hay thông qua hoạt động NCKH. Tri thức có 2 dạng là tri

<i>thức lý luận; tri thức thực tiễn. Tri thức lý luận (hay tri thức khoa học) là hệ </i>

thống những tri thức, hiểu biết sâu sắc của người học về bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, là cơ sở để họ nghiên cứu, khám phá những tri thức mới. Trên cơ sở vốn tri thức khoa học, học viên vận dụng vào thực tiễn

<i>NCKH để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Tri thức thực tiễn (hay tri </i>

thức kinh nghiệm) là những hiểu biết được hình thành trực tiếp trong thực tiễn cuộc sống, học tập, NCKH và trải nghiệm của học viên. Thông qua hoạt động thực tiễn làm cho họ hiểu sâu sắc về xã hội, quân đội, là cơ sở nảy sinh những sáng kiến và khởi nguồn sự sáng tạo. Tri thức về NCKH được hình thành thơng qua q trình dạy học và tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú

<i>trong Nhà trường. </i>

<i>Hai là, kinh nghiệm, vốn sống: Đây là yếu tố hết sức quan trọng trong </i>

hoạt động NCKH của học viên. Sự trải nghiệm trong hoạt động thực tiễn

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

NCKH không chỉ giúp cho học viên đào tạo giáo viên hình thành, phát triển kỹ năng PHVĐ một cách nhanh chóng mà cịn kích thích lịng say mê, nhiệt tình, sáng tạo của họ. Những trải nghiệm trong thực tiễn nghiên cứu là điều kiện, môi trường thuận lợi để học viên tự khẳng định mình, làm nảy sinh ở họ nhu cầu, động cơ phấn đấu, tính tích cực, tự giác vươn lên chiếm lĩnh tri thức, hồn thiện kỹ năng NCKH một cách nhanh chóng, hiệu quả.

<i>Ba là, trình độ tư duy khoa học của học viên đào tạo giáo viên: Đây là </i>

quá trình phản ánh hiện thực một cách gián tiếp. Ở đó học viên sử dụng ngơn ngữ và các hình thức thao tác tư duy để phân tích, tổng hợp, xử lý các tài liệu, số liệu, vấn đề khoa học do nhận thức cảm tính đem lại. Tư duy khoa học của học viên hướng tới sự nhận thức bản chất, các quy luật vận động của sự vật, hiện tượng, từ đó học viên chuyển hoá những tri thức của bản thân vào thực tiễn hoạt động NCKH để tìm ra những vấn đề mới, những ý tưởng sáng tạo.

Các yếu tố cấu thành kỹ năng PHVĐ trong NCKH có mối quan hệ thống nhất chặt chẽ với nhau. Nắm vững và làm chủ hệ thống kiến thức là cơ sở quan trọng giúp học viên vận dụng đúng đắn và sáng tạo vào quá trình NCKH. Khi học viên đã tích luỹ được vốn kinh nghiệm nhất định, họ sẽ có khả năng tiếp nhận, lựa chọn và sàng lọc thông tin tốt hơn, tổ chức, tiến hành hoạt động NCKH hiệu quả hơn. Thơng qua q trình nghiên cứu, trình độ tư duy khoa học, năng lực sáng tạo cũng được hình thành.

<i>- Vai trò kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học </i>

<i>Phát hiện vấn đề trong NCKH là cơ sở lựa chọn đề tài nghiên cứu bảo đảm tính cấp thiết, tính chân lý, tính khả thi: Quá trình học tập tại trường, học </i>

viên đào tạo giáo viên được trang bị hệ thống tri thức cơ bản về NCKH; được làm quen với các hoạt động khoa học, làm cơ sở hình thành các tri thức, kỹ năng, những kiến thức, phẩm chất cần thiết. Thông qua đó, học viên từng bước tham gia vào các hoạt động khoa học của đơn vị và của Nhà trường như: đề tài NCKH, hội thảo, toạ đàm, viết các bài báo khoa học… Chính vì vậy, việc phát hiện những mâu thuẫn trong thực tiễn hoạt động GD&ĐT là cơ sở để học viên lựa chọn những vấn đề nghiên cứu đáp ứng những đòi hỏi, những yêu cầu bức bối thực tiễn cuộc sống đã và đang đặt ra.

<i>Phát hiện vấn đề trong NCKH kích thích tư duy độc lập, sáng tạo của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV: PHVĐ trong nghiên cứu sẽ giúp học </i>

viên xác định được những mâu thuẫn, đặt ra những câu hỏi nghiên cứu, biết tư duy phản biện, đề xuất và đánh giá những ý tưởng mới; đây là cơ sở nâng cao trình độ trí tuệ, sự nhanh nhạy của tư duy, nâng cao chất lượng các hoạt động NCKH như: Xêmina, viết chuyên đề, tiểu luận, báo, tạp chí, hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật; phát triển kỹ năng hoạt động thực tiễn; nâng cao kết quả thực tập cuối khoá, kết quả thi, kiểm tra; góp phần quan trọng hồn thành mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.

<i>Phát hiện vấn đề trong NCKH trực tiếp nâng cao chất lượng, giá trị khoa học của đề tài, đồng thời góp phần nâng cao trình độ, kỹ năng, năng lực NCKH của học viên: Hoạt động NCKH đi sâu khám phá lý luận, tổng kết thực </i>

tiễn, đem lại lời giải cho người dạy và người học. Mỗi thành công của hoạt

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

động NCKH của học viên khơng chỉ góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT ở Nhà trường mà còn tạo ra động lực trực tiếp thúc đẩy người dạy và người học. Kết quả NCKH sẽ phần nào phản ánh đúng trình độ tư duy, năng lực

<i>nghiên cứu, khẳng định kết quả học tập của học viên tại Nhà trường. - Biểu hiện kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học: </i>

<i>Kỹ năng xác định mâu thuẫn trong thực tiễn: Đây là kỹ năng rất cần thiết </i>

trong quá trình nghiên cứu nhằm lựa chọn mâu thuẫn chủ yếu cần giải quyết, kỹ năng phát hiện xác định mâu thuẫn và tìm cách giải quyết mâu thuẫn đó, đưa những vấn đề có mâu thuẫn trở thành các ý tưởng và các hướng nghiên cứu. Đây là kỹ năng bước đầu của tồn bộ q trình PHVĐ nghiên cứu.

<i>Kỹ năng đặt câu hỏi trong NCKH: Đặt câu hỏi được xem là bước hết sức </i>

quan trọng, có tác động mạnh mẽ đến chất lượng thông tin thu được trong NCKH. Kỹ năng đặt câu hỏi phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó kinh nghiệm thực tế, kiến thức cơ bản về lĩnh vực nghiên cứu, ngôn ngữ và hiểu biết tâm lý đóng vai trị quan trọng. Khi đặt câu hỏi nhà nghiên cứu phải thường xuyên nghĩ đến mục đích, đặc điểm, tác dụng và nguyên tắc xây dựng để đặt những câu hỏi cho phù hợp.

<i>Kỹ năng so sánh lý thuyết đã có với thực tiễn: Nhà nghiên cứu so sánh </i>

lý thuyết đã có sẵn hay được tiếp nhận trong quá trình đào tạo với thực tiễn cuộc sống đang diễn ra. Kỹ năng so sánh lý thuyết với thực tiễn nhằm kiểm chứng tính đúng đắn của lý thuyết, tìm ra cách nghiên cứu bổ sung hoặc phủ định hoàn toàn lý thuyết cũ.

<i>Kỹ năng nhận dạng những bất đồng trong tranh luận: Khi tranh luận về </i>

những vấn đề do thực tiễn cuộc sống hay nghiên cứu đặt ra, bản thân mỗi nhà nghiên cứu đều đưa ra những lý lẽ để bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình. Những vấn đề mâu thuẫn chưa được giải quyết là những lỗ hổng về kiến thức cần nghiên cứu tiếp, cần được làm sáng tỏ, lý giải một cách có cơ sở để đi đến thống nhất.

<i>Kỹ năng tư duy phản biện (nghĩ ngược so với cách nghĩ thông thường): </i>

Tư duy phản biện đòi hỏi xem xét mọi vấn đề liên quan trước khi đi đến kết luận hoặc ra quyết định. Điểm quan trọng của tư duy phản biện là sự suy luận. Sự suy luận giúp người nghiên cứu suy nghĩ, đắn đo về mọi yếu tố có liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu, xem xét chúng ở nhiều khía cạnh khác nhau, đồng thời tiên đoán những khả năng có thể xảy ra trong tương lai.

<i>Kỹ năng đề xuất và đánh giá ý tưởng: NCKH là một quá trình diễn ra </i>

phức tạp, không ngừng giải quyết những mâu thuẫn của sự tìm tịi, phát hiện những tri thức mới. Q trình đó luôn xuất hiện những giả thuyết, những ý tưởng, những xu hướng, dự báo khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Thành công của NCKH là ở chỗ đề xuất và đánh giá những tri thức mới phù hợp với sự phát triển của hiện thực, đem lại lợi ích cho con người.

<i>Kỹ năng tưởng tượng, liên tưởng: Liên tưởng, tưởng tượng đóng vai trị </i>

hết sức quan trọng đối với hoạt động NCKH, không những giúp xác định đúng những ấn tượng trực cảm, chủ quan khi tiếp xúc với hiện thực cuộc sống

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

mà thơng qua q trình phân tích sẽ giúp con người chuyển từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính; qua đó đi vào chiều sâu, bề rộng của nhận thức,

<i>tạo cơ sở khách quan trong thao tác lựa chọn vấn đề khoa học cần nghiên cứu. Kỹ năng ghi lại những ý tưởng bất chợt nảy sinh: Đây là những câu hỏi </i>

xuất hiện khi người nghiên cứu bất chợt quan sát được một sự kiện nào đó, cũng có thể xuất hiện rất ngẫu nhiên, khơng phụ thuộc vào bất cứ lí do nào, thời gian hoặc không gian nào; việc ghi lại những ý tưởng bất chợt nảy sinh giúp nhà nghiên cứu lưu giữ, đối chiếu, so sánh và phân tích tìm ra những vấn đề, đặt ra những câu hỏi trước khi xác định đề tài nghiên cứu chính thức.

<i><b>1.1.2. Quan niệm, đặc điểm và tiêu chí đánh giá bồi dưỡng kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị </b></i>

<i><b>* Quan niệm bồi dưỡng kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa </b></i>

<i>học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị </i>

<i>Học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT là những học </i>

viên đang trong quá trình học tập, rèn luyện, tích lũy tri thức, trau dồi đạo đức, nghiệp vụ sư phạm và phát triển nhân cách toàn diện để trở thành những

<i>giáo viên KHXH&NV. Họ là những quân nhân, học sinh, thanh niên tự </i>

nguyện thi tuyển và được đào tạo tại trường; được tuyển chọn qua các khâu, các bước hết sức nghiêm ngặt. Là những học viên có xu hướng nghề nghiệp rõ ràng, có năng khiếu sư phạm nhất định, do đó họ có nguyện vọng được trở thành người giáo viên, những nhà khoa học ở các nhà trường Quân đội. Trong quá trình học tập, rèn luyện, cùng với việc lĩnh hội hệ thống tri thức, kỹ xảo, kỹ năng người học còn phải rèn luyện để có năng lực tư duy khoa học, năng lực nghề nghiệp, đặc biệt là phát triển kỹ năng PHVĐ để giải quyết tốt các mâu thuẫn, các tình huống trong hoạt động thực tiễn. Chính vì thế học viên ln tích cực, chủ động, nhiệt tình, sơi nổi tích lũy kiến thức, kỹ năng phương pháp luận NCKH dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của các lực lượng sư phạm trong Nhà trường, chủ động tìm tịi, khám phá những tri thức chuyên ngành và liên ngành. Ngoài ra học viên luôn mạnh dạn đề xuất những ý tưởng mới, biết đặt ra những câu hỏi chưa được lý giải rõ ràng, tiến hành đối chiếu, so sánh những kiến thức đã được trang bị với thực tiễn hoạt động quân sự, tìm ra những mâu thuẫn, bất cập bằng khả năng tư duy phản biện. Đây là điều kiện thuận lợi cho quá trình bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV.

<i>Theo Từ điển Tiếng Việt, bồi dưỡng là tổng thể các hoạt động "làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất" [37, tr.642] của một đối tượng cụ thể </i>

nào đó. Bồi dưỡng là một trong những hoạt động quan trọng nhất của quá trình phát triển nguồn nhân lực, được thực hiện trong quá trình đào tạo hoặc tiến hành sau quá trình đào tạo để bổ sung, phát triển, hoàn thiện các phẩm chất và năng lực chun mơn giúp cá nhân có thể tiến hành có hiệu quả các hoạt động. Bồi dưỡng là những hoạt động có mục đích của tổ chức hoặc cá nhân, nhằm bổ sung, hoàn thiện những phẩm chất, năng lực cần có của con

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

người để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trên các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.

<i>Từ cách tiếp cận trên có thể hiểu: Bồi dưỡng là q trình bổ sung kiến thức, kỹ năng và phẩm chất nghề nghiệp để nâng cao trình độ trong lĩnh vực hoạt động chuyên mơn nhất định, giúp người được bồi dưỡng có cơ hội củng cố, phát triển hoặc nâng cao hệ thống tri thức, kĩ xảo, kĩ năng, phẩm chất chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. </i>

Bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH có vai trị hết sức quan trọng, trực tiếp trang bị hệ thống kiến thức, phát triển phẩm chất và năng lực nghề nghiệp, nhất là khả năng làm việc độc lập, tự lực PHVĐ trong quá trình học tập của học viên. Bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH là yêu cầu cấp thiết đối với học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng GD&ĐT và NCKH ở Nhà trường. Trong quá trình học tập nếu học viên chỉ có kiến thức, kỹ năng chuyên môn đơn thuần, khơng có kỹ năng phát hiện những vấn đề mới thì học viên khơng thể đáp ứng u cầu ngày càng cao của sự nghiệp GD&ĐT. Do đó, bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH là một nội dung cơ bản trong hoạt động nâng cao trình độ nghiên cứu cho người học viên đào tạo giáo viên, nhằm bổ sung, củng cố, phát triển tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng sáng tạo trong nhận thức, đồng thời rèn luyện tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và tư duy khoa học của học viên.

Từ khái niệm bồi dưỡng, vận dụng tiếp cận vấn đề bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở trường

<i>SQCT với tư cách là một q trình, có thể khái qt: Bồi dưỡng kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị là q trình hoạt động có mục đích, có tổ chức của các lực lượng sư phạm trong Nhà trường tác động đến người học nhằm bổ sung, phát triển, hoàn thiện kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học, tăng thêm năng lực nghiên cứu khoa học của học viên, góp phần nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường. </i>

<i>Mục đích bồi dưỡng là bổ sung, phát triển, hồn thiện kiến thức, hình </i>

thành kĩ xảo, kỹ năng PHVĐ, nhất là những kỹ năng còn yếu và thiếu ở học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV, đáp ứng yêu cầu GD&ĐT và NCKH của Nhà trường.

<i>Chủ thể bồi dưỡng là </i>hệ thống tổ chức chỉ huy, cơ quan chức năng, các khoa giáo viên, đội ngũ giảng viên, CBQL giáo dục và bản thân từng học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV.

Các cấp uỷ đảng, từ Đảng uỷ Nhà trường đến Đảng uỷ các cơ quan, khoa giáo viên; Đảng ủy Tiểu đoàn; chi uỷ, chi bộ đại đội học viên giữ vị trí chủ đạo, là hạt nhân lãnh đạo bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên; đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm quá trình thực hiện chủ trương đó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Ban Giám hiệu Nhà trường là chủ thể chỉ đạo bồi dưỡng. Các khoa giáo viên, ban chỉ huy các cấp ở đơn vị là chủ thể quản lý, điều hành, tổ chức bồi dưỡng. Các cơ quan chức năng nghiên cứu đề xuất để Đảng ủy, Ban Giám hiệu quyết định nội dung, biện pháp, xác định thời gian, đối tượng bồi dưỡng; đồng thời, chỉ đạo, hướng dẫn các khoa giáo viên, các đơn vị trong Nhà trường tổ chức tiến hành bồi dưỡng; kiểm tra hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV.

<i>Đối tượng bồi dưỡng là đội ngũ học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV. </i>

Đây là đội ngũ trực tiếp tiếp nhận các tác động bồi dưỡng của các lực lượng sư phạm, đồng thời là người chuyển hóa q trình bồi dưỡng thành q trình tự bồi dưỡng của bản thân. Học viên đào tạo giáo viên là người trực tiếp quyết định mức độ hình thành, phát triển các kỹ năng NCKH của bản thân, đặc biệt là kỹ năng PHVĐ mới mang tính cấp thiết. Chất lượng, hiệu quả của quá trình này chỉ được thực hiện khi học viên có nhận thức đúng, tự giác, tích cực học tập, rèn luyện hoàn thiện các kỹ năng của bản thân.

<i> Nội dung bồi dưỡng: Trên cơ sở hệ thống các kiến thức khoa học </i>

chuyên ngành, liên ngành, đặc biệt là hệ thống kiến thức phương pháp luận NCKH, tập trung bồi dưỡng cho học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV hệ thống các kỹ năng PHVĐ trong NCKH như: Kỹ năng xác định mâu thuẫn trong NCKH; kỹ năng đặt câu hỏi trong NCKH; kỹ năng so sánh lý thuyết đã có với thực tiến; kỹ năng nhận dạng những bất đồng trong tranh luận; kỹ năng tư duy phản biện; kỹ năng đề xuất và đánh giá ý tưởng; kỹ năng tưởng tượng,

<i>liên tưởng; kỹ năng ghi lại những ý tưởng bất chợt nảy sinh… </i>

<i>Phương pháp và hình thức bồi dưỡng: Thông qua q trình dạy học; </i>

thơng qua tổ chức quy trình NCKH của học viên; thông qua các hình thức hoạt động khoa học chủ yếu như nghiên cứu đề tài, chuyên đề, viết tham luận hội thảo, viết báo khoa học, làm khóa luận tốt nghiệp; thông qua các hoạt động ngoại khóa bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH cho học viên; thông qua các cuộc thi về NCKH, cuộc thi tuổi trẻ sáng tạo; thông qua việc xây dựng mơi trường NCKH; thơng qua q trình tự học tập, tự bồi dưỡng, tự tích lũy kiến thức của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV…

<i><b>* Đặc điểm quá trình bồi dưỡng kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên </b></i>

<i>cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị </i>

<i><b>Một là, bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo </b></i>

giáo viên không tách rời hoạt động bồi dưỡng kỹ năng NCKH nói chung, đồng thời chịu sự chi phối bởi mục tiêu, yêu cầu đào tạo, chuẩn đầu ra và mơ hình nhân cách người giáo viên KHXH&NV.

Bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV không tách rời hoạt động bồi dưỡng kỹ năng NCKH nói chung bởi PHVĐ là một khâu quan trọng trong giai đoạn xây dựng luận điểm khoa học. Trong quá trình NCKH thường xuất hiện các vấn đề phức tạp và những mâu thuẫn xuất hiện trong từng giai đoạn nghiên cứu, vì thế học viên phải có những kỹ năng NCKH cơ bản mới giải quyết được mục đích, nhiệm vụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

nghiên cứu đề ra, trong đó kỹ năng PHVĐ sẽ định hướng tồn bộ các nhóm kỹ năng tiếp theo trong tiến trình thực hiện nghiên cứu cơng trình khoa học.

Bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH chịu sự chi phối bởi mục tiêu, yêu cầu đào tạo, chuẩn đầu ra và mơ hình nhân cách người giáo viên KHXH&NV. Thành tố chi phối trực tiếp, tồn diện đến q trình NCKH của học viên là mục tiêu, yêu cầu đào tạo, phương pháp quản lý hành chính quân sự kết hợp với yêu cầu chuẩn đầu ra của Nhà trường, gắn hoạt động NCKH với GD&ĐT là bước đi đầu tiên để người học vận dụng những kiến thức được học vào giải quyết một vấn đề có tính khoa học trong thực tiễn, qua đó học viên hình thành kỹ năng phát hiện những vấn đề chứa đựng mâu thuẫn trong hoạt động học tập, rèn luyện. Bên cạnh đó, học viên đào tạo giáo viên tốt nghiệp ra trường không những phải đáp ứng yêu cầu về tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo mà cịn phải hồn thiện về năng lực tư duy, năng lực nghề nghiệp, do đó bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH cho học viên sẽ trực tiếp hình thành năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, góp phần hồn thiện phẩm

<i>chất, năng lực người giảng viên, cán bộ NCKH trong tương lai. </i>

<i>Hai là, bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo </i>

giáo viên KHXH&NV luôn có sự định hướng, giúp đỡ, rèn luyện của chủ thể tham gia bồi dưỡng, nhất là đội ngũ CBQL và giảng viên.

Quá trình bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV có nhiều lực lượng tham gia, nhưng nịng cốt là đội ngũ giảng viên và CBQL. Đây là những người chịu trách nhiệm chính trong việc định hướng, tổ chức và điều khiển các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH cho học viên.

Đội ngũ giảng viên thông qua quá trình dạy học, bằng phương pháp nêu vấn đề để kích thích tính tích cực tư duy tìm tịi, sáng tạo của học viên. Đây là cơ sở giúp học viên mạnh dạn đề xuất những ý tưởng mới, những sự kiện bất chợt nảy sinh trong q trình học tập. Thơng qua việc đặt những câu hỏi, giảng viên có thể đưa học viên vào các trạng thái tư duy độc lập, chủ động, giúp huy động tổng hợp kiến thức, khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học viên.

Với tư cách là cấp trên đồng thời là những người đi trước có nhiều kinh nghiệm, CBQL sẽ trực tiếp định hướng những câu hỏi, đặt ra những vấn đề cấp thiết cần giải quyết ngay trong thực tiễn sinh hoạt, học tập, công tác hàng ngày. Từ những mâu thuẫn nảy sinh đó, học viên hình thành nhu cầu, mong muốn tìm tịi, khám phá, khai thác tư liệu để hình thành đề tài nghiên cứu.

<i>Ba là, đối tượng bồi dưỡng chưa có nhiều kiến thức, kinh nghiệm trong hình </i>

thành, phát triển kỹ năng PHVĐ trong NCKH; việc bồi dưỡng chủ yếu phụ thuộc

<i>vào động cơ, nhu cầu, niềm say mê NCKH và ý chí quyết tâm của học viên. </i>

Trong quá trình đào tạo, học tập tại trường, học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV được trang bị hệ thống tri thức cơ bản về NCKH; được làm quen với các hoạt động khoa học, làm cơ sở hình thành các tri thức, kỹ năng, những kiến thức, phẩm chất cần thiết. Tuy nhiên, khi bắt tay vào công việc nghiên cứu, nhiều học viên chỉ dựa vào kiến thức lý thuyết đã được giảng viên trang

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

bị, không chú trọng tới những kinh nghiệm thực tiễn, do vậy trước sự phát triển mạnh mẽ của nhiệm vụ GD&ĐT và NCKH của Nhà trường thì sự thích ứng của học viên còn chậm, chất lượng, hiệu quả hoạt động NCKH chưa thực sự đáp ứng. Thực tiễn cho thấy hạn chế về kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV là do kiến thức phương pháp luận NCKH và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế.

<i>Bốn là, bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo </i>

giáo viên được tiến hành trong điều kiện môi trường sư phạm thuận lợi với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bi giáo dục cơ bản được đảm bảo đầy đủ.

Bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV được tổ chức chặt chẽ, diễn ra trong môi trường sư phạm đặc thù, được tổ chức chặt chẽ, có mục tiêu, yêu cầu cụ thể. Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ (Cách mạng 4.0), được sự đầu tư của Nhà nước, Bộ Quốc phòng, cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho GD&ĐT và NCKH ở Trường SQCT ngày càng hiện đại, góp phần quan trọng trong việc cung cấp thông tin, khai thác các nguồn tư liệu, tài liệu tham khảo đa dạng, phong phú và cập nhật. Với sự phát triển của máy vi tính, thư viện điện tử, mạng thơng tin nội bộ (LAN), mạng thông tin khoa học quân sự của Bộ Quốc phòng (MISTEN), Internet... tạo môi trường rất thuận lợi cho học viên đào tạo giáo viên nghiên cứu, tìm tịi, phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, đồng thời giúp học viên nhanh chóng tiếp cận các kết quả nghiên cứu mới nhất để có thể tiếp thu, vận dụng trong quá trình NCKH, tránh sự trùng lặp, thụ động trong nghiên cứu. Đây là môi trường thuận lợi, là một trong những yếu tố quan trọng tác động tích cực đến việc hình thành, phát triển kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên.

<i>* Tiêu chí đánh giá chất lượng bồi dưỡng kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học cho học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở trường Sĩ quan Chính trị </i>

<i>Một là, nhóm tiêu chí đánh giá nhận thức, trách nhiệm, năng lực, sự phối hợp của các chủ thể tham gia vào quá trình bồi dưỡng. </i>

Mức độ nhận thức của các chủ thể bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong

<i>NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV; </i>

Mức độ phát huy ý thức, trách nhiệm của các chủ thể trong bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV;

Trình độ, năng lực của chủ thể và các lực lượng tham gia bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV;

Tính sát thực của các chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV;

Mức độ phối hợp của các các lực lượng sư phạm trong bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV.

<i>Hai là, nhóm tiêu chí đánh giá việc tổ chức các hoạt động bồi dưỡng. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Tính đồng bộ, khoa học, thiết thực, khả thi, cụ thể của việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên;

Mức độ xác định nội dung bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV;

Tính đa dạng, thiết thực và sự kết hợp của các hình thức tổ chức bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV;

Tính hiệu quả trong xây dựng môi trường và điều kiện đảm bảo cho bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV;

<i>Ba là, nhóm tiêu chí đánh giá về kết quả bồi dưỡng và mức độ chuyển biến về kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên trong thực tiễn. </i>

Mức độ phát triển về tính tự giác, tích cực, chủ động trong tự bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV;

Kết quả hình thành, phát triển kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ;

Kết quả học tập, NCKH của học viên theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo.

<i><b>1.2. Thực trạng bồi dưỡng kỹ năng phát hiện vấn đề trong nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay </b></i>

<i><b>1.2.1. Những ưu điểm và nguyên nhân </b></i>

<i>1.2.1.1. Những ưu điểm </i>

<i>Một là, nhận thức, trách nhiệm, năng lực, sự phối hợp của các lực lượng </i>

sư phạm tham gia bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ngày càng cao.

Đây là ưu điểm nổi bật, thể hiện rõ thái độ, trách nhiệm chính trị của các lực lượng sư phạm tham gia bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Sĩ

<i>quan Chính trị lần thứ X nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh công tác NCKH... gắn NCKH với nhiệm vụ GD&ĐT và các hoạt động của Nhà trường" [31, tr. 18]. Thực tế cho thấy, những năm qua cấp uỷ, tổ chức đảng </i>

các cấp ở trường SQCT đã nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò hoạt động NCKH và bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của các đối tượng học viên. Qua trao đổi với giảng viên, CBQL, có 51.67% đánh giá vai trò kỹ năng PHVĐ trong NCKH là “rất quan trọng”, 31.67% đánh giá “quan trọng” [Phụ lục 3]; đối với nhóm đối tượng học viên đào tạo giáo viên, có 30.67% đánh giá vai trò này là “rất quan trọng”, 51.33% đánh giá “quan trọng” [Phụ lục 4]. Điều đó chứng tỏ ở cả hai nhóm điều tra đều đánh giá mức độ quan trọng của kỹ năng này.

Trao đổi trực tiếp với một số cán bộ, giảng viên ở Trường SQCT, chúng tôi nhận thấy, các lực lượng đều đánh giá cao vai trò bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV. Với đối tượng là giảng viên, CBQL có 65.00% đánh giá việc bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH “là sở lựa chọn đề tài nghiên cứu bảo đảm tính cấp thiết, tính chân lý,

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

tính khả thi”; 63.33% cho rằng “góp phần kích thích tư duy độc lập, sáng tạo của học viên trong NCKH”; 66.67% cho rằng việc bồi dưỡng “nâng cao trình độ, kỹ năng NCKH của học viên” [Phụ lục 3]. Đối với nhóm đối tượng học viên đào tạo giáo viên, kết quả cho thấy vai trị “góp phần kích thích tư duy độc lập, sáng tạo của học viên trong NCKH” được đánh giá ở mức độ cao nhất với 82.00%, 75.33% cho rằng việc bồi dưỡng góp phần “nâng cao trình độ, kỹ năng NCKH của học viên” [Phụ lục 4].

Thời gian qua, các cơ quan chức năng, trực tiếp là Phòng Khoa học quân sự đã tích cực tham mưu, đề xuất với Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường những nội dung, biện pháp bồi dưỡng kỹ năng NCKH nói chung, kỹ năng PHVĐ trong NCKH nói riêng. Quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động bồi dưỡng cho học viên; đánh giá chính xác thực trạng kỹ năng PHVĐ trong NCKH để từ đó đề xuất những biện pháp sát, đúng bảo đảm cho hoạt động bồi dưỡng đạt hiệu quả. Đối với cấp ủy, chi bộ, cán bộ chủ trì các Khoa, đơn vị quản lý học viên đã nêu cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên thông qua các hoạt động dạy học; hoạt động hướng dẫn học viên NCKH. Đội ngũ CBQL, giảng viên ở Nhà trường đã phát huy khá tốt năng lực chủ thể, tích cực tìm hiểu về nội dung, phương pháp, hình thức bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên. Quá trình giảng dạy, quản lý học viên, ngoài truyền thụ tri thức khoa học, đội ngũ giảng viên, CBQL còn thường xuyên trang bị cho học viên những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm nghiên cứu, nhờ đó kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm NCKH của của học viên từng bước được nâng cao.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vai trò bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã phát huy cao trách nhiệm của mình. Kết quả khảo sát ở hai nhóm điều tra cho thấy, 71.67% giảng viên, CBQL đánh giá trách nhiệm của Cấp ủy, chỉ huy các cấp là “Tốt”, còn đối tượng học viên là 84.00%; 70.00% CBQL đánh giá trách nhiệm của khoa giáo viên, giảng viên là “Tốt”, 78.67% “Tốt” ở nhóm điều tra là học viên [Phụ lục 3,4]. Kết quả điều tra, khảo sát, trao đổi khá phù hợp báo cáo kết quả NCKH của học viên và Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo năm học 2019-2020,

<i>phương hướng, nhiệm vụ năm 2020 - 2021: “Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, khoa giáo viên, đơn vị tổ chức thực hiện có hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên và Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo” [30, tr. 1]. </i>

Các lực lượng sư phạm ở Nhà trường đã thường xuyên phối hợp khá chặt chẽ, thống nhất trong hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên. Kết quả điều tra cho thấy, có 48.33% giảng viên, CBQL và 42.67% học viên đánh giá sự phối hợp của các lực lượng sư phạm đối với hoạt động này là “Chặt chẽ, thống nhất”; 35.00% giảng viên, CBQL và 47.33% học viên đánh giá đánh giá sự phối hợp của các lực lượng sư phạm đối với hoạt động này là “Khá chặt chẽ, thống nhất” [Phụ lục 3,4]. Điều này đã được phản ánh cụ thể trong Báo cáo Tổng kết thực hiện chiến lược phát

<i>triển GD&ĐT trong Quân đội giai đoạn 2011-2020: “Công tác NCKH được </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>triển khai đồng bộ, nền nếp... các lực lượng đã có sự phối hợp chặt chẽ, đem lại chất lượng, hiệu quả cao” [29, tr.6]. </i>

<i>Hai là, việc tổ chức và tiến hành các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng </i>

PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ngày càng phong phú, thiết thực, hiệu quả cao.

Để góp phần nâng cao chất lượng NCKH, Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường, Phòng Khoa học quân sự, cấp uỷ và chỉ huy các cấp luôn xác định bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH là nội dung quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo. Hoạt động NCKH của học viên được xác định cụ thể thông qua kế hoạch hàng năm, hàng quý, được cụ thể hóa trong các nghị quyết lãnh

<i>đạo của cấp uỷ, chương trình, kế hoạch cơng tác của người chỉ huy.Thực tế </i>

cho thấy, về cơ bản học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV đã chuyển hoá được mục tiêu, yêu cầu GD&ĐT thành nhu cầu của bản thân, đã tích cực, chủ động tìm tịi, nghiên cứu giáo trình, tài liệu tham khảo; biết tự lực phát hiện giải quyết những vấn đề mâu thuẫn, vấn đề mới trong quá trình NCKH.

Những năm qua nội dung, hình thức bồi dưỡng kỹ năng NCKH nói chung, kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên nói riêng bước đầu đáp ứng được yêu cầu, đảm bảo được tính tồn diện, có trọng tâm, trọng điểm, thiết thực, sát với đặc điểm, trình độ năng lực của người học. Nhà trường đã coi trọng bồi dưỡng các kỹ năng tư duy phản biện, kỹ năng liên tưởng, tượng tượng; kỹ năng phát hiện mâu thuẫn; kỹ năng đặt câu hỏi...đồng thời khơi gợi những nội dung thực tiễn cuộc sống và hoạt động quân sự đang

<i>cần.“Các cơ quan, khoa giáo viên, đơn vị quản lý học viên đã tích cực, chủ động, khắc phục khó khăn, tổ chức cho cán bộ, giảng viên, học viên tham gia hoạt động NCKH và Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo dưới nhiều hình thức phong phú, thu hút đông đảo học viên tham gia.” [30, tr. 2]. Vì vậy, trong </i>

năm học 2019 - 2020, có 02 cơng trình NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV đạt giải Nhất, 09 cơng trình đạt giải Nhì trong hoạt động NCKH; 01 cơng trình đạt giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo của quân đội [Phụ lục 5].

Nội dung bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên được các chủ thể xác định khá phù hợp; luôn gắn sát nhiệm vụ

<i>NCKH ở Nhà trường. Quán triệt sâu sắc nhiệm vụ: “Tập trung đề xuất nội dung, nghiên cứu các hình thức, phương pháp phù hợp để nâng cao chất lượng GD&ĐT và NCKH” [32, tr.10], do đó nội dung bồi dưỡng về cơ bản đã </i>

đáp ứng đủ khối lượng kiến thức, bảo đảm tính tồn diện, hệ thống, khoa học, lôgic, hiện đại. Điều tra về tần suất các lực lượng sư phạm tiến hành bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên, chúng tôi nhận thấy, có 68.33% giảng viên, CBQL và 72.00% học viên được hỏi cho rằng các lực lượng sư phạm đã thường xuyên bồi dưỡng “kỹ năng phát hiện mâu thuẫn trong NCKH”; 56.67% giảng viên, CBQL và 64.00% học viên cho rằng các lực lượng sư phạm đã thường xuyên bồi dưỡng “kỹ năng đặt câu hỏi nghiên cứu”; 66.67% giảng viên, CBQL và 74.67% học viên cho rằng các lực lượng sư phạm đã thường xuyên bồi dưỡng “kỹ năng nhận dạng những bất đồng trong tranh luận” [Phụ lục 3,4]. Thực tiễn cho thấy, các kỹ năng này có ý

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

nghĩa hết sức quan trọng đối với học viên, giúp học viên phát hiện được những mâu thuẫn, bất đồng, những bất cập nảy sinh trong cuộc sống, từ đó giúp họ hình thành và phát hiện vấn đề mới trong NCKH. Do vậy, các lực lượng sư phạm đã quan tâm thường xuyên bồi dưỡng, góp phần hình thành và phát triển kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên.

Hình thức bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên cũng đã được quan tâm đổi mới, đem lại những hiệu quả thiết thực. Kết quả điều tra cho thấy, có 68.33% giảng viên, CBQL và 74.67% học viên cho rằng, các lực lượng sư phạm đã thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH “Thơng qua q trình dạy học ”; 65.00% giảng viên, CBQL và 84.00% học viên cho rằng, hoạt động bồi dưỡng “Thông qua hình thức NCKH chủ yếu: Đề tài, khoá luận, chuyên đề, viết tham luận, viết báo khoa học...”. Ngoài ra, các lực lượng sư phạm đều đánh giá cao hình thức bồi dưỡng “Thông qua hoạt động ngoại khố”; “Thơng qua các cuộc thi về NCKH, tuổi trẻ sáng tạo” và “Thơng qua q trình tự học tập, tự bồi dưỡng của học viên”... [Phụ lục 3,4]. Sự kết hợp linh hoạt, hài hồ và vận dụng có hiệu quả các hình thức bồi dưỡng đã phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học viên trong quá tình NCKH, do đó sản phẩm NCKH của học viên ngày càng đa dạng, phong phú. Trao đổi trực tiếp với một số đồng chí giảng viên là cán bộ bộ môn, cán bộ Khoa ở Nhà trường, chúng tôi nhận thấy, thơng qua q trình dạy học, giảng viên đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học bằng hình thức dạy học nêu vấn đề, dạy học nhóm, dạy học thơng qua tình huống sư phạm… để đưa người học vào giải quyết những tình huống có vấn đề, giúp kích thích tư duy

<i>độc lập, chủ động của học viên, đồng thời “tạo mọi điều kiện thuận lợi cho học viên tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo” [32; tr.12]. </i>

Việc xây dựng môi trường sư phạm, phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động bồi dưỡng được lãnh đạo, chỉ huy các cấp quan tâm xây dựng khá đồng bộ. Thời gian qua, Nhà trường đã và đang tăng cường đầu tư cơ sở, vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác GD&ĐT nói chung cũng như phục vụ hoạt động NCKH của học viên. Đặc biệt đã tập trung đầu tư, nâng cấp hệ thống giảng đường, phòng học chuyên dụng, thư viện, giáo trình, tài liệu, hệ thống luận văn, luận án, đề tài khoa học bảo đảm đầy đủ và thống nhất; cơ chế chính sách động viên học viên tham gia NCKH ngày càng rộng mở, phong trào NCKH ở Tiểu đồn 11 khơng ngừng được nâng cao. Qua điều tra cho thấy có 51.67% giảng viên, CBQL và 59.33% học viên đánh giá điều kiện vật chất, phương tiện kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động bồi dưỡng ở mức “Tốt”; 29.93% giảng viên, CBQL và 20.67% học viên đánh giá mức “Khá” [Phụ lục 3, 4]. Đây là điều kiện quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên ở trường SQCT hiện nay.

<i>Ba là, kết quả bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào </i>

tạo giáo viên KHXH&NV đã đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần nâng cao chất lượng GD&ĐT của Nhà trường.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<i>Phát huy tinh thần: “Chủ động, độc lập sáng tạo, trung thực trong nghiên cứu, tác phong làm việc có kế hoạch, vận dụng hợp lý, linh hoạt thời gian nghiên cứu” [30, tr.4]; những năm qua, đại đa số học viên đào tạo giáo </i>

viên đã nhận thức rõ vị trí, vai trị của hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH. Hằng năm, học viên đào tạo giáo viên thực hiện đầy đủ chỉ tiêu tham gia các đề tài, chuyên đề khoa học cũng như nhiệm vụ tham gia đề tài Tuổi trẻ sáng tạo cấp toàn quân. Thực tế cho thấy, mỗi năm 100% học viên đào tạo giáo viên tham gia nghiên cứu viết chuyên đề, đề tài khoa học, nội dung lựa chọn nghiên cứu về cơ bản phù hợp với các đối tượng đào tạo và tình hình thực tế của từng đơn vị. Qua điều tra khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến kết hơp trao đổi trực tiếp với học viên các lớp chun ngành, chúng tơi nhận thấy, có 16.67% học viên được hỏi cho rằng “Hiểu biết rất rõ” và 34.07% học viên “Hiểu biết sơ lược” về kỹ năng PHVĐ trong NCKH [Phụ lục 4]. Đây là cơ sở nền tảng ban đầu để tiến hành các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở các Nhà trường.

Khảo sát kết quả hình thành kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên cho thấy, học viên đã hình thành được các kỹ năng PHVĐ trong NCKH cơ bản ở mức độ cao và trung bình, trong đó có những kỹ năng đạt được mức độ cao như “kỹ năng liên tưởng tưởng tượng”; “kỹ năng so sánh lý thuyết với thực tiễn” [Phụ lục 3,4]. Qua khảo sát, trao đổi trực tiếp với các lực lượng sư phạm ở Nhà trường, chúng tôi nhận thấy, về cơ bản học viên có các thao tác của kỹ năng PHVĐ trong NCKH và đạt được những kết quả nhất định, số lượng, chất lượng sản phẩm khoa học đã có nhiều chuyển biến tích cực, số lượng đề tài, chuyên đề, báo khoa học, bài tham gia hội thảo năm sau cao hơn năm trước, số lượng, hình thức đa dạng [Phụ lục 6].

Kết quả hình thành, phát triển kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên được thể hiện rõ ở kết quả học tập và những thành tích học viên đạt được trong từng năm học, khóa học. Trao đổi trực tiếp với các lực lượng sư phạm, chúng tơi thấy rằng trong q trình học tập, học viên đã tích cực, chủ động tận dụng thời gian ngày nghỉ, giờ nghỉ nghiên cứu, đầu tư sức lực, trí tuệ và kinh phí vào các sản phẩm khoa học. Năm 2019 - 2020, Tiểu đồn có 38 bài viết gửi tham gia Hội thảo cấp Khoa, 8 bài viết của học viên được đăng trên Báo, tạp chí chuyên ngành; nghiên cứu 18 đề tài, 04 sáng kiến, 160 chuyên đề khoa học [26], số học viên bảo vệ khoá luận tốt nghiệp năm học 2019 - 2020 của Tiểu đoàn là 50 học viên, trong đó có 18 học viên bảo vệ đạt loại Giỏi [Phụ lục 6]. Qua đánh giá của các hội đồng nghiệm thu đề tài, chuyên đề khoa học hàng năm cho thấy hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu các đề tài, chuyên đề tương đối phù hợp, kết cấu lôgic, hợp lý.

Thực tế cho thấy, trong quá trình học tập tại trường cho đến khi tốt nghiệp ra trường, thông qua học tập, nghiên cứu, người học đã cơ bản từng bước hình thành các phẩm chất năng lực cần thiết, đặc biệt là năng lực tư duy khoa học theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Trong 5 năm gần đây, tỷ lệ học viên đào tạo giáo viên tốt nghiệp ra trường đạt khá, giỏi trên lên đều đạt trên 90%; tỷ lệ học viên bảo vệ khóa luận tốt nghiệp đều đạt 100% Khá, giỏi. Theo đánh giá của lãnh đạo, chỉ huy Tiểu đoàn 11, phần lớn học viên tham gia NCKH

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

đạt kết quả cao đều là những học viên có kết quả học tập tốt. Những đánh giá và số liệu trên đã được phản ánh cụ thể trong báo cáo kết quả NCKH của học

<i>viên và Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo năm học 2019 - 2020: “ Các cơng trình khoa học của học viên đã bám sát thực tiễn, nhiệm vụ GD&ĐT của Nhà trường, nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị đang đặt ra...” [30, tr4] . </i>

<i>1.2.1.2. Nguyên nhân ưu điểm </i>

<i>Một là, có sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể của cấp uỷ, chỉ huy, cơ </i>

quan chức năng, các khoa giáo viên trong Nhà trường

Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chỉ huy các cấp là nhân tố quan trọng tác động trực tiếp, toàn diện tới hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV, được thể hiện qua nhận thức đầy đủ, đúng đắn đối với hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên. Quan tâm làm tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ, chỉ huy các cấp bảo đảm đủ phẩm chất, năng lực tiến hành tốt hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH cho học viên. Chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên, nhất là thông qua việc duy trì thực hiện nghiêm chế độ học tập, sinh hoạt, công tác; thực hiện chính quy trong

<i>GD&ĐT và NCKH, nhờ đó, “động cơ, thái độ, trách nhiệm của người học có chuyển biến tiến bộ. Các chế độ, nền nếp, quy định trong học tập, nghiên cứu khoa học của học viên được duy trì tốt hơn” [27, tr.12] </i>

Đảng uỷ, chỉ huy Tiểu đồn 11, các phịng, ban, Khoa giáo viên đã có nhiều chủ trương đúng đắn trong xây dựng kế hoạch bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH và triển khai thực hiện; giải quyết đồng bộ các vấn đề liên quan tới cơ chế, chính sách; xác định nội dung, biện pháp bồi dưỡng; kiểm tra, đôn đốc và kịp thời giúp đỡ những đơn vị, cá nhân gặp khó khăn. Các đơn vị quản lý học viên thường xuyên nắm chắc tình hình, đặc điểm của đơn vị, thực trạng, nguyên nhân mạnh, yếu về kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên, tích cực, chủ động trong thực hiện nội dung, biện pháp bồi dưỡng.

<i>Chất lượng giảng dạy của giảng viên từng bước được nâng lên, tính "cơ bản, hệ thống, thống nhất, chuyên sâu" trong GD&ĐT được coi trọng. </i>

<i> Hai là, cơ chế, chính sách, mơi trường NCKH của học viên đào tạo giáo </i>

viên KHXH&NV có những chuyển biến tích cực

Những năm qua, Nhà trường đã ban hành nhiều văn bản quy định về việc tổ chức các hoạt động NCKH của học viên như quy định nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền lợi NCKH của học viên và người hướng dẫn; phân cấp quản lý đề tài, nhận xét, đánh giá nghiệm thu và ứng dụng những kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, từ đó tạo ra sự đồng thuận, thống nhất trong bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên. Đảng uỷ, Ban giám hiệu đã đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ NCKH ngày càng hiện đại, góp phần quan trọng trong việc cung cấp thông tin, khai thác các nguồn tư liệu, tài liệu tham khảo đa dạng, phong phú. Hiên nay, với sự phát triển của máy vi tính, thư viện điện tử, mạng thông tin nội bộ (LAN), mạng thông tin khoa học quân sự (MISTEN), Internet tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động NCKH của

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

học viên. Khảo sát thực tế ở Trường SQCT cho thấy, hệ thống thư viện, đặc biệt là phòng đọc các sản phẩm khoa học như: Đề tài đạt giải, khoá luận, luận văn, luận án, các tạp chí khoa học trong và ngồi nước đa dạng, phong phú được trưng bày và cho học viên đọc, mượn thuận tiện. Đây là một trong những yếu tố rất quan trọng trong nâng cao kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay.

<i>Ba là, ý thức trách nhiệm trong tự học tập, tự bồi dưỡng kỹ năng </i>

PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên ngày càng được nâng cao Học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV là những người được tuyển chọn chặt chẽ theo đúng tiêu chuẩn, hầu hết đều có xu hướng nghề nghiệp sư phạm rõ ràng, có nguyện vọng làm giảng viên và những nhà khoa học trong qn đội, vì vậy họ có ý thức tự nghiên cứu, tìm tịi học hỏi, rèn luyện nâng cao năng lực, phẩm chất, tác phong công tác để phát triển trình độ cũng như hình thành kỹ năng PHVĐ trong NCKH. Với tư cách vừa là đối tượng, vừa là chủ thể tự bồi dưỡng, học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV về cơ bản đã nhận thức sâu sắc vai trò, ý nghĩa của kỹ năng PHVĐ trong NCKH; có thái độ cầu thị, ham học hỏi, tích cực trong học tập, sinh hoạt và công tác, nhất là thái độ, động cơ, trách nhiệm trong hình thành và phát triển kỹ năng PHVĐ trong NCKH của bản thân. Học viên đã biết tự đánh giá, xem xét thái độ và kết quả tự bồi dưỡng theo yêu cầu của đơn vị. Đây là yếu tố quan trọng, trực tiếp tác động đến kết quả hình thành những kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên.

<i><b>1.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân </b></i>

<i>1.2.2.1. Những hạn chế </i>

<i>Một là, nhận thức, trách nhiệm, năng lực của một số chủ thể tham gia bồi </i>

dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV vẫn còn chưa đầy đủ và thống nhất.

Trước hết, một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị quản lý học viên nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của nhiệm vụ bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH. Trên thực tế, một sổ chủ thể tham gia bồi dưỡng chưa có sự quan tâm, đầu tư đúng mức cả về nội dung, phương thức, con đường bồi dưỡng, điều đó đã được chỉ rõ trong báo cáo kết quả

<i>NCKH của học viên và Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo năm học 2019-2020: “Nhận thức của một số CBQL học viên về vị trí, vai trị, nhiệm vụ NCKH của học viên trong quá trình đào tạo chưa đầy đủ, cịn có biểu hiện coi nhẹ hoạt động NCKH của học viên” [30, tr.5]. Kết quả khảo sát, điều tra cho thấy, có </i>

13.33% giảng viên, CBQL và 12.67% học viên được hỏi cho rằng, kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên có vai trị “bình thường”; 3.33% giảng viên, CBQL và 5.33% học viên đánh giá kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên là “Không quan trọng”. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên hiện nay [Phụ lục 3,4].

Thực tiễn cho thấy, có thời điểm các cơ quan chức năng chưa kịp thời phát hiện và tiếp thu những kiến nghị của lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị về

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

những bất cập trong quy chế hoạt động NCKH của học viên, nhất là việc bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động nghiên cứu; quyền lợi của học viên có đề tài, chuyên đề đạt kết quả từ Khá trở lên chưa có tính động viên, khuyến khích cao, chưa tương xứng với công sức nghiên cứu của học viên. Một số CBQL chưa chủ động tổ chức các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên ở đơn vị; một số giảng viên, cán bộ khoa học chưa thấy hết trách nhiệm của mình trong tổ chức bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH, cịn có quan niệm cho rằng đó là sự “giúp đỡ” học viên theo đề nghị của lãnh đạo, chỉ huy Tiểu đoàn. Một số cán bộ, giảng viên trong quá trình giảng dạy mới chỉ chú trọng truyền đạt, trang bị kiến thức, chưa kết hợp chặt giữa hoạt động giảng dạy với NCKH, định hướng vấn đề nghiên cứu, việc phát huy tính tích cực sáng tạo của học viên trong nghiên cứu chưa cao.

Năng lực, trách nhiệm của một số cán bộ quản lý, giảng viên về bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên chưa tốt. Đội ngũ giảng viên trong quá trình giảng dạy, mới chỉ chú trọng đến truyền đạt, trang bị kiến

<i>thức, kỹ năng nghề nghiệp, việc “tổ chức bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng xử lý các vấn đề thực tiễn chưa hiệu quả” [27; tr.3]. </i>Một số CBQL ở Tiểu đoàn, lớp, đại đội chưa tích cực tham gia hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên. Chưa phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, khoa giáo viên trong xây dựng kế hoạch, xác định nội dung, phương pháp, hình thức bồi dưỡng. Còn biểu hiện thiếu mạnh dạn, ngại tham gia đóng góp, nhận xét, đánh giá đối với giảng viên, CBQL về nội dung, phương thức bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên

Đi sâu nghiên cứu, điều tra sự phối hợp giữa các lực lượng sư phạm đối với hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên, chúng tôi nhận thấy, về mức độ thực hiện hoạt động bồi dưỡng vẫn còn 13.33% giảng viên, CBQL và 11.33% học viên đánh giá ở mức độ “trung bình”; 10.00% giảng viên, CBQL đánh giá hoạt động này thực hiện ở mức “chưa tốt” [Phụ lục 3, 4]. Điều đó đã phần nào phản ánh việc một số đề tài, chuyên đề học viên lựa chọn còn trùng lặp; nội dung quá lớn, phạm vi quá rộng; thậm chí chưa được học những kiến thức cơ bản của vấn đề nghiên cứu. Báo cáo tổng kết năm học 2019 -2020 và sơ kết 6 tháng đầu năm 2020 của Tiểu đoàn 11 đã

<i>nhấn mạnh: “Tính chủ động trong làm đề tài, chuyên đề, bài tham luận, hội thảo cịn chưa cao...có đề tài nghiên cứu cịn bị trùng lặp nội dung với cơng trình đã được công bố” [26, tr.8]. </i>

<i>Hai là, việc tổ chức các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong </i>

NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV vẫn còn mặt hạn chế. Việc xây dựng kế hoạch NCKH và thực hiện theo kế hoạch chưa được

<i>quan tâm thỏa đáng. Qua trao đổi với học viên các lớp chuyên ngành ở Tiểu </i>

đoàn 11, chúng tôi nhận thấy việc lập kế hoạch thực hiện đề tài NCKH chỉ được thực hiện sau khi có kế hoạch phê duyệt tên chính thức của Nhà trường. Nhiều học viên còn thiếu chủ động trong xây dựng kế hoạch thực hiện cơng trình khoa học của bản thân, chưa tập trung trí tuệ, sức lực, đầu tư thời gian nghiên cứu. Do đó chất lượng thực hiện kế hoạch NCKH còn thấp, quá trình

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

thực hiện chương trình, kế hoạch cịn để đơn đốc, nhắc nhở. Trao đổi cùng đội ngũ cán bộ quản lý đơn vị học viên cho thấy, phần lớn học viên có kết quả học tập tốt thì ln chủ động, tích cực trong xây dựng kế hoạch tự nghiên cứu. Ngược lại, số học viên chưa chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch thì kết quả học tập, nghiên cứu khoa học không cao.

Nội dung bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên được tiến hành khá cơ bản, chính quy thành nền nếp, hàng năm đã có sự điều chỉnh. Tuy nhiên, hoạt động bồi dưỡng phụ thuộc trực tiếp vào nội dung chương trình GD&ĐT đã được xác định ngay từ đầu khố học, kinh phí bảo đảm cho hoạt động NCKH của học viên vẫn còn hạn hẹp. Hạn chế lớn nhất là học viên đào tạo giáo viên chưa được trang bị tốt phương pháp nghiên cứu nên còn lúng túng trong lựa chọn, PHVĐ nghiên cứu. Qua điều tra khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến cho thấy, còn 45.00 % giảng viên, CBQL và 50.67% học viên cho rằng, khó khăn đối với hoạt động bồi dưỡng là do “thiếu nội dung, chương trình bồi dưỡng một cách độc lập” [Phụ lục 3,4].

Trong thực tế, một số kỹ năng PHVĐ rất cần thiết đối với học viên trong quá trình NCKH chưa được quan tâm bồi dưỡng như: “Kỹ năng đặt câu hỏi trong nghiên cứu”; “kỹ năng tư duy phản biện”; “kỹ năng nhận dạng bất đồng trong tranh luận”. Qua phỏng vấn trực tiếp đội ngũ cán bộ, giảng viên hướng dẫn khoa học về hạn chế nêu trên, chúng tôi thấy rằng hiện nay, nội dung chương trình của học viên đào tạo giáo viên khá nặng với rất nhiều môn học nhưng lại chỉ có 60 tiết về phương pháp luận NCKH - một nội dung rất quan trọng góp phần hình thành kỹ năng NCKH nói chung, kỹ năng PHVĐ nói riêng. Nội dung bồi dưỡng vẫn nặng về trang bị kiến thức lý luận cơ bản; hình thức bồi dưỡng chưa tập trung nhiều vào hướng dẫn viết đề tài NCKH, chưa tạo được sự vượt trội về kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào

<i>tạo giáo viên. Điều này phù hợp với đánh giá trong Báo cáo Tổng kết thực </i>

hiện Chiến lược phát triển GD&ĐT trong Quân đội giai đoạn 2011-2020:

<i>“Một số nội dung, chương trình đào tạo cịn chậm đổi mới, chưa liên thơng giữa các bậc học, cịn nặng về lý thuyết, chưa sát với sự phát triển của thực tiễn huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu ở đơn vị” [29, tr. 13]. </i>

Việc xác định hình thức bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH có nơi, có mặt chưa thật khoa học, thống nhất và đồng bộ. Cụ thể như việc bồi dưỡng thông qua hoạt động dạy học chưa được tiến hành hiệu quả, biểu hiện tính chất của một số bài giảng còn chưa rõ nét. Khả năng tạo tình huống trong học tập, định hướng vấn đề nghiên cứu còn nhiều hạn chế ở nhiều bài giảng, phương pháp giảng dạy ở một số nội dung vẫn chưa thoát khỏi màu sắc thông

<i>báo, tái hiện, do đó "phương pháp giảng dạy tuy có bước tiến nhưng chưa đồng bộ. Một số giảng viên chưa tích cực đổi mới phương pháp. Trong q trình dạy cịn xi chiều, thiếu cập nhật thơng tin, ít ví dụ chứng minh hoặc ví dụ chứng minh khơng sát; thiếu kết hợp các phương pháp để truyền đạt nên hạn chế phát huy tính cực, tự giác, sáng tạo của học viên trong học tập, nghiên cứu" [28, tr. 12]. Qua trao đổi với đội ngũ giảng viên và cán bộ cơ quan cho </i>

thấy nội dung, phương pháp giảng dạy còn hạn chế là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến tính độc lập, sáng tạo của học viên trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

NCKH. Những hạn chế, bất cập trong tổ chức hoạt động NCKH được chúng tơi tìm hiểu, một phần do các cơ quan chức năng và khoa giáo viên vẫn chưa có chủ trương, giải pháp cụ thể trong khắc phục hiện tượng sao chép, trùng lặp trong nội dung NCKH, vì vậy học viên cịn có biểu hiện thụ động, trông chờ ỷ lại vào tài liệu, cán bộ hướng dẫn, tư duy trong NCKH vẫn theo lối mòn truyền thống một cách rập khn, máy móc; bên cạnh đó, sự phối hợp giữa người hướng dẫn với học viên, cán bộ quản lý với giảng viên và học viên có

<i>thời điểm cịn thiếu đồng bộ và thống nhất. </i>

Việc xây dựng môi trường sư phạm, phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên còn chưa được thực hiện một cách thường xuyên. Đầu tư phương tiện kỹ thuật dạy học, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ hoạt động NCKH của học viên còn chưa đồng bộ, hệ thống tài liệu, giáo trình nâng cao cịn chưa đa dạng, phong trào nghiên cứu khoa học ở Tiểu đoàn 11 chưa thực sự rộng khắp, mới chỉ tập trung vào những đối tượng học viên Giỏi, học viên có kết quả học tập cao; chính sách khuyến khích học viên tham gia nghiên cứu cịn hạn chế nhất định, do vậy đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên. Qua khảo sát, điều tra cho thấy vẫn cịn có 6.67% ý kiến của giảng viên, CBQL và 7.33% ý kiến của học viên được hỏi cho rằng, điều kiện vật chất, phương tiện kỹ thuật bảo đảm cho bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên

<i>KHXH&NV còn “chưa được bảo đảm” [Phụ lục 3,4]. </i>

<i>Ba là, kết quả bồi dưỡng kỹ năng PHVĐ trong NCKH của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV vẫn còn những hạn chế nhất định. </i>

Thực tiễn thời gian học tập tại Trường, học viên phải thực hiện tất cả các khâu trong quy trình đào tạo từ tiếp thu kiến thức trên lớp, ôn bài, làm bài kiểm tra trình, bài thi kết thúc học phần, mơn học, khoá luận tốt nghiệp…Với cách đánh giá chủ yếu dựa vào kết quả thi kết thúc môn học, để có được kết quả học tập tốt đương nhiên họ phải giành tồn lực cho các mơn học. Vì vậy, ý thức, trách nhiệm của một bộ phận học viên trong NCKH chưa cao, ngại tham gia NCKH, nếu có tham gia cũng chỉ theo phong trào, mang tính hình thức, chất lượng không cao, nhất là chuyên đề khoa học. Có rất ít học viên thể hiện sự say mê tâm huyết với vấn đề nghiên cứu mới. Lý do lựa chọn đề tài NCKH phần lớn là do đề tài đó có nhiều tài liệu tham khảo có thể kế thừa, tiếp theo là do phù hợp với khả năng, hứng thú sở trường của học viên. Trao đổi với chúng tôi, một số giảng viên hướng dẫn NCKH cho rằng, học viên cịn thiếu ý tưởng trong nghiên cứu, tính độc lập trong lựa chọn vấn đề nghiên cứu còn chưa được phát huy, chưa dám mạnh dạn đi vào những vấn đề mới, nội dung được chọn làm đề tài thường là những vấn đề cũ. Báo cáo kết quả NCKH của học viên và Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo năm học 2019 - 2020,

<i>phương hướng, nhiệm vụ năm 2020 - 2021 đã chỉ rõ: “Một số đề tài, chuyên đề khoa học học viên và Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo chất lượng khơng cao, cịn trùng lặp về hướng, cách tiếp cận nghiên cứu, ý tưởng chưa rõ, chưa bám sát thực tiễn giáo dục và đào tạo của Nhà trường; vấn đề nghiên cứu quá rộng, chưa phù hợp với khả năng nghiên cứu của học viên” [30, tr. 4]. </i>

</div>

×