Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Nâng cao năng lực phản biện trong thực hành xêmina của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở trường sĩ quan chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442.4 KB, 56 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đề tài “Nâng cao năng lực phản biện trong thực hành
xêmina cho học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở trường Sĩ quan
Chính trị hiên nay” là công trình nghiên cứu của chúng tôi, không sao chép, không trùng lặp
với bất cứ công trình nào đã được công bố, nếu sai chúng tôi xin chịu trách nhiệm trước Hội
đồng khoa học các cấp.
T.M

BAN ĐỀ TÀI

Thượng sĩ Nguyễn Văn Sang


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

STT

TÊN VIẾT TẮT

TÊN ĐẦY ĐỦ

01

GD - ĐT

Giáo dục – Đào tạo

02

KHXH&NV


Khoa học xã hội và nhân văn

03

NLPB

Năng lực phản biện

04

QĐND

Quân đội nhân dân

05

SQCT

Sĩ quan Chính trị

06

TDPB

Tư duy phản biện


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ

NÂNG CAO NĂNG LỰC PHẢN BIỆN TRONG
THỰC HÀNH XÊMINA CHO HỌC VIÊN ĐÀO
TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN Ở TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận về nâng cao năng lực phản
biện trong thực hành xêmina cho học viên đào tạo
giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ
quan Chính trị
1.2. Thực trạng năng lực phản biện trong thực hành
xêmina của học viên đào tạo giáo viên khoa học xã
hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện
nay
Chương 2. YÊU CẦU, GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC
PHẢN BIỆN TRONG THỰC HÀNH XÊMINA
CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KHOA
HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở TRƯỜNG SĨ
QUAN CHÍNH TRỊ THỜI GIAN TỚI
2.1. Yêu cầu nâng cao năng lực phản biện trong thực
hành xêmina cho học viên đào tạo giáo viên khoa
học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị
hiện nay
2.2. Giải pháp nâng cao nâng cao năng lực phản biện
trong thực hành xêmina cho học viên đào tạo giáo
viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan
Chính trị hiện nay

Trang
4


8

8

16

27

27

29

KẾT LUẬN

40

KIẾN NGHỊ

41

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

42


PHỤ LỤC

44



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Trong hệ thống GD – ĐT của đất nước, giáo dục đại học là bậc học đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, sản phẩm đầu ra của giáo
dục đại học phải có đầy đủ các tiêu chí về kiến thức, năng lực nhận thức, năng
lực tự chủ, kỹ năng, thái độ, trách nhiệm. NLPB trong thực hành xêmina có
khả năng phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, góp
phần rèn luyện người học có kỹ năng phản biện xã hội khi tham gia vào cuộc
sống. Đồng thời, góp phần đào tạo con người năng động, sáng tạo, đáp ứng tốt
yêu cầu của cuộc sống hiện đại. Phản biện trong học tập giúp cho cả thầy và
trò có cái nhìn khách quan, công tâm về chân lý của mọi vấn đề, góp phần đáp
ứng yêu cầu của một giờ thực hành xêmina.
Nhận thức được ý nghĩa đó cấp ủy, chỉ huy các cấp đã quan tâm nhiều
hơn đến việc nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học viên toàn Nhà
trường nói chung và học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV nói riêng. Nhờ
sự quan tâm chỉ đạo đó trong thời gian qua việc nâng cao NLPB trong thực
hành xêmina đã đạt được nhiều kết quả: đa số học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV ở Trường SQCT có nhận thức đúng về NLPB trong thực hành
xêmina, có niềm tin vào NLPB trong thực hành xêmina sẽ đem lại hiệu quả
tốt cho bản thân, có dũng khí trình bày chính kiến cá nhân, có hứng thú trước
và trong thực hành xêmina, rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo để thực hành
phản biện cho có hiệu quả… Những kết quả này góp phần nâng cao chất
lượng GD - ĐT của Nhà trường. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được
thì việc nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần nghiêm túc nhìn nhận,
khắc phục đó là: một bộ phận học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở
Trường SQCT nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về NLPB trong thực hành
xêmina, chưa có niềm tin vào việc nâng cao NLPB trong thực hành xêmina sẽ
đem lại hiệu quả cao cho bản thân, thiếu dũng khí để tham gia phản biện, số
khác chưa thực sự hứng thú với thực hành phản biện, ý thức trách nhiệm kém

trong tham gia các buổi xêmina, kỹ năng tham gia thảo luận còn hạn chế.
Những hạn chế, yếu kém đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng quá trình
giáo dục đào tạo của Nhà trường.
Năng lực phản biện trong thực hành xêmina liền với chủ thể người
học, nó là kết quả của một quá trình học tập, rèn luyện, chịu sự tác động của
rất nhiều nhân tố khác nhau. Việc rèn luyện năng lực này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong nâng cao chất lượng các buổi xêmina nói riêng, nâng cao
chất lượng giáo dục đào tạo nói chung, nhất là trong xu thế đổi mới giáo dục
theo hướng thực hành như hiện nay. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề


“Nâng cao năng lực phản biện trong thực hành xêmina cho học viên đào tạo
giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở trường Sĩ quan Chính trị hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu khoa học là rất cần thiết về lý luận thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Năng lực phản biện nói chung và NLPB trong thực hành xêmina nói
riêng, đã thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học,
học giả trong và ngoài Quân đội. Cho đến nay, đã có nhiều công trình
nghiên cứu liên quan đến vấn đề này được công bố, tiêu biểu như:
Nghiên cứu về vấn đề tư duy bao gồm một số công trình:
Trong “Chuyên đề giáo dục - Tư duy phản biện”, Đại học Nha Trang
[8] đã đưa ra những vấn đề căn bản của tư duy phản biện và vấn đề tiến hành
nâng cao năng lực tư duy phản biện cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
Qua nghiên cứu “Đặc điểm phát triển tư duy biện chứng duy vật của
đội ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam trong nhận thức
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc” [12], Luận án Tiến sĩ Triết học của Nguyễn Bá
Dương, Hà Nội, 2000. Tác giả đã chỉ ra tư duy biện chứng duy vật của đội
ngũ sĩ quan mang: tính khoa học, tính nghệ thuật...
Tác giả Đào Văn Tiến với: “Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của
đội ngũ sĩ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [7],

Trên cơ sở phân tích những khó khăn, trở ngại trong học tập. Luận án đã
nghiên cứu thực trạng và đề ra một só biện pháp tâm lý xã hội nâng cao
năng lực tư duy sáng tạo như: sự quam tâm của cấp ủy, người chỉ huy; đổi
mới cách dạy, cách học; tạo lập môi trường sư phạm lành mạnh…
Nghiên cứu về tư duy phản biện bao gồm một số công trình như:
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hòa trong tạp chí khoa học – Đại
học Đồng Nai: “Bàn về tư duy phản biện trong giáo dục đại học” [13] đã
chỉ ra sự cần thiết của tư duy phản biện trong học tập đại học như: Xuất
phát từ vai trò của tư duy phản biện; từ yêu cầu của khu vực hóa, toàn cầu
hóa; từ yêu cầu của quá trình học tập đại học…
Tác giả Bùi Ngọc Quân đi sâu vào nghiên cứu vào vấn đề nâng cao
năng lực phản biện đối với học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở
Trường Đại Chính trị qua luận án Thạc sĩ “Bồi dưỡng tư duy phản biện cho
học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường Đại học Chính trị” [3].
Kết quả nghiên cứu đã làm sáng tỏ về thực chất năng lực phản biện của học
viên Trường Đại học Chính trị và đưa ra một số giải pháp căn bản để nâng
cao năng lực phản biện cho học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở
Trường Đại học Chính trị.


Đề tài nghiên cứu “Bồi dưỡng tư duy phản biện cho học viên đào tạo
giáo viên KHXH&NV ở các Nhà trường Quân đội hiện nay” [11] đề tài
tham gia tuổi trẻ sáng tạo toàn quân của tác giả Nguyễn Trọng Tài đã luận
giải những vấn đề căn bản mà Nhà trường Quân đội cần giải quyết nhằm
bồi dưỡng hiệu quả kỹ năng tư duy phản biện cho học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV.
Nhìn chung, các tài liệu, công trình khoa học đó đã đề cập tới nhiều vấn
đề quan trọng liên quan đến đề tài như: tính cấp thiết, bản chất, đặc điểm và
tính chất của TDPB, NLPB; đánh giá thực trạng nâng cao NLPB, xác định
phương hướng, nhiệm vụ và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả nâng

cao NLPB; xác định vai trò của cá nhân và các tổ chức trong nâng cao NLPB
với nhiều giải pháp. Song, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu có hệ
thống, chuyên sâu về nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học viên
đào tạo giáo viên KHXH&NV ở trường SQCT hiện nay. Vì vậy, đề tài là một
công trình khoa học độc lập, không trùng lắp với bất kỳ công trình khoa học
nào đã công bố mà nhóm tác giả được biết.
3. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn để đề xuất yêu cầu,
giải pháp nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở Trường SQCT hiện nay.
* Nội dung nghiên cứu:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về NLPB trong thực hành xêmina và
nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học viên đào tạo giáo viên khoa
học xã hội và nhân văn ở Trường SQCT.
- Đánh giá thực trạng về NLPB trong thực hành xêmina cho học viên
đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
- Xác định yêu cầu, đề xuất giải pháp nâng cao NLPB trong thực hành
xêmina cho học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT thời gian
tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao NLPB trong thực hành xêmina của
học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở trường SQCT.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: về hoạt động NLPB trong thực hành xêmina của học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV trình độ đại học.


- Về không gian: ở tiểu đoàn 7 Trường SQCT.
- Về thời gian: các tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát từ năm 2015 đến

nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận:
Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
phản biện và NLPB.
* Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội như: hệ thống
- cấu trúc, lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ thực chất quá trình sử dụng tư duy trong thực
hành xêmina cho học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở trường SQCT
hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp thêm cơ sở khoa học để xác
định phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ học viên
KHXH&NV của Nhà trường trong những năm tới. Ngoài ra, đề tài có thể làm
tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại nhà
trường.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, kiến nghị, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO NĂNG
LỰC PHẢN BIỆN TRONG THỰC HÀNH XÊMINA CHO HỌC VIÊN
ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Ở
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ HIỆN NAY
1.1. Những vấn đề lý luận về nâng cao năng lực phản biện trong

thực hành xêmina cho học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân
văn ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay
1.1.1. Năng lực phản biện trong thực hành xêmina của học viên đào
tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan Chính trị
1.1.1.1. Quan niệm về năng lực phản biện trong thực hành xêmina
Năng lực theo nghĩa thông thường là khả năng của con người hoàn
thành một công việc nào đó, là biểu hiện của lao động. Theo từ điển tiếng
Việt: năng lực là: “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó; phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người
khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.” [18, tr.
660-661]. Thuật ngữ “năng lực” được đặt trong quan hệ với thuật ngữ “phẩm
chất” của tâm lý học, đạo đức học đặt để phản ánh những thuộc tính của nhân
cách, trong đó, năng lực đồng nghĩa với “tài” (thuật ngữ sử dụng đi đôi với
đức), chính là khả năng nhận thức những hoạt động nhất định và thực hiện có
hiệu quả những hoạt động đó.
Năng lực trong triết học Mác-Lênin bao giờ cũng là của một chủ thể cụ
thể. C.Mác viết: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn
bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một
con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó” [4, tr. 251]. Ông coi năng lực là những yếu tố
thuộc về “thể chất và tinh thần” của một con người nhất định, thông qua quá
trình huy động, vận dụng vào hiện thực “mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó”. Theo đó, hoạt động sống của con người luôn phải chấp nhận sự
gắn liền của năng lực và sự phát triển của năng lực. Không có năng lực tách
rời hoạt động thực tiễn. Năng lực của con người tồn tại dưới hai dạng chính:
dạng tiềm năng và dạng hiện thực.
Kế thừa các quan niệm về năng lực trên, nhóm tác giả đã đưa ra khái
niệm về năng lực: “năng lực là tổng hợp những yếu tố chủ quan của con
người tạo thành khả năng giải quyết một vấn đề cụ thể xác định”.
Phản biện là hành động xuất hiện một cách tự nhiên trong một xã hội

mà ở đó mỗi con người đều tự do bày tỏ các nguyện vọng của mình. Phản
biện góp phần điều chỉnh các khuynh hướng kinh tế, văn hóa chính trị, làm


cho các khuynh hướng đó trở nên khoa học hơn, đúng đắn hơn và gần với đời
sống con người hơn. Theo đó, phản biện là sự tranh luận, tức là đưa ra lập
luận để làm rõ đúng – sai. Trong phản biện phải hội đủ các luận cứ (thực tiễn,
khoa học) để làm rõ cái đúng, cái sai của vấn đề đang tranh luận. Là sự tranh
luận, phản biện bao hàm cả biện luận và phản biện luận, chứ không chỉ “một
chiều”. Trong phản biện không chỉ là bác bỏ, phủ định, mà có thể có cả sự bổ
sung, làm rõ hơn vấn đề ở góc độ, phương diện khác nhau. Do đó, không thể
đồng nhất phản biện với phản bác.
Phản biện là một nhu cầu của cuộc sống bởi nhờ có nó con người có thể
loại bỏ những yếu tố sai để tiệm cận tới sự hợp lý trong các quyết định, các
hành vi của mình. Trong khoa học phản biện cũng là một trong những cách
thức chủ yếu điểm các nhà nghiên cứu tiệm cận tới các chân lý khoa học. Còn
trong đời sống xã hội phản biện là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra
một xã hội dân chủ. Trên thực tế đời sống có rất nhiều hình thức phản biện
được áp dụng và đưa ra nghiên cứu như: phản biện xã hội, phản biện khoa
học, phản biện trong học tập. Để hoạt động phản biện được thực hiện tốt
người tham gia phản biện cần đảm bảo một số nguyên tắc: cần có những hiểu
biết cơ bản về vấn đề phản biện; trong quá trình phản biện tránh rơi vào bác
bỏ hay ngụy biện; công nhận và tôn trọng giá trị của người khác; phát triển
các kỹ năng mềm, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp. Như vậy, “Phản biện là việc
làm cần thiết trong lý luận, qua đó người ta đưa ra những lập luận, lý lẽ,
bằng chứng, nhằm lý giải, chứng minh ngược lại một vấn đề nào đó, một hiện
tượng nào đó, một quan điểm nào đó, một công trình nghiên cứu nào đó v.v..,
trong nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống”.
Trong phạm vi giáo dục, “phản biện” được hiểu là: đối thoại giữa người
học với người dạy, người học với người học, để chiếm lĩnh nội dung bài học,

đồng thời rèn tập ở người học một số kĩ năng, phẩm chất cần cho việc phản
biện chuyên môn. Đó chính là khả năng phân tích, đánh giá một thông tin,
một vấn đề liên quan đến nội dung kiến thức mà bài học, môn học đặt ra
nhằm làm sáng tỏ và khẳng định rõ tính chính xác của thông tin, vấn đề đó.
Năng lực phản biện trong học tập không phải là năng lực sẵn có mà nó
phải được hình thành theo thời gian qua quá trình học tập và rèn luyện thông
qua nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau trong đó có xêmina. Năng lực
phản biện trong thực hành xêmina không phải là một khái niệm mới mà nó đã
có từ khá lâu. Trong các buổi xêmina học viên phải trình bày quan điểm, suy
nghĩ, hiểu biết của mình về vấn đề mà giảng viên nêu ra để làm sáng tỏ.
Nhưng trong quá trình tranh luận nhưng do ý kiến chủ quan của mỗi cá nhân
các vấn đề nêu ra đôi khi còn chưa được làm sáng tỏ. Vì vậy, phải cần có các
ý kiến phản biện của nhiều học viên khác nhau tranh luận xoay quanh vấn đề
đó để làm sáng tỏ. Hoặc khi trình bày ý kiến của mình, học viên thấy có nhiều


ý kiến khác bổ sung làm rõ nhưng lại không phù hợp hoặc không đi theo
mạch suy nghĩ của mình thì người học viên cần phải tiến hành phản biện lại
các ý kiến đó để bảo vệ quan điểm của mình.
Năng lực phản biện bộc lộ qua kỹ năng lập luận trong nói, viết là hết
sức cần thiết trong học tập và trong công việc, với đời sống cá nhân cũng như
với tồn tại cộng đồng. Nó giúp ta tránh được tình trạng đồng thuận dễ dãi, hời
hợt, xuôi chiều trong khoa học, đời sống, ngăn chặn tình trạng học vẹt, đọc
vẹt, nói vẹt trong học đường.
Từ sự phân tích trên đây, chúng tôi quan niệm: “NLPB trong thực hành
xêmina của chủ thể là tổng hoà những khả năng lập luận, phân tích và đánh
giá thông tin được đưa ra trong các buổi xêmina theo các cách nhìn khác cho
vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn
đề được nêu ra”. Có thể nói:
Tính khoa học của NLPB trong thực hành xêmina: được thể hiện ở

chiều sâu tri thức khoa học và phương pháp lôgíc chặt chẽ. Chủ nghĩa Mác Lênin, là học thuyết mang bản chất khoa học và cách mạng là cơ sở lý luận
thể hiện tri thức khoa học trong tư duy phản biện. Thế giới quan, phương
pháp luận mác xít là cơ sở để người học nhìn nhận vấn đề khách quan, bảo
đảm tính lịch sử, cụ thể với quan điểm biện chứng; vận dụng đúng đắn và
sáng tạo các lý luận mác xít vào giải quyết các vấn đề trong học tập và thực
tiễn; bảo đảm tính khoa học cho năng lực phản biện của học viên phải hiểu và
hành động theo lý luận Mác- Lênin; biết huy động những kiến thức các khoa
học khác (tâm lý, sư phạm...) vào quá trình phản biện.
Tính khoa học của NLPB thể hiện trong sử dụng hệ thống kiến thức đã
được kiểm chứng (chân lý), bằng cả lý luận và thực tiễn; tạo sự tin cậy về
khoa học và làm tăng tính thuyết phục trong việc bảo vệ các luận điểm của
mình. Điều đó có nghĩa là trong quá trình phản biện phải sử dụng những kiến
thức khoa học, quan điểm chính thống để lý giải hoặc phân tích các vấn đề
được nêu ra trong quá trình xêmina.
Năng lực phản biện trong thực hành xêmina mang tính nghệ thuật sâu
sắc. Điều đó thể hiện trong quá trình người học sử dụng ngôn ngữ, hình thức,
phương pháp phản biện... trong quá trình phản biện ngoài yêu cầu tính khoa
học người học còn phải có nghệ thuật phản biện để tăng tính thuyết phục cho
luận điểm của mình. Tính nghệ thuật sẽ gây được thiện cảm, đồng tình, ủng
hộ với tập thể, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả phản biện trong
thực hành xêmina.
Tính nghệ thuật của NLPB thể hiện rõ trong việc sử dụng ngôn ngữ phân
tích và lập luận. Sử dụng ngôn ngữ trong NLPB vô cùng quan trọng, là
phương tiện chuyển tải những hiểu biết, nội dung, ý định của chủ thể đến đối


tượng tiếp nhận. Sức thuyết phục trong quá trình phản biện được thể hiện ở
cách cách sử dụng ngôn ngữ trong sáng, có tính khái quát và giàu hình tượng;
câu văn ngắn gọn, chặt chẽ, súc tích; diễn đạt mạch lạc, sâu sắc và gợi cảm.
việc sử dụng ngôn từ phù hợp không chỉ tăng tính thuyết phục mà còn chuyển

tải đầy đủ nội dung. Vì vậy, chủ thể nâng cao NLPB cần hết sức chú ý học
tập, rèn luyện nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ, khắc phục lối sử dụng
ngôn ngữ tuỳ tiện, diễn đạt dài dòng, không chặt chẽ, thiếu sự khái quát.
1.1.1.2. Năng lực phản biện trong thực hành xêmina của học viên đào
tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan chính trị
Ở Trường SQCT, xêmina là một hoạt động rất cần thiết, ngoài những
giờ học trên lớp các buổi xêmina giúp cho học viên ôn và nắm lại kiến thức
một cách toàn diện và sâu sắc hơn các nội dung đã học. Trong các buổi
xêmina học viên được thảo luận và đi sâu vào các vấn đề học mà ở trên lớp do
thời gian hạn chế nên chưa cho phép đi sâu tìm hiểu. Đồng thời giúp cho
giảng viên nắm bắt được lượng kiến thức mà học viên đã tiếp thu được sau
các bài giảng trên lớp để điều chỉnh nội dung dạy và hướng dẫn. Trường
SQCT là nơi đào tạo giảng viên KHXH&NV cấp phân đội duy nhất trong
toàn quân do đó việc học viên được tham gia các buổi xêmina là rất hữu ích
để bổ sung thêm kiến thức cần thiết. Tuy nhiên một buổi xêmina thành công
không thể đến từ một phía từ các giảng viên mà phải cần thêm năng lực của
mỗi học viên.
Năng lực phản biện trong thực hành xêmina của học viên đào tạo giáo
viên khoa học xã hội và nhân văn ở trường SQCT hiện nay là tổng thể những
khả năng lập luận, phân tích và đánh giá thông tin được đưa ra trong các
buổi xêmina theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ
và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề được nêu. Như vậy, NLPB trong
thực hành xêmina cho học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn
ở trường SQCT là một tổng thể bao gồm các khả năng gắn với từng học viên
cụ thể gồm:
Thứ nhất, tri thức khoa học.
Tri thức là sự hiểu biết thấu đáo, kiến thức về đối tượng, lĩnh vực, vấn
đề cần phản biện khi thực hành xêmina. Những tri thức này được hình thành
trong quá trình giáo viên truyền dạy trên lớp và tham gia hoạt động thực tiễn.
của học viên. Tri thức khoa học là một trong những căn cứ rất quan trọng để

người học viên bồi dưỡng NLPB. Để phản biện được, người học viên cần có
kiến thức, hiểu biết về vấn đề đang được thảo luận. Biết sử dụng luận điểm,
luận cứ đã tiếp thu để phản biện. Không có tri thức khoa học thì sẽ hiểu sai
vấn đề hoặc không biết vấn đề đang thảo luận. Nên nếu có phản biện thì cũng
là phản biện “cho có” mà không quan tâm đến kết quả.


Thứ hai, niềm tin.
Ở đây là niềm tin của người phản biện là tin vào tính đúng đắn, sức
thuyết phục, tính đúng đắn trong lập luận của chính mình, tin vào động cơ tốt
đẹp của hành vi phản biện, và vào những gì mình muốn phản biện. Khi có
niềm tin vào nội dung và động cơ phản biện người học viên sẽ năng nổ tham
gia xêmina. Nhưng khi không có niềm tin thì học viên rất sợ những kiến thức
mà mình có được không chuẩn xác với vấn đề trao đổi, do đó không dám
phản biện.
Thứ ba, dũng khí.
Có tri thức, niềm tin mà thiếu dũng khí thì vẫn sợ đụng chạm, mất lòng,
ngại tranh luận, né tránh đối thoại, hoặc tham gia phản biện nửa vời, thiếu
tính chiến đấu. Dũng khí trong xêmina rất qua trọng. Nó giúp học viên sẵn
sàng đứng lên phản biện, đấu tranh bảo vệ quan điểm, ý kiến cá nhân. Có
nhiều học viên có kiến thức và biết về về nội dung nhưng lại rụt rè, không
dám đứng lên trình bày ý kiến của mình hoặc phản biện lại các ý kiến chưa
đúng. Tuy nhiên, có dũng khí mà thiếu niềm tin, tri thức thì sự phản biện có
nguy cơ biến thành hành động liều lĩnh, hời hợt, bốc đồng.
Thứ tư, hứng thú.
Hứng thú phản biện là nguồn động lực to lớn của mỗi học viên khi
tiếp xúc, duy trì hoạt động bồi dưỡng NLPB. “Nếu có hứng thú với phản biện
học viên sẽ tự giác tìm hiểu, rèn luyện, tự bồi dưỡng một cách nghiêm túc,
miệt mài; thường xuyên vận dụng vào hoạt động thực tiễn. Từ đó, mỗi học
viên tự bồi dưỡng, tự điều chỉnh tư duy của bản thân ngày càng lôgíc, chặt

chẽ, khoa học hơn. Ngược lại, học viên không có hứng thú với NLPB thì quá
trình thực hành xêmina sẽ gặp nhiều khó khăn.
Thứ năm, kĩ năng, kỹ xảo.
Quá trình thực hành xêmina người học viên phải biết vận dụng các kỹ
xảo, kỹ năng để tăng độ thuyết phục cho các luận chứng phản biện trên cơ sở
kế thừa những yếu tố tích cực, loại bỏ các yếu tố tiêu cực, máy móc, cứng
nhắc của tư duy cũ, từ đó hình thành lối tư duy khoa học, lôgíc, phát triển kỹ
năng phản biện của mình.
1.1.2. Nâng cao năng lực phản biện trong thực hành xêmina cho học
viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan
Chính trị hiện nay
1.1.2.1. Quan niệm nâng cao năng lực phản biên trong thực hành
xêmina cho học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường
Sĩ quan Chính trị hiện nay


Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nâng cao là làm cho cao hơn trước, đưa lên
mức cao hơn” [19, tr. 197]. Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại đều do các bộ phận,
yếu tố cấu thành, tương tác với nhau theo những nguyên tắc, cơ chế nhất định.
Sự tác động đến các yếu tố, bộ phận phù hợp với quy luật sẽ làm cho sự vật,
hiện tượng vận động, phát triển tiến lên không ngừng, đạt đến trình độ mới
với chất lượng mới tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Như đã nói, NLPB trong thực hành xêmina gắn liền với khả năng của
từng chủ thể, được thể hiện thông qua thực tiễn. Nó là kết quả của một quá
trình học tập, rèn luyện, tích luỹ của bản thân học viên cùng với đó là sự tác
động của các chủ thể khác bên ngoài, trong đó chủ yếu là các lực lượng sư
phạm trong Nhà trường. Sự phân tích trên đây cho phép chúng tôi quan niệm:
Nâng cao năng lực NLPB trong thực hành xêmina của học viên đào tạo giáo
viên KHXH&NV ở trường SQCT hiện nay là quá trình tác động tự giác hợp
quy luật của các chủ thể làm cho các yếu tố cấu thành NLPB trong thực hành

xêmina của học viên biến đổi nâng lên về chất, nhằm giúp cho học viên nâng
cao hơn nữa khả năng lập luận, phân tích và đánh giá thông tin được đưa ra
trong các buổi xêmina theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm
làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề được nêu.
Quan niệm này chỉ rõ:
Thứ nhất, chủ thể nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học viên
đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT là toàn thể các lực lượng sư
phạm, trong đó đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn lý luận Mác-Lênin là
lực lượng nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo.
Thứ hai, mục đích nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV là nâng cao kiến thức, trình độ lý luận và
khả năng ghi nhớ, lĩnh hội của học viên, góp phần hoàn thành nhiệm vụ học
tập của bản thân cũng như mục tiêu yêu cầu GD - ĐT của Nhà trường.
Thứ ba, nội dung nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học viên
đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở trường sĩ quan chính trị hiện
nay:
Một là, nâng cao trình độ nhận thức.
Làm cho học viên có nhận thức đúng đắn và trách nhiệm cao trong việc
nâng cao NLPB của cá nhân trong học tập. Nâng cao nhận thức cho học viên
về vị trí vai trò của phản biện không chỉ chú ý ở đam mê hứng thú mà còn chú
ý cả thái độ và trách nhiệm của học viên ngay trong những giờ học chính
khóa trên lớp và hoạt động ngoại khóa. Nếu người học có thái độ trách nhiệm
tốt thì họ sẽ muốn tìm tòi và nâng cao khả năng, trình độ của bản thân. Và
ngược lại nếu không có thái độ trách nhiệm tốt trong giờ học thì học chỉ học
qua loa, học cho xong nên không nhận thức được tầm quan trọng của việc


nâng cao tư duy phản biện. Như vậy, có thể khẳng định đây là một cơ sở có ý
nghĩa quan trọng giúp cho các chủ thể đưa ra chủ trương, biện pháp thích hợp
để nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học viên đào tạo giáo viên

KHXH&NV ở Trường SQCT.
Hai là, nâng cao niềm tin cho người học.
Trong quá trình tác động nâng cao các chủ thể đặc biệt là đội ngũ giảng
viên cung cấp cho học viên những kiến thức chính xã khoa học và rõ ràng để
tạo cho học viên niềm tin vào kiến thức mà mình tiếp thu đề tích cực hơn
trong quá trình phản biện và nâng cao NLPB. Nhưng bên cạnh đó không chỉ
phụ thuộc quá vào chủ thể mà không chú tâm xây dựng cho học viên động cơ
và mục đích học tập đúng đắn. Bởi vì nếu có mục đích đúng cho mình đặc
biệt là học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV thì mục đích cần phải cao hơn
các đối tượng khác thì họ sẽ tự nhận thấy được cần phải có những biện pháp
để học hiệu quả mà đặc biệt là nâng cao khả năng tư duy phản biện trong thực
hành xêmina. Chính vì vậy nâng cao niềm tin cho học viên là yếu tố quan
trọng mà các chủ thể cần chú trọng tới để thực hiện có hiệu quả.
Ba là, nâng cao dũng khí cho người học.
Sự can đảm trong việc thể hiện bản thân, không ngại va chạm mất lòng
là yếu tố để học viên dám nói ra ý kiến cá nhân và phản bác lại các ý kiến chứ
chính xác. Mỗi người đều có dung khí tiềm ẩn chưa được bộc lộ hoặc mới
được bộc lộ chút ít. Do đó các chủ thể cần chú ý làm bộc lộ và nâng cao sự
dung cảm của học viên. Có rất nhiều học viên có thể biết vấn đề nào đó nhưng
tâm lý ngại phát biểu trước đám đông hoặc phủ nhận ý kiến của đồng chí nào
đó. Đây là yếu tố làm cho học viên không muốn phản biện. Vậy nên các chủ
thể cần quan tâm nâng cao dung khí cho người học để nâng cao NLPB.
Bốn là, nâng cao hứng thú cho học viên.
Đây cũng là nội dung quan trọng đến nâng cao hứng thú về tư duy phản
biện cho học viên. Bởi hứng của người học bao giờ cũng biểu hiện ra trước
hết là ở thái độ, hành vi. Người có hứng thú với việc tìm tòi phương pháp
nâng cao tư duy phản biện thì thái độ, hành vi tốt và ngược lại, người không
có hứng thú thì thái độ, hành vi biểu hiện ra cũng không tốt và thường hay có
biểu hiện xem thường và không quan tâm tới trình bày ý kiến và phản biện lại
ý kiến trong xêmina. Do vậy, muốn nâng cao hứng thú cho học viên cần phải

giúp cho họ có thái độ, hành vi học tập đúng đắn về môn học.
Năm là, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và khả năng vận dụng vào thực hành
xêmina cho học viên.
Nâng cao kỹ năng, kỹ xảo vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có vào
phản biện sẽ giúp học viên nâng cao được khả năng của mình và khi được kết


quả tốt thì học viên sẽ thấy thích thú hơn khi phản biện. Kỹ năng, kỹ xảo là
một yếu tố cấu thành năng lực của người học. Do đó quá trình tác động nâng
cao các chủ thể phải nâng cao kỹ nằng, kỹ xảo cho học viên, nhất là các kỹ
năng mềm.
1.1.2.2. Những nhân tố quy định nâng cao năng lực phản biện trong
thực hành xêmina cho học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân
văn ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay
Một là, nhận thức, ý thức, trách nhiệm, phẩm chất năng lực của học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV tại Nhà trường.
Đây là cơ sở để xác định chính xác kế hoạch, nội dung, hình thức,
phương pháp bồi dưỡng sao cho phù hợp; phát huy có hiệu quả những tác
động tích cực, hạn chế đến mức thấp nhất các tác động tiêu cực để công tác
bồi dưỡng, nâng cao NLPB đạt kết quả cao nhất. Vì nhận thức về NLPB trong
thực hành xêmina và vai trò của nó đối với bản thân có ý nghĩa quyết định,
tác động trực tiếp đến quá trình nâng cao NLPB. Nhận thức đúng đắn vấn đề
này giúp cho người học viên có được thái độ tích cực, sự chủ động trong quá
trình học tập, rèn luyện đây là cơ sở để củng cố và hoàn thiện những kỹ năng
phản biện. Ngược lại, nếu bản thân nhận thức không đầy đủ hay không nhận
thức được về ý nghĩa, vai trò của phản biện sẽ dẫn đến sự kém hiệu quả của
công tác tổ chức bồi dưỡng; bồi dưỡng qua loa, chiếu lệ; bản thân không nắm
vững được các công cụ tư duy, kỹ năng phản biện; bị hạn chế trong việc xử lý
các tình huống và thực hiện các nhiệm vụ trong quá trình học tập, rèn luyện.
Học viên có tính tích cực, chủ động, sáng tạo, có niềm đam mê, hứng thú sẽ

kích thích người học viên liên tục chiếm lĩnh tri thức, nâng cao hơn nữa năng
lực tổng hợp trong đó có NLPB trong thực hành xêmina. Đồng thời, ý chí của
học viên giúp họ thi đua với chính bản thân mình, vượt mọi khó khăn, trở
ngại, thách thức để đạt được mục đích đề ra. Lênin chỉ rõ: “Không có sự say
mê thì xưa nay không có sự tìm tòi chân lý” [20, tr. 131].
Hai là, năng lực, trách nhiệm của giảng viên các khoa KHXH&NV.
Trong quá trình đào tạo tại trường thì vai trò của người giáo viên là vô
cùng quan trọng. Những thứ mà học viên tiếp nhận được ở người giáo viên từ
tri thức đến năng lực và phương pháp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng GD
- ĐT Một người giáo viên có đầy đủ phẩm chất, năng lực, tri thức rộng,
phương pháp truyền thụ hấp dẫn được học viên thì sẽ đưa học viên đi đúng
hướng để chiếm lĩnh tri thức và góp phần định hướng nhận thức đúng đắn cho
học viên về vị trí, vai trò của NLPB trong thực hành xêmina.
Ba là, mục tiêu, yêu cầu GD - ĐT của Nhà trường.
Xuất phát từ nội dung GD - ĐT của Nhà trường, đặc biệt là nhiệm vụ
đào tạo người giáo viên KHXH&NV, thực hiện nghiên cứu khoa học và xây


dựng NTQĐ sẽ có những bước tiến mới, tác động trực tiếp và đặt ra yêu cầu
cao hơn cho hoạt động xây dựng kỹ năng sư phạm, năng lực tư duy cho học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV. Nội dung, chương trình đào tạo ngày
càng được xây dựng và củng cố theo hướng tăng nhanh về hàm lượng tri thức;
rút ngắn thời gian đào tạo trên giảng đường, tăng thời lượng tự học của cả quá
trình. Đồng thời, bản thân người học viên phải tích cực tham gia nhiều hoạt
động đan xen. Xác định rõ ràng chính xác mục tiêu, yêu cầu đào tạo, đồng
thời đổi mới quá trình dạy và học của người học viên, trách nhiệm của cán bộ
chỉ huy, giảng viên tạo điều kiện tốt nhất cho quá trình học tập rèn luyện góp
phần nâng cao, trang bị đầy đủ NLPB cho học viên phù hợp với nội dung giáo
dục đào tạo của Trường SQCT hiện nay.
1.2. Thực trạng năng lực phản biện trong thực hành xêmina của

học viên đào tạo giáo viên khoa học xã hội và nhân văn ở Trường Sĩ quan
Chính trị hiện nay
1.2.1. Ưu điểm và hạn chế
1.2.1.1. Ưu điểm
Một là, đa số học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT
có nhận thức đúng đắn về NLPB trong thực hành xêmina.
Học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT luôn xác định
bản thân chính là nguồn cho đội ngũ giáo viên cho toàn quân trong tương lai.
Là những người sẽ trực tiếp truyền thụ tri thức lý luận cho thế hệ mai sau. Do
vậy, ngay từ khi bắt đầu quá trình học tập, học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV đã có nhận thức đúng và xác định đúng vị trí, ý nghĩa và tầm
quan trọng của NLPB nói chung, NLPB trong thực hành xêmina nói riêng đối
với việc nâng cao năng lực và trình độ của bản thân, cũng như góp phần nâng
cao chất lượng GD - ĐT của Nhà trường. Qua tìm hiểu nhận thức của học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV về mức độ cần thiết của năng lực phản
biện trong thực hành xêmina. Kết quả thu được cho thấy, đa số viên đào tạo
giáo viên KHXH&NV đã nhận thức một cách đúng đắn về mức độ cần thiết
của NLPB. Có tới 23% học viên cho rằng NLPB là “rất cần thiết”; 35% là
“cần thiết”; 25% cho rằng cần thiết ở mức bình thường và 17% cho rằng
không cần thiết (Bảng 5- Phụ lục 1), Với những kết quả thu được về nhận
thức như trên sẽ là cơ sở cho học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV nâng
cao NLPB trong thực hành xêmina.
Bên cạnh đó, qua trò chuyện, phỏng vấn sâu đối với các đồng chí cán
bộ quản lý ở đơn vị, với câu hỏi: “qua tiếp xúc nhiều với học viên trong đơn
vị, đồng chí có thể cho biết nhận thức của học viên về vai trò, tầm quan trọng
của NLPB trong thực hành xêmina như thế nào?”, chúng tôi nhận được nhiều
câu trả lời nhưng phổ biến nhất đó là: đội ngũ học viên đào tạo giáo viên


KHXH&NV đã nhận thức được NLPB trong thực hành xêmina có ý nghĩa

thiết thực không chỉ đối với kết quả học tập hiện tại mà còn đối với cương vị
công tác sau này.

Tiếp theo quá trình nghiên cứu, chúng tôi điều tra thực trạng nhận thức
của học viên về vai trò của NLPB đối với bản thân người học. Kết quả thu
được ở quá trình điều tra (Bảng 6 - Phụ lục 1) cho những con số cụ thể như
sau: Vai trò được học viên lựa chọn nhiều nhất là “nâng cao NLPB trong thực
hành xêmina góp phần giúp học viên huy động toàn bộ kiến thức, trí tuệ của
bản thân để có cái nhìn tổng hợp và chính xác về những vấn đề quan tâm”
với 87%. Sở dĩ như vậy vì NLPB trong thực hành xêmina giúp học viên nắm
được những tri thức khoa học, phương pháp luận biện chứng và tái hiện lại
toàn bộ tri thức đã có để xem xét, đánh giá vấn đề nào đó. Vai trò đứng vị trí
thứ 2 là “góp phần phát triển tư duy sáng tạo cho học viên trong quá trình
đào tạo” với 72%. Kết quả này có được bởi lẽ những tri thức khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin rèn luyện cho chúng ta khả năng tư duy, sáng tạo nhìn
nhận sự vật hiện tượng trong các mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn
nhau. Tiếp đó, vai trò “góp phần quan trọng vào việc phát huy tính tích cực,
chủ động trong nhận thức chân lý của học viên trong quá trình đào tạo” xếp
vị trí thứ 3, chiếm 68%. Trên thực tế NLPB trong thực hành xêmina giúp cho
học viên tích cực khám phá tìm tòi tri thức mới, đồng thời thúc đẩy tư duy
tích cực đi tìm chân lý, khắc phục tình trạng rụt rè, e ngại cho người học.


Xếp vị trí thứ 4 đó là vai trò “góp phần nâng cao chất lượng GD ĐT.” (chiếm 60%). Đây là vai trò chung của NLPB mang lại cho Nhà trường.
Nó giúp cho mỗi học viên nâng cao được trình độ năng lực của mình đồng
thời góp phần nâng cao chất lượng GD - ĐT của Nhà trường. Kết quả thu
được ở trên cho thấy, học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường SQCT
đã nhận thức được những vai trò quan trọng của NLPB trong thực hành
xêmina. Đây sẽ là cơ sở vững chắc để kích thích tính tích cực nhận thức trong
đội ngũ học viên, tạo tiền đề để làm nảy sinh những cảm xúc tích cực trong

tìm tòi phương pháp và cách thức nâng cao NLPB.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn nghiên cứu thực trạng nhận thức của học
viên về sức hấp dẫn của các buổi xêmina có phản biện sôi nổi. Kết quả thu
được thể hiện thông qua điều tra xã hội học (Bảng 7 - Phụ lục 1) cho thấy:
phương án được lựa chọn nhiều nhất là “hấp dẫn nhưng không phải mọi giờ
xêmina đều vậy”, chiếm 68%. Bên cạnh đó, có 12% học viên chọn phương án
“rất hấp dẫn”. Điều này có nghĩa là có một số học viên nhận thấy việc phản
biện trong giờ xêmina lôi cuốn họ. Đây là điều kiện cần thiết để kích thích họ
hăng say và tích cực tham gia trao đổi, thảo luận cùng giảng viên và các đồng
chí khác trong các buổi xêmina.
Hai là, đa số học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV có niềm tin vào
NLPB trong thực hành xêmina sẽ đem lại hiệu quả tốt cho bản thân.
Với những tri thức khoa học được trang bị kỹ càng cùng với việc đã
xác định cho mình mục đích, động cơ đúng đắn về học tập, học viên đào tạo
giáo viên KHXH&NV đã xây dựng được cho mình niềm tin vào mục đích


đúng đắn của việc nâng cao NLPB. Theo số liệu khảo sát được với câu hỏi
“bạn có tin vào tri thức khoa học đã được trang bị từ các lực lượng sư phạm
để sử dụng phản biện” thì 76% học viên trả lời có tin.

Tin vào động cơ mục đích đúng đắn của việc nâng cao NLPB là cơ sở
quan trọng để học viên nghiên cứu, tìm tòi phương pháp. Qua khảo sát thu
được kết quả: 79% số học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV tin vào việc
nâng cao NLPB sẽ giúp họ có kết quả học tập tốt hơn. Đa số học viên đã nhận
thức đúng vai trò NLPB trong học tập (Bảng 8 - Phụ lục 1).
Ba là, phần lớn học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường
SQCT có dũng khí dám đứng lên trình bày ý kiến của mình.
Học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV được trang bị hệ thống tri thức
khoa học và được đội ngũ giáo viên giảng dạy trực tiếp truyền thụ phương

pháp nên đa số học viên có khả năng diễn giải trình bày vấn đề tốt. Đây là cơ
sở quan trọng để học viên dám đứng lên trình bày ý kiến. theo số liệu mà
nhóm đề tài khảo sát được với câu hỏi: “bạn có dám trình bày quan điểm của
mình trước đám đông”. Với câu hỏi này chúng tôi đưa ra ba sự lựa chọn là có,
trung bình hoặc không. Trong đó đa số học viên chọn phương án “có” với tỷ
lệ chiếm 72%; Như vậy đa số học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV đã hình
thành được cho mình dũng khí trước đám đông và không ngại va chạm với
đồng chí đồng đội. (Bảng 9- phụ lục 1).


Đồng thời cũng có rất nhiều học viên biết về vấn đề đang trao đổi
nhưng lại không dám bày tỏ quan điểm. Chúng tôi cũng đưa ra câu hỏi để
khảo sát nội dung này thì thu được kết quả: 58% trả lời nếu biết sẽ dám phản
biện, trong khi đó 12% trả lời biết nhưng không dám phản biện, 30% còn lại
phân vân giữa hai phương án trên. (bảng 10 - phụ lục 1).
Bốn là, phần lớn học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường
SQCT có hứng thú nâng cao NLPB trong thực hành xêmina.
Sự hứng thú đó được thể hiện ở thái độ của học viên trong phản biện ở
các buổi xêmina. Mặt thái độ trong hứng thú nâng cao năng lực xêmina của
học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV được xác định bởi các thông số: thái
độ của học viên trước giờ xêmina; thái độ của học viên trong giờ xêmina. Cụ
thể như sau:
Thái độ của học viên về NLPB trước giờ xêmina. Trước các giờ xêmina
học viên thường bày tỏ thái độ của mình như thích thú, chờ đợi hay không
thích thú. Thái độ đó được biểu hiện qua hành vi của học viên. Những học
viên thích thú chờ đợi thì luôn nghiên cứu, tìm tòi và chuẩn bị nội dung chu
đáo và ngược lại những người không hứng thú với NLPB trong xêmina thì
thường chuẩn bị nội dung qua loa và làm đối phó không nghiên cứu, tìm tòi
nội dung để tham gia thảo luận và phản biện ý kiến trong xêmina. Nhóm đề
tài tham gia khảo sát học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV thu được kết qủa

như sau: đa số học viên có thái độ “rất hứng thú” và “hứng thú” trước giờ
xêmina (chiếm tới 65%). Tiếp đến là thái độ “bình thường” trước giờ xêmina
chiếm 19%. Và thái độ “không hứng thú” chiếm 16% (Bảng 11- Phụ lục 1).


Như vậy, có thể thấy, đại đa số học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV
thể hiện sự thích thú chờ đợi đến giờ xêmina. Sự thích thú này là cơ sở để học
viên muốn nâng cao NLPB của mình.
Thái độ của học viên đối với NLPB trong thực hành xêmina. Theo số
liệu mà nhóm đề tài tham gia khảo sát thu được: trong giờ xêmina thì đa số
học viên “hứng thú” và “rất hứng thú” với NLPB (chiếm 62%). Như vậy,
qua điều tra chúng ta có thể thấy phần lớn học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV đã hứng thú với NLPB (bảng 12 – phụ lục 1).
Năm là, phần lớn học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường
SQCT đã rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo phản biện trong thực hành xêmina.
Việc học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV phải hình thành cho mình
kỹ năng, kỹ xảo để sau khi ra trường đảm nhiệm được nhiệm vụ giảng dạy là
điều tất yếu. Giảng viên đã chú trọng hình thành cho họ nhiều kỹ năng, kỹ xảo
trong đó có kỹ năng, kỹ xảo phản biện lại các vấn đề. Thông qua điều tra thu
được 66% học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV đã hình thành được cho
mình những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để có thể phản biện lại một vấn đề có
sức thuyết phục cao. Trong khi đó 12% số học viên được hỏi trả lời đã có kỹ
năng kỹ xảo nhưng chưa đầy đủ và chưa cao. Như vậy đa số học viên đào tạo
giáo viên KHXH&NV đã có những điều cần thiết để có thể hoàn thành nhiệm
vụ sau khi ra trường như kỹ năng Phát hiện và luận giải các vấn đề xã hội áp
dụng vào thực tiễn hoạt động học tập của bản thân (bảng 13 - phụ lục 1).
1.2.1.2. Hạn chế
Một là, một bộ phận học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở Trường
SQCT nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về NLPB trong thực hành xêmina.



Qua khảo sát cho thấy đại đa số học viên đều có nhận thức tốt về vị trí,
vai trò của NLPB trong thực hành xêmina đối với học tập và trên cương vị
công tác sau này. Tuy nhiên, còn một bộ phận nhỏ học viên vẫn chưa nhận
thức tốt, đầy đủ về vấn đề này, có 25% số học viên cho rằng sự cần thiết đó ở
mức độ bình thường, thậm chí vẫn còn 17% cho rằng không cần thiết (Bảng 5
- Phụ lục 1). Chính vì chưa thấy việc nâng cao NLPB trong thực hành xêmina
sẽ trang bị kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, hoàn thiện và khẳng định bản
thân; chưa thấy được tầm quan trọng đặc biệt của NLPB đối với một người
giáo viên KHXH&NV trong tương lai. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến
việc các chủ thể nâng cao NLPB cho học viên.
Bên cạnh đó, số liệu từ Bảng 7 Phụ lục 1, cho thấy: vẫn có 18% số
lượng học viên cho rằng độ hấp dẫn ở mức bình thường, thậm chí còn có 2%
học viên cho là không hấp dẫn. Như vậy, vẫn có một số bộ phận học viên
chưa nhận thấy được sự hấp dẫn của các buổi xêmina có phản biện sôi nổi.
Nguyên nhân của nó nảy sinh từ cả hai phía, cả ở người dạy và người học.
Tuy nhiên, dù là khách quan từ phía người dạy, hay chủ quan từ phía người
học thì thực rạng trên cũng đã chỉ ra, vẫn còn một bộ phận không nhỏ học
viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ít chú ý đến nội dung giảng bài của giáo
viên. Điều này sẽ dẫn đến việc học viên không cảm thấy hào hứng trong giờ
học các môn khoa học Mác - Lênin, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học
tập của họ.
Hai là, một bộ phận học viên vẫn chưa có niềm tin vào việc nâng cao
NLPB trong thực hành xêmina sẽ đem lại hiệu quả cao cho bản thân.
Thông qua khảo sát điều tra ta có thể thấy được bên cạnh đa số học
viên tin tưởng vào NLPB sẽ đem lại cho họ một kết qủa học tập tích cực hơn
và tích lũy được các kỹ năng, phương pháp cần thiết để hoàn thành tốt buổi
xêmina. Theo bảng 8 phụ lục 1 thì vẫn còn tới 16% phân vân và 5% số học
viên được hỏi bày tỏ quan điểm không tin tưởng vào việc năng lực tư duy
phản biện sẽ đem lại hiệu quả tốt cho họ trong thực hành xêmina.

Ba là, một bộ phận học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở trường
SQCT còn chưa có dũng khí để tham gia phản biện.
Số liệu ở bảng 10 - phụ lục 1 đã cho thấy vấn còn tới 16% số học viên
đào tạo giáo viên KHXH&NV còn ngại trình bày ý kiến trước đám đông và
ngại va chạm. Điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc đứng lớp của các giáo
viên KHXH&NV trong tương lai. Vì họ phải đứng trước cả một tập thể học
viên trong lớp để truyền đạt kiến thức nhưng tấm lý e ngại rụt rè sẽ làm họ
mất tự tin và không truyền tải được nội dung đến người học. Đồng thời còn
cho thấy có 12% số học viên được hỏi trả lời biết nội dung nhưng không dám


đứng lên phản biện. Đây là yếu tố mà các chủ thể nâng cao cần phải cực kỳ
chú ý để nâng cao được NLPB cho học viên.
Bốn là, một bộ phận học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV ở trường
SQCT không có hứng thú với NLPB trong thực hành xêmina.
Mặc dù khi được hỏi, đa số học viên khẳng định vị trí, vai trò quan
trọng của tư duy phản biện đối với bản thân họ khi học tập và sau khi ra
trường. Nhưng quá trình chuyển biến từ nhận thức, suy nghĩ đến biểu hiện
thái độ hứng thú đối với nâng cao NLPB của học viên là còn chậm và chưa
cao. Qua quá trình tiếp xúc với học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV các
giảng viên đã đưa ra nhận xét “đa số học viên có nhận thức về vai trò của
NLPB tốt nhưng lại không say mê, thích thú tham gia phản biện trong các giờ
xêmina”. Hiện nay học viên nâng cao NLPB cho bản thân mình không phải
xuất phát từ sự đam mê hay hứng thú với nó mà vì ép buộc do điểm số và
thành tích học tập.
Số liệu từ Bảng 12 - Phụ lục 1 cũng cho thấy: vẫn còn 16 % học viên
có thái độ ‘không hứng thú” trước các giờ xêmina. Điều này có nghĩa là học
viên chuẩn bị nội dung xêmina là qua loa chỉ làm đối phó cho có khi được
kiểm tra chứ không phải vì mục đích đề có nội dung sâu sắc phản biện trong
xêmina. Như vậy, số học viên cảm thấy thích thú về NLPB vẫn còn nhưng chỉ

là số ít và vẫn có những học sinh không quan tâm, thậm chí cảm thấy chán khi
phản biện trong xêmina. Điều này sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học
tập của họ. Do đó đội ngũ giảng viên cần có biện pháp tác động để nâng cao
hứng thú của những học viên tạo cho họ cảm giác “háo hức chờ đợi”, “mong
đợi” tới giờ xêmina chứ không phải là thái độ thờ ơ, chán ghét.
Năm là, một bộ phận học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV chưa có
kỹ năng, kỹ xảo tốt để nâng cao NLPB trong thực hành xêmina.
Quá trình học tập trên lớp đồng thời với tiếp thu tri thức là quá trình
học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV tiếp thu các phương pháp, cách thức
dẫn giải, trình bày của giáo viên để hình thành cho bản thân kỹ năng kỹ xảo.
Nhưng bên cạnh đa số học viên nhận thức được vấn đề này và tỏ ra rất chăm
chú tiếp thu thì vẫn còn số ít tỏ ra thờ ơ, mệt mỏi trong giờ học nên còn hạn
chế về kỹ năng, kỹ xảo phản biện. Điều này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng
phản biện của học viên. Theo số liệu điều tra thì vẫn còn khá nhiều học viên
đào tạo giáo viên KHXH&NV còn chưa có kỹ năng, kỹ xảo phản biện. Con số
đó chiếm tới 22%. Đây là thực trạng đáng báo động vì nếu không hình thành
được kỹ năng kỹ xảo thì những người giáo viên tương lai không thể đứng lớp
giảng dạy.
1.2.2. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế
1.2.2.1. Nguyên nhân của ưu điểm


Một là, mục tiêu, yêu cầu GD -ĐT của Nhà trường được nâng cao tác
động đến nhận thức của học viên.
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới, yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Nhà trường đã chủ
động đổi mới chương trình, nội dung GD - ĐT. Với mục tiêu đào tạo đội ngũ
cán bộ chính trị và giáo viên KHXH&NV cho toàn quân, Nhà trường đã nâng
cao mục tiêu, yêu cầu đối với học viên, đặc biệt là học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV. Chính nhờ nâng cao mục tiêu, yêu cầu GD - ĐT đã làm cho học

viên phải nâng cao trình độ, năng lực của bản thân trong đó có NLPB trong
thực hành xêmina để không bị loại khỏi vòng quay học tập của Nhà trường.
Hai là, chất lượng các lực lượng sư phạm của Nhà trường không
ngừng được nâng cao tạo điều kiện thuận lợi đề học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV nâng cao NLPB.
Trong những năm qua, Nhà trường thường xuyên qua tâm xây dựng đội
ngũ giảng viên theo "chuẩn" để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của quân đội
trong xu thế hội nhập quốc tế và những tác động mạnh mẽ của cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0. Đến nay, đội ngũ giảng viên cơ bản có trình độ chuyên
môn cao, được đào tạo cơ bản, có hệ thống, đúng chuyên ngành, có tâm
huyết, nhiệt tình, trách nhiệm chính trị cao, lập trường vững vàng kiên định.
Với lòng nhiệt huyết của mình đội ngũ giảng viên luôn tích cực và mong
muốn nâng cao NLPB trong thực hành xêmina cho học viên đào tạo giáo viên
KHXH&NV. Góp phần nâng cao chất lượng GD - ĐT Nhà trường.
Ba là, sự nỗ lực của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV vươn lên
chiếm lĩnh tri thức.
Một trong những nguyên nhân quan trọng quyết định đến NLPB đó là
yếu tố chủ quan của học viên đào tạo giáo viên KHXH&NV. Ngay từ khi
chuyển sang đào tạo giáo viên KHXH&NV đa số học viên đã nhận thức đúng
đắn, đầy đủ mục tiêu yêu cầu GD - ĐT của Nhà trường. Từ đó tích cực phấn
đấu và rèn luyện về mọi mặt. Học viên luôn chuyên tâm tu dưỡng, rèn luyện
khắc phục mọi khó khăn trong học tập và công tác dành nhiều thời gian để tự
học, tìm kiếm, nghiên cứu tài liệu. Đồng thời, tích cực xây dựng kế hoạch và
phấn đấu rèn luyện nâng cao NLPB để học tập, thực hành tại Nhà trường và
công tác khi ra đơn vị.
1.2.2.2 Nguyên nhân hạn chế.
Một là, nhận thức, thái độ, trách nhiệm của một số học viên trong hoạt
động nâng cao NLPB chưa cao.
Việc nhận thức đúng đắn sẽ thúc đẩy hoạt động của học viên. Tuy nhiên
không phải học viên nào cũng có nhận thức đúng đắn. Nhiều học viên đào tạo



×