Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.96 MB, 61 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>Thuộc nhóm ngành khoa học : XH</small>
<small>Năm 2022</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">NHUNG KHÍA CANH PHAP LY DOI VOI UNG DUNG CONG NGHỆ
BLOCKCHAIN TRONG BAO HO QUYEN TAC GIA MO DAU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong suốt thời kỳ phát triển của pháp luật về bảo hộ quyền tác giả, có thé thay
<small>nhiêu nhà nghiên cứu, cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp đã thê hiện quan tâm của mình</small>
<small>đơi với van dé này. Một sơ cơng trình nghiên cứu vé bảo hộ qun tác gia đã được cơng</small>
<small>bơ có thê kê đên như:</small>
Nguyễn Quỳnh Trang chủ nhiệm đề tài ; Ngô Trọng Quân thư ký đề tài ; Nguyễn Thị Anh Thơ, Bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử - Kinh nghiệm quốc tế và hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
Vũ Thị Phương Lan chủ nhiệm đề tài; Nguyễn Đức Việt thư ký đề tài; Nguyễn Thái Mai, Nguyễn Thu Thủy, Bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo Điễu ước quốc tế và pháp luật Việt Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cap
<small>Trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.</small>
Đỗ Giang Nam, Đào Trọng Khơi (2021), "Nhận diện khía cạnh pháp lí của
“hợp đồng thơng minh” dưới góc nhìn của pháp luật hợp đồng Việt Nam", Tap
<small>chí Luật học, (8), tr. 48-63.</small>
Tơ Minh Phương; ThS. Hà Thị Phuong Trà hướng dẫn, Pháp luật diéu chỉnh hop đông thông minh (smart contract) trên thé giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
<small>Hà Nội.</small>
Ngoài ra, những nghiên cứu về blockchain đã được cơng bó, xuất bản thành sách,
<small>bao đã được đăng tải, in ân bao gôm:</small>
<small>Jun Lin, Wen Long, Anting Zhang, Yueting Chai, Blockchain and loT-basedarchitecture design for intellectual property protection, International Journal ofCrowd Science, Tsinghua University Press;</small>
<small>Maximilian Kiemle, Blockchain and Copyright Issues, 4IP Council, ResearchAward Winner 2018;</small>
<small>Alexander Savelyev (2017), Copyright in the Blockchain Era: Promises andchallenges, National research university Higher school of economics;</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>- Michele Finck, Valentina Moscon (2018), Copyright Law on Blockchains:</small>
<small>Between New Forms of Rights Administration and Digital Rights Management</small>
<small>- Sebastian Pech (2020), Copyright unchained: How Blockchain technology canchange the administration and distribution of copyright protected works,Northwestern Journal of Technology and Intellectual Property;</small>
<small>- Marcus O'Dair, Distributed Creativity How Blockchain Technology will</small>
<small>Transform the Creative Economy;</small>
<small>- T.V. Shatkovskaya, A.B. Shumilina, G.G. Nebratenko, Ju.I. Isakova , E.Yu.</small>
<small>Sapozhnikova (2018), Impact of Technological Blockchain Paradigm on the</small>
<small>Movement of Intellectual Property in the Digital Space, European ResearchStudies Journal, Volume XXI, Special Issue 1;</small>
<small>- Patrice Poujol, Online Film Production in China Using Blockchain and SmartContracts The Development of Collaborative Platforms for Emerging CreativeTalents, International Series on Computer Entertainment and Media Technology</small>
Như vậy, những cơng trình nghiên cứu chủ yếu là về bao hộ quyền tác giả nhìn chung đã được nhiều tác giả trong nước thực hiện. Những cơng trình chủ yếu tập trung vào bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kinh doanh truyền thống, một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề pháp lý của bảo hộ quyền tác giả trong hoạt động thương mại điện tử là cơ sở lý luận đưa ra nhận thức đúng đắn, toàn diện về pháp luật bảo hộ quyền tác giả, đồng thời chỉ ra thực tiễn những quy định đó tại Việt Nam. Tuy nhiên, các tài liệu liên quan đến công nghệ Blockchain của các tác giả trong nước còn khá hiếm, chủ yếu là các bài viết, bài báo, cơng trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nước ngồi. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi đã và đang quan tâm hơn đến van dé bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ thơng qua Blockchain. Những nghiên cứu được cơng bồ tại nước ngồi đều là nguồn tài liệu học thuật cung cấp cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế cho Việt Nam trong hoàn thiện khung pháp lý đề thực thi quyền tác giả khi ứng dụng công nghệ
2. Ly do lựa chọn đề tài
Từ những năm 2000, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, coi trọng phát triển ứng
<small>dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan Nhà nước, xác định đây là động</small>
lực góp phan thúc đây cơng cuộc đổi mới tạo khả năng đi tắt, đón đầu dé thực hiện thang lợi cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh xu hướng cách mạng công nghiệp 4.0 tồn cầu, Đảng và Nhà nước ta ln chú trọng hồn thiện nền tảng cho phát triển Chính phủ điện tử, kinh tế số, xã hội số và nâng cao năng lực, hiệu quả của tơ chức bộ máy Chính phủ đồng thời bảo đảm an tồn, an ninh thơng tin, an ninh mạng. Nghị quyết số
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đưa ra mục tiêu đến năm 2045, biến "Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất và dich vụ thông minh, trung tâm khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo thuộc nhóm dân dau khu vực Châu A; có năng suất lao động cao, có đủ năng lực làm chủ và áp dụng công nghệ hiện đại trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh".
Tuy nhiên, song song với sự phát trién ngày càng mạnh mẽ và không ngừng của công nghệ thơng tin, thương mại điện tử là những góc khuất vẫn cịn tồn tại. Đặc biệt, trong mơi trường này, tài san trí tuệ, cụ thé là quyên tác gia là đối tượng có nguy cơ bị xâm hai cao với nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, phức tap gây ra nhiều khó khăn đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả phải đối đầu dé bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của minh và là thức thách cho các cơ quan có thâm quyên trong xử lí các hành vi vi
<small>phạm đó.</small>
Trên thế giới, rất nhiều tổ chức, điển hình như Văn phịng Sở hữu Trí tuệ Liên minh Châu Âu EUIPO đã ứng dụng cơng nghệ Blockchain vào bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Công nghệ này với ưu điểm như đảm bảo được tính nhất quán của số cái đến từ nhiều nguồn khác nhau mà không cần cơ quan trung gian nào tức công nghệ blockchain “sần như không thể xâm nhập được”, vì khi thay đổi bat kỳ thơng tin nào trong chuỗi thì sẽ phải thay đổi đồng thời (gần như) toàn bộ các bản sao của số cái. Ngồi ra, có những blockchain “riêng tư” nhằm sàng lọc những người được phép dé quản trị số cái. Với những ưu điểm này, cơng nghệ Blockchain nhanh chóng trở thành xu hướng thế giới trong những năm tiếp theo do có thé ứng dụng vào rất nhiều ngành nghề như tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục, chính phủ điện tử... và đặc biệt là thực thi quyền sở
<small>hữu trí tuệ.</small>
Trước đây, có khơng ít cơng nghệ được đưa ra để làm công việc hứa hẹn như Blockchain, tuy nhiên các cơng nghệ đó đều đề lộ q nhiều khuyết điểm sau khi đưa vào ứng dụng. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, nhất là quyền tác giả cần được nhận thức day đủ hơn về tầm quan trọng từ xác lập, thực hiện quyên tác giả đến bảo vệ quyên tác gid. Bảo hộ quyền tác giả có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm thực hiện quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Hiện này, vẫn thiếu vắng nhiều nghiên cứu nhằm tìm những giải pháp hoàn thiện pháp luật khi ứng dụng cơng nghệ Blockchain vào bảo hộ quyền tác giả thì việc tiến hành nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về những khía cạnh pháp lí khi ứng ứng dụng cơng nghệ này vào bảo
<small>hộ quyên tac giả là vô cùng cân thiết.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Thứ ba, làm rõ những vấn đề pháp lý về ứng dụng công nghệ Blockchain vào bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam
Thứ tư, đưa ra các giải pháp hồn thiện cơng nghệ Blockchain và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyên tác giả khi ứng dung công nghệ Blockchain
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung vào các vấn đề:
- Những van dé lý luận cơ bản về quyên tác giả, bảo hộ quyên tác giả tại Việt Nam; - Thue trạng xâm phạm quyên tác giả tại Việt Nam liên quan đến công nghệ; - _ Pháp luật về ứng dụng công nghệ Blockchain vào bảo hộ quyền tác giả tại Việt
- _ Những giải pháp hồn thiện cơng nghệ Blockchain và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam.
5. Cách tiếp cận
Đề tài "Những khía cạnh pháp lý đối với ứng dụng cơng nghệ blockchain trong bảo hộ quyên tác giả" được tiếp cận từ quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ về bảo hộ quyên tác giả đến thực tiễn về hành vi xâm phạm quyền tác giả, xử lý vi phạm quyền tác giả, sau đó soi chiếu pháp luật về quyền tác giả khi ứng dụng công nghệ Blockchain vào bảo hộ quyên tác giả và bài học kinh nghiệm từ quốc tế. Theo đó, dé tài đưa ra các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như công nghệ dé bảo hộ quyền tác giả
<small>tại Việt Nam.</small>
<small>6. Phương pháp nghiên cứu</small>
Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp diễn giải, tìm ra các biéu hiện trong bảo hộ quyền tác giả từ những bản chất, nguyên lý, lý thuyết đã được chứng minh trước đó và sử dụng những giả thuyết dé rút ra những kết luận. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cũng được sử dụng bao gồm phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, phương pháp phi thực nghiệm điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp thống kê được áp dụng dé làm sáng tỏ hơn những nội dung pháp lý về ứng dụng Blockchain vào bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">I. NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1: Tổng quan về bảo hộ quyền tác giả và công nghệ Blockchain trong bảo hộ quyền tác giả
1.1. Khái quát về bảo hộ quyền tác giả 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền tác giả
Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ xuất hiện và được ghi nhận rất sớm, các nghiên cứu trên thế giới về lịch sử luật sở hữu trí tuệ đều dẫn chiếu đến Hy Lạp và La Mã và sau đó là các quốc gia châu Âu khác. Việc công nhận, bảo vệ các quyền và tài sản trí tuệ đã được thế giới quan tâm như vậy nhằm mục đích khuyến khích, thúc day sáng tạo bởi trong khi tài sản thiên nhiên có thể bị cạn kiệt thì các sản phẩm trí tuệ từ sức sáng tạo của con người là vô hạn. Tại Việt Nam, trước thời kỳ đổi mới, trong những năm 80 của thé kỷ XX, chỉ một vài đối trong SHTT bat đầu được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, bắt đầu bằng Điều lệ Sáng kiến - Sáng chế ban hành kèm theo Nghị định 31-CP của Chính phủ ngày 23/1/1981. Trước đó, quyền tác giả lần đầu tiên được nhắc đến và điều chỉnh trong Thông tư của Bộ Văn Hoá số 04-VH/TT ngày 7 tháng 1 năm 1987. Sau quá trình thay đổi, tiếp thu các van đề lý luận cũng như thực tế thực hiện quyền tác giả thì đến nay, pháp luật Việt Nam đã hình thành một hệ thống các văn bản điều chỉnh quyền tác giả trong đó bao gồm các điều ước quốc tế về quyền tác giả, Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 (sửa đổi, bố sung năm 2009,
<small>2019) và các văn bản dưới luật.</small>
Khái niệm quyền tác giả hiện nay thường được tiếp cận theo hai khía cạnh. Một số nước như Anh, Mỹ sử dụng thuật ngữ “bản quyền” (copyright) dé nhắn mạnh, hướng
tới bảo vệ quyền thương mại, đặc biệt là quyền sao chép, nhân bản tác phẩm của những
chủ thể khai thác thương mại tài sản trí tuệ như người sử dụng lao động, công ty khai
thác tác phẩm. Ngược lại, tại một số nước khác như Pháp trong đó có Việt Nam theo
trường phái pháp luật lại sử dụng thuật ngữ quyền tác giả (author’s right) gắn với bao vệ các quyên của người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm.
Khái niệm quyền tác giả có thé được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Tổng quan, quyên tác giả là tong hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhăm điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ việc tạo ra và sở hữu tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Các quy định mà nhà nước ban hành tập trung chủ yếu vào các quyền nhân thân và quyền tài sản mà tác giả, chủ sở hữu được hưởng - đây là những quyền mà các chủ thể khác trong xã hội cần phải tôn trọng, khơng được phép xâm phạm. Quyền tác giả cịn là mối quan hệ giữa tác gia, chủ sở hữu với các chủ thé khác trong xã hội, họ có quyền yêu cầu chủ thê khác thực hiện hành vi theo đúng quy định của pháp luật dé đảm bảo quyên lợi của mình. Pháp luật Việt Nam tại khoản 2 điều 4 Luật SHTT 2005 quy
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">định: “Quyển tác giả là quyên của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tao ra hoặc sở hữu”. Tóm lại, quyền tác giả là quan hệ pháp luật có chủ thé là t6 chức, cá nhân sáng tạo hoặc sở hữu, khách thể là các tác pham van hoc, nghé thuat, khoa hoc va nội dung là các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm.
Thuật ngữ “bảo hộ” được nhắc đến rất nhiều lần trong luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam nhưng lại khơng có định nghĩa thế nào là bảo hộ quyền tác giả hay bảo hộ quyền
<small>sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, trong Hiệp định TRIPs mà Việt Nam là thành viên có giải</small>
thích bảo hộ qun sở hữu trí tuệ là “bao gơm các vấn dé ảnh hưởng đến khả năng dat được, việc dat được, phạm vi, việc duy trì hiệu lực và việc thực thi các quyên SHTT, cũng như các vấn dé anh hưởng đến việc sử dung các quyên SHTT”!. Như vay, bảo hộ quyền tác gia là tong hợp chế định pháp lý nhằm xác lập, ghi nhận, thực hiện, khai thác va bảo vệ quyên tác giả bằng pháp luật; quyền và lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm đối với toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
Về nguyên tắc, quyền tác giả cũng được bảo hộ theo nguyên tắc chung của luật dân sự. Mặt khác, quyền tác giả là quyền đối với các tài sản vơ hình nên Pháp luật về quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức chứa đựng của tác phẩm khi nó được tao ra và thé hiện dưới hình thức nhất định mà khơng bảo hộ nội dung sáng tạo tác phâm chứ không bảo hộ dưới dạng ý tưởng. Do đó, nhiều tác phẩm có cùng nội dung nhưng có sự sáng tạo khác nhau trong hình thức thể hiện đều được bảo hộ. Tuy nhiên, những nội dung thể hiện trong tác phẩm sẽ không được bảo hộ nếu đi ngược lại lợi ích dân tộc, bơi nhọ vĩ nhân, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác, có nội dung trái pháp luật, đạo
<small>đức, xã hội...</small>
Cơ chế bảo hộ của quyền tác giả là cơ chế bảo hộ tự động, phat sinh ké từ khi tác pham được sáng tạo và được thê hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Tại thời điểm đó, tác giả được bảo hộ về mặt pháp lí, có các quyền của người sáng tao mà khơng cần thơng qua bất kì thủ tục đăng kí nào bởi đây là một loại quyền “tuyên nhận”.
Quyền tác giả được bảo hộ theo phạm vi lãnh thổ, tức phát sinh theo pháp luật nước nào thì chỉ có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ nước đó?. Ra khỏi phạm vi lãnh thổ nước thì quyền tác giả khơng cịn được ghi nhận về mặt pháp lý, trừ trường hợp có quy định tại điều ước quốc tế.
Quyền tác giả không được bảo hộ tuyệt đối bởi giới hạn về thời gian và những trường hợp ngoại lệ, hạn chế. Theo đó, tác phẩm chỉ được bảo hộ trong một khoảng thời gian gian nhất đinh, bắt đầu khi tác pham hình thành và chấm dứt sau một khoảng thời
<small>1 Chú thích 3 hiệp định TRIPs2 Vũ Thị Phương Lan.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">gian ké từ khi tác giả qua đời (trừ quyền nhân thân được bảo hộ vĩnh viễn). Ngoài ra, trong một số trường hợp, người sử dụng có thé khơng cần xin phép, không cần trả thù lao cho tác giả hoặc phải trả thù lao nhưng không cần xin phép để sử dụng tác phẩm. 1.1.2. Bảo hộ quyền tác giả
1.1.2.1. Bảo hộ trong xác lập và công nhận quyên tác giả
Theo khoản 1 Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP thì “ác gid là người trực tiếp sang tạo ra mot phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học”. Có thê hiểu, tác gia là người bằng lao động trí tuệ của mình trực tiếp sáng tạo ra tác phâm bang việc sử dụng ký tự âm nhạc, âm thanh, ca từ được sắp xếp dưới một hình thức vật chất nhất định mà người khác có thể cảm nhận một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua sự trợ giúp của các thiết bị, phương tiện, mang đậm nét dấu ấn cá nhân của người sáng tạo, mang tính chất độc đáo, riêng có, ngun thủy, độc lập, mới có của sang tao, khơng
<small>sao chép từ những sáng tạo hiện có.</small>
Tại khoản 1 và 2 Điều 13 Luật Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đôi, bố sung năm
<small>2009, 2019, tác giả được bảo hộ theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam được xác định dựa</small>
trên các tiêu chí: (1) Quốc tịch: Tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài; (1) Nơi thực hiện hành vi: Tổ chức, cá nhân nước ngoài được bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam nếu có tác phẩm được cơng bồ lần đầu tiên tại Việt Nam mà chưa được công bồ ở bất ky nước nào hoặc được công bố đông thời tại Việt Nam trong thời hạn ba mươi ngày, ké từ ngày tác phẩm đó được cơng bố lần đầu tiên ở nước khác; (iii) Điều ước quốc tế: Tổ chức, cá nhân nước ngồi có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên.
Tác giả cịn có thể phân loại thành tác giả đơn nhất và đồng tác giả. Tác giả đơn nhất là “NGưỜi trực tiếp sang tạo ra mot phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học”. Khái niệm đồng tác giả được quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP “là những tác giả cùng trực tiếp sáng tạo ra một phân hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học.” Như vậy, Tác giả đích thị là người trực tiếp sáng tạo ra tác phâm nhưng chủ sở hữu quyền tác giả chưa chắc đã là người trực tiếp sáng tao ra tác phâm. Chủ sở hữu có thé là tổ chức giao nhiệm vụ cho tác giả, người thừa kế của tác giả.
Về tác phẩm, khoản 7 Điều 4 Luật SHTT quy định: “7ác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bat ky phuong tién hay hình thức nào.”. Tac phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được nhà nước bảo hộ là các loại tác phâm được quy định cụ thể tại điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ và Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đơi bổ sung năm 2009
<small>về quyên tác gia, quyên liên quan.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Quyền tác giả là một trong các quyền sở hữu trí tuệ được pháp luật bảo vệ. Theo khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 và 2019 định nghĩa: “J. Quyển sở hữu trí tuệ là quyên của tơ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gom quyên tác giả và quyên liên quan đến quyên tác giả, quyên sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trông. ”
Quyên tác giả là quyên của tổ chức, cá nhân đổi với tác phẩm do minh sáng tạo ra hoặc sở hữu theo khoản 2 Diéu 4 Luật này. Đây là một trong các quyên sở hữu trí tuệ được dé cập đến dau tiên trong tồn bộ văn ban.”
Từ những phân tích trên có thể hiểu đơn giản xác lập quyền tác giả là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyên thừa nhận một cá nhân, tổ chức là tác giả của một tác phẩm do mình tự sáng tạo ra hoặc do mình sở hữu thơng qua các giao dịch hợp
Dé đảm bảo hướng dẫn thống nhất về sự phát sinh quyên của chủ thê đáp ứng điều kiện đối với tài sản trí tuệ nên pháp luật sở hữu đã có han điều luật riêng nêu căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thé tại khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi bồ sung năm 2009 và 2019 quy định:
“Diéu 6. Căn cứ phat sinh, xác lập quyên sở hữu trí tuệ
Quyên tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện d-ưới một hình thức vật chất nhất định, khơng phán biệt nội dung, chất l-uong, hình thức, phương tiện, ngơn ngữ, đã công bồ hay ch-wa công bố, đã đăng ký hay ch-wa đăng ky.” Nhu vậy, quyên tác giả được tự động xác lập từ khi tác phẩm được sáng tao ra và được thé hiện dưới hình thức vật chất nhất định như dạng tác phẩm hội họa, kiến trúc, đường nét điêu khắc,....Đồng thời, ngay khi quyền tác giả được xác lập, tac giả sẽ được hưởng các quyền nhân thân và quyên tải sản theo quy định tại Điều 19 và Điều 20 Luật
Dựa trên quy định của pháp luật dân sự, có thé cho rang quyền nhân thân bao gồm quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyên nhân thân gan với tài san>. Các quyền nhân thân không gan với tài sản là những quyền gan liền với nhân thân của tác giả và không thé chuyên giao, bao gồm ba quyên: quyền được đặt tên tác phẩm, đứng tên tác phẩm và bảo vệ sự toàn vẹn của nội dung tác phẩm. Nếu chúng ta vi tác phẩm là đứa con tinh than của tác giả, thì các quyền nhân thân này cũng tương tự quyền của cha mẹ được đặt tên cho con, nhận con và bảo vệ chăm sóc con cái”. Vì những quyền nhân thân
<small>nói trên gan với nhân thân của tác gia nên nó chỉ dành cho tác giả (cho dù đông thời hay3 Khoản 1 Điều 17 Bộ luật dân sự 2015</small>
<small>4 Phạm Hồng Hải, Bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật sé theo pháp luật Việt Nam, Luậnvăn thạc sĩ - Hà Nội, 2003, tr.8</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả) và ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, danh dự của tác giả. Nói cách khác, các quyền này tồn tại một cách độc lập đối với quyên tai sản, gan liền với tác giả ké cả khi quyền sử dụng, định đoạt tác pham đã được chuyền giao. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được bảo hộ vô thời hạn, khác với những quyền khác được bảo hộ có thời han.
Quyên đặt tên cho tác phẩm: Tên gọi của tác pham thê hiện khái quát về chủ đề
phẩm khác. Do đó quyền đặt tên cho tác phẩm là một trong những quyền quan trọng của tác giả dé khai sinh cho đứa con tinh than của mình. Tác giả tuỳ ý lựa chọn tên gọi cho tác phẩm mà tác giả đã sáng tạo: “Tên” theo nghĩa đen, nghĩa bóng và có thể là “vơ đề”, tuỳ thuộc vào ý chí của tác giả.
Quyên đựng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được cơng bó, sử dung: Day là một trong những quyên nhân thân rat quan trọng của tác giả nhằm khăng định kết quả lao động sáng tạo của tác giả đối với tác phẩm của mình, ghi nhận và bảo vệ giá trị nhân thân cho tác giả. Quyền này được bảo hộ vô thời hạn và tương tự như quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên trên tác pham cua tác giả không được chuyên giao hay dé lại thừa kế cho người khác.
Quyên bảo vệ sự tồn vẹn của tác phẩm, khơng cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tin của tác giả. Quyền này cho phép tác giả tác phâm bảo vệ sự tồn ven tác pham của mình. Tác giả có quyền ngăn cắm sự xâm phạm hoặc cho phép người khác khai thác, sửa chữa tác phẩm của mình bằng cách ngăn chặn người khác xuyên tạc, xâm phạm tác phâm gây ảnh hưởng tới uy tín, danh dự của mình. Do đó, tác giả hồn tồn có đặc qun trong việc kiểm sốt nội dung cũng như hình thức của tác phẩm mình cơng bố. Tương tự, Điều 6Bis Cơng ước Berne về bảo hộ tác phâm văn học, nghệ thuật cũng quy định quyên nhân thân cho phép tác giả được yêu cầu thừa nhận mình là tác giả của tác phẩm, phản đối bat kỳ sự xuyên tac, cắt xén hay sửa đổi nào làm phương hai đến danh tiếng của tác giả.
Bên cạnh quyền nhân thân không gắn với tài sản, tác giả cịn có quyền nhân thân sắn với tài sản. Nhiều ý kiến cho rằng, trước kia khi chưa có quyền tác giả, những người sang tao ra các tác phẩm vẫn có quyền đặt tên, đứng tên, bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm của mình, sử dụng tác phẩm hay nhận thù lao, giải thưởng. Do đó việc ghi nhận
<small>° Lê Nết, Quyên sở hữu trí tuệ - Tập bài giảng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chi Minh,2005</small>
<small>Ê Nguyễn Phương Thảo, Hành vi xâm phạm quyền tác giả theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, Tạpchí Luật học sơ 7/2018 (72-86)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">quyền tác giả, ở góc độ quyền nhân thân, khơng mang lại cho các chủ thé nhiều quyền hơn so với trước đây. Tuy nhiên, quyền nhân thân của tác giả/chủ sở hữu quyền tác giả, đó là quyền cho hay khơng cho người khác sử dụng tác phẩm, vì thế nó chỉ dành cho chủ sở hữu quyền tác giả và tác giả nếu như tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. Chính điều này này làm phát sinh bản chất độc quyền của quyền tác gia.’
Quyên công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm: Tác phẩm khi được sáng tạo sẽ cần được đưa tới đông đảo công chúng để tiếp xúc, tìm hiểu và qua đó mà cơng chúng biết tới tác giả va tác phâm. Công bố tác phâm được hiéu là việc phát hành ban sao tác phâm đến công chúng với số lượng đủ dé đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng tùy theo ban chất của tác phẩm với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả. Là một loại quyền nhân thân tương đối của tác giả, khác với ba quyền trên, đây là loại quyền có thê được chuyên giao trong trường hợp chủ sở hữu không đủ điều kiện công bố và thời gian bảo hộ cho loại quyền nay là hữu hạn. Các cá nhân, tô chức khác không được chủ sở hữu tác phẩm cho phép mà thực hiện hành vi công bố tác pham sé bị coi là hành vi xâm phạm quyên tác giả.
1.1.2.2. Bảo hộ trong việc sử dụng và khai thác quyên tác giả
Như trên đã phân tích, bảo hộ quyền tác giả được xác lập tự động việc từ thời điểm hình thành tác pham và việc cơng nhận quyền tác giả cho tác giả tác phâm là thuận theo thuyết qun tự nhiên, dù có hay khơng sự cơng nhận của xã hội thì tác giả vẫn là người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm chứ không phải bat kỳ ai khác. Mặt khác, các quyên khai thác giá trị kinh tế của tác phẩm lại rất cần được xã hội cơng nhận trước khi nó thực sự tạo ra lợi nhuận cho tác giả và cả chủ sở hữu quyền tác giả. Bởi vậy, việc bảo hộ quyền sử dụng, khai thác quyền tác giả là khía cạnh quan trọng và cần được quan tâm.
Trước hết, cần xem xét quyên tác giả dưới góc độ là một quyên tai sản. Quyên tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyên tài sản đối với đối tượng quyên sở hữu trí tuệ. Quyền này được pháp luật trao cho cá nhân, tô chức dé thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mìnhŠ. Như vậy, quyền tác giả là một loại tài sản đặc biệt mà qua đó tác giả có thê sử dụng, khai thác chúng nhằm mục đích sinh lời.
Tác giả, chủ sở hữu có tồn quyền sử dụng quyền tài sản như một dạng tài sản, có thé bán, chuyền nhượng, tặng cho, thừa kế quyên tác giả (trừ quyền nhân thân khơng thé chuyển giao). Ngồi ra, tác giả cịn có thé thực hiện khai thác thương mại đối đối với các tài sản trí tuệ thơng qua việc tự khai thác; chuyên giao quyền SHTT cho chủ thê
<small>7 Đỗ Thị Hồng Hạnh, Bảo hộ quyên tác giả đối với các tác phẩm nghệ thuật của Việt nam trong môitrường kỹ thuật sô, Luận văn thạc sĩ luật học, 2018, tr.11</small>
<small>8 Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự (tập 1), Nxb. Công an nhân dân, H.2020.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">khác; dùng quyền SHTT dé góp vốn thành lập các liên doanh, liên kết; thế chấp quyền SHTT với ngân hàng, quỹ đầu tư để vay vốn..., cụ thể như sau:
Thứ nhất, tự khai thác: Đây là hình thức chủ sở hữu quyền tác giả trực tiếp sử dụng tài sản trí tuệ trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Bởi có độc quyền trong sử dụng các tài sản trí tuệ và ngăn cắm người khác sử dụng chúng nên ngoài chủ sở hữu ra thì khơng một cá nhân nào khác được thực hiện các quyền trên. Việc tự khai thác được thực hiện thông qua quyền làm tác phâm phái sinh; biéu diễn tác phẩm trước công chung; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khâu bản gốc hoặc bản sao tác pham; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính”.
Thứ hai, chuyển giao qun tác giả: Pháp luật hiện nay quy định có hai hình thức chuyên giao mà tác giả, chủ sở hữu có thé thực hiện bao gồm chuyền nhượng quyền tác giả và chuyên quyền sử dụng quyền tác giả!0. Về chuyên nhượng quyền tác giả, đây là việc chủ sở hữu QTG “bán” toàn bộ hoặc một số quyền cụ thê trong các quyền tài sản cho người khác. Trong trường hợp chủ sở hữu chỉ bán một hoặc một số quyền thì người mua sẽ là chủ sở hữu đối với phần quyền được chuyền giao. Còn chuyền nhượng quyền tác giả là việc chủ sở hữu quyên tác giả cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng có thời
hạn một, một số hoặc tồn bộ các quyền tài sản liên quan đến tác phẩm. Nếu như sau
khi chuyên giao quyền tác giả, chủ sở hữu cham dứt hoàn toàn quyên sở hữu đối với quyên tài sản đã chuyền giao thì với chuyển nhượng, chủ sở hữu được bảo lưu quyền và việc sử dụng quyền thế nào phụ thuộc vào mục đích, hình thức, phạm vi, thời
<small>hạn...mà các bên thỏa thuận.</small>
Thứ ba, thé chấp, góp vốn quyên tác giả: Bởi quyền tac giả là một loại tài san được bộ luật dân sự công nhận nên chủ sở hữu quyền tác giả có thê thực hiện hoạt động góp vốn, thế chấp quyền theo quy định của pháp luật dân sự, thương mại và doanh nghiệp. Sự điều chỉnh của pháp luật liên quan tới hai hoạt động trên là rất rộng nên trong phạm vi bài nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ khơng phân tích về tính pháp lý của việc thé chấp, góp vốn quyền tác giả.
Tóm lại, có thé thay độc quyền sử dụng và định đoạt quyền tác giả trong thời hạn bảo hộ là quyền năng quan trọng của tác giả, chủ sở hữu. Chủ sở hữu bằng các quyền mà pháp luật trao cho có thé tiến hành các hành vi dé trực tiếp sử dụng tài san trí tuệ của mình hoặc chuyền giao quyền SHTT cho chủ thé khác với mục đích tìm kiếm lợi
<small>° Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sửa đổi, bd sung năm 2009, 201919 Điều 45, 47 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, sửa đổi, b6 sung năm 2009, 2019.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">nhuận. Ngày nay, việc sử dụng, khai thác quyên tác giả cũng như các tài sản trí tuệ đang
<small>ngày càng được quan tâm và mở rộng.</small>
1.1.2.3. Bảo vệ quyên tác giả
Theo Bộ Khoa học và Cơng nghệ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được hiểu là nhà nước và chủ thê quyền sở hữu trí tuệ sử dung các phương thức pháp lý dé bảo vệ quyền sở hữu các đối tượng sở hữu trí tuệ của mình, chống lại mọi sự xâm phạm đề giữ nguyên vẹn quyền sở hữu các đối tượng này. Quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ bằng các biện pháp hành chính, dân sự và hình sự!!. Như vậy, bảo vệ quyền tác giả có thé được hiểu là nhà nước và chủ sở hữu quyền tác giả sử dụng các phương thức pháp lý để bảo vệ quyền tác giả của mình, chống lại mọi sự xâm phạm dé giữ nguyên vẹn quyền tác giả thông qua các biện pháp hành chính, dân sự và hình sự theo quy định tại các điều 199, điều 202, điều 211, điều 212, điều 214 Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi, b6 sung năm
<small>2009, 2019).</small>
Khơng chỉ có quyền u cầu cơ quan nhà nước xử lý các hành vi vi phạm, chủ sở hữu quyền tác giả cịn có thé sử dung các biện pháp khác quy định tại điều 198 Luật SHTT năm 2005 (sửa đồi, b6 sung 2009, 2019), điều 43 của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP dé tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình. Theo quy định tại các văn bản trên, chủ sở hữu quyên tác giả có quyền tự bảo vệ trước hành vi xâm phạm. Ap dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyên tác giả là việc các chủ thê quyền đưa các thông tin quản lý quyền gắn với bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, hoặc đưa thơng tin quản lý quyền xuất hiện cùng với việc truyền đạt tác phẩm tới công chúng nhằm xác định tác phẩm, tác giả của tác phẩm, chủ sở hữu quyền, thông tin về thời hạn, điều kiện sử dụng tác phẩm và mọi số liệu hoặc mã, ký hiệu thê hiện thơng tin đó dé bảo vệ quyền tác giả. Đồng thời các chủ thé quyền có thể áp dụng các biện pháp cơng nghệ để bảo vệ các thông tin quản lý quyền, ngăn chặn các hành vi tiếp cận tác phẩm, khai thác bat hợp pháp quyên sở hữu của minh theo
<small>quy định của pháp luật.</small>
Ngồi ra, ở Việt Nam cịn hình thành các tổ chức đại diện quyên tác giả như: Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam — VCPMC, Trung tâm Quyền tác
<small>giả văn học Việt Nam — VLCC, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam —- RIAV, Hiệp</small>
hội Quyền sao chép Việt Nam - VIETRRO. Việc thành lập các tổ chức nay có ý nghĩa rất quan trọng đối với chính bản thân tác giả, chủ sở hữu tác phẩm cũng như hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của xã hội. Nó giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
<small>các tác giả, chủ sở hữu tác phâm liên quan đên quyên được hưởng thù lao, tiên bản</small>
<small>11 class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">
quyên tác phẩm cũng như hỗ trợ giải quyết các tranh chấp xung quanh van dé bản quyền mà nếu chỉ một mình tác giả tự đứng ra giải quyết sẽ gặp nhiều khó khăn. Mục đích của việc thành lập các tổ chức như trên là dé bảo vệ quyên tác giả, quyền liên quan!?; duy trì quyền và lợi ích của các thành viên của tổ chức, giúp đảm bảo bền vững những giá
<small>trị sáng tạo thuộc sở hữu trí tuệ con người.</small>
1.2. Khái qt về cơng nghệ blockchain
<small>1.2.1. Khái niệm</small>
Theo Tập đồn cơng nghệ đa quốc gia IBM, Blockchain /è một số cdi được chia sẻ, bất biến, tạo diéu kiện thuận lợi cho quá trình ghi lại các giao dich và theo đi tai sản trong một mạng lưới kinh doanh. Tài sản có thể là hữu hình (nhà, xe hơi, tiền mặt, dat dai) hoặc vơ hình (sở hữu trí tuệ, bang sáng chế, tác phẩm, nhãn hiệu)!3. Hau hết các giao dịch liên quan đến tài sản đều có thé được theo dõi và lưu lại trên blockchain. Với cách thức hoạt động như vậy, blockchain giúp giảm thiểu rủi ro và cắt giảm chi phí cho tất cả những người tham gia giao dịch.
Nhiều nghiên cứu đều thống nhất quan điểm định nghĩa blockchain là "số cái lưu trữ". Thực chất đây là một loại công nghệ lưu trữ thông tin trên một hệ thống và thực hiện các giao dịch thông qua hệ thống thơng tin đó. Với tính chất là số cái lưu trữ, blockchain có những đặc điểm sau:
1.2.2 Đặc điểm của cơng nghệ blockchain
<small>Một là, tính phi tập trung</small>
Blockchain có nền tảng là các nút (nodes)!*. Một nút là bat kỳ thiết bị điện tử hoạt động nào, bao gồm máy tính, điện thoại hoặc thậm chí máy in, miễn là nó được kết nối với internet và mỗi thiết bị có địa chỉ IP riêng biệt. Mỗi nút hỗ trợ mạng lưới bằng cách duy trì một bản sao của một blockchain và trong một số trường hợp, để xử lý các giao dịch. Các nút này cũng thê hiện rõ nét nhất tính phi tập trung của blockchain. Các
nút giúp việc lưu trữ, giao dịch của người dùng trên blockchain diễn ra một cách độc
lập, không địi hỏi cần có bên trung gian. Điều đó giúp cho các thông tin đã được lưu trữ cần thông qua bởi phan lớn các nút khác trong khối blockchain.
<small>Ngoài ra, blockchain ưu việt hơn so với các công nghệ khác ở sự tích hợp linh</small>
hoạt giữa tính khơng thê bị làm giả và phá hủy dựa vào mơ hình số cái phi tập trung
<small>12 Khoản 1 điều 56 Luật SHTT 2005 (sửa đổi, b6 sung 2009, 2019): “7. Tổ chức đại diện tập thé quyêntác giả, quyên liên quan là tỗ chức phi lợi nhuận do các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữuquyền liên quan thỏa thuận thành lập, hoạt động theo quy định của pháp luật dé bảo vệ quyên tác giả,quyên liên quan.”</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><small>(non - centralized ledger) được lưu tại một nút chủ trong mạng lưới phi tập trung (non</small>
- centralized network) và các nút khác phải phụ thuộc vào nốt chủ!5. Dé củng cố thêm cho mạng lưới tập trung, công nghệ này cho phép truyền tải dữ liệu một cách an toàn đồng thời giám sát chặt chẽ và ghi nhận các hoạt động, giao dịch thông qua cơ chế
<small>ngang hàng giữa người dùng công nghệ này với nhau (peer-to-peer) hay cịn gọi là mơ</small>
hình mạng phân tán (distributed network). Khi muốn lưu trữ, thay đồi thông tin hoặc giao dịch trong mạng blockchain cần phải có sự xác minh và đồng thuận của đa số người tham gia mạng lưới đó (tức sự đồng thuận từ các nút). Đây còn được gọi là cơ chế đồng
<small>thuận phi tập trung (decentralized consensus).</small>
Cơ chế nay cho phép các nốt hay bat kì người dung mạng blockchain có thé tiếp cận thơng tin dé dang, bat kì ai cũng có thé theo dõi được đường đi của các giao dịch và thống kê toàn bộ lịch sử giao dịch trên địa chỉ đó thơng qua tính minh bạch của công nghệ này. Trường hợp một nốt trong hệ thống bi mắt dit liệu hoặc lỗi dữ liệu thì thơng tin, giao dịch vẫn được lưu tại các nốt khác, những bản sao của thông tin, giao dịch vẫn được lưu trữ tai các nốt khác trong hệ thống mạng blockchain mà không bị ảnh hưởng bởi một nốt bị lỗi.
Mọi thơng tin trên blockchain là hồn tồn minh bạch và không thể bị phá vỡ. Nhờ hệ thống dit liệu phân tán và cơ chế đồng thuận giúp tăng tính bảo mật dit liệu, các thơng tin, dữ liệu về các chuỗi blockchain được phân tán và an toàn tuyệt đối.
Tuy vậy, rào cản của công nghệ này là vấn đề pháp lý và bảo mật quyền riêng tư. Hiện nay, các nước trên thế giới cũng như Việt Nam chưa tôn tại một văn bản pháp lý nào điều chỉnh về các hành vi diễn ra trên blockchain. Đồng thời, đối với việc chủ sở hữu quyền tác giả phải công khai thông tin cá nhân và thông tin tác phẩm sẽ là điểm bat lợi nêu những người dùng trong hệ thơng có ý định xấu, gây ton hại thông tin của họ.
Hai là, nên tảng của blockchain là các thuật toan
Một chuỗi blockchain cần được xây dựng bởi một số thuật tốn: bằng chứng cơng việc (Proof of Work (PoW)), bằng chứng cô phan (Proof of Stake(PoS)).
Thr nhất, thuật tốn bang chứng cơng việc (Proof of Work)!. Khi thực hiện giao
đó. Các nút cần phải sử dụng hệ thống máy tính, thiết bị điện tử mạnh, khỏe dé có thé hồn thành cơng việc tính tốn, giải mã thơng tin giao dịch được mã hóa vào chuỗi khối một cách hợp lệ. Nhiệm vụ của các nút là sử dụng sức mạnh của hệ thống thiết bị điện
<small>15 OECD, Blockchain Primer, the Secretary - General of the OECD 2018</small>
<small>16 § Lee, “Bitcoin’s Energy Consumption Can Power An Entire Country — But EOS Is Trying To Fix That”, class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">
tử có kết nối mạng, sau khi tìm được sẽ thơng báo cho các người dùng cịn lại trong blockchain đó. Khi phần lớn thành viên xác nhận thì một khối mới sẽ được tạo ra, giao
<small>dich hoan thanh.</small>
Thứ hai, về thuật toán bằng chứng cổ phan hay bằng chứng ký gửi (Proof Of Stake)!” yêu cầu những người tham gia phải đóng góp một lượng tai sản số hóa dé xác nhận đồng thuận cho khối. Dựa trên giá trị cơ phần tài sản số hóa mà họ đóng góp, họ có thê tạo ra một khối và có trách nhiệm xác nhận tính hợp lệ của các khối mới tiếp nối khối trước đó. Khi xác nhận (unlock), những quyên lợi của khối sẽ xuất hiện và được
chia cho những người đã đóng góp. Mỗi người tham gia sẽ nhận theo mức họ đã đóng
<small>góp trước đó.</small>
Thành cơng của công nghệ này trên nhiều lĩnh vực như tài chính, y tế, giáo dục, du lịch, bảo hiểm, logistic, vận tải, ID điện tử, hồ sơ điện tử, chính phủ điện tử... đã chứng minh tính hiệu quả, tồn diện và tiềm năng tiến xa hơn trong tương lai của
<small>1.2.3. Phan loại</small>
Blockchain đang dần chứng minh công nghệ này một công cụ đắc lực trong thời đại công nghệ số. Dựa trên những đặc tinh của công nghệ blockchain, có thé phân thành các loại blockchain khác nhau và việc lựa chọn đầu tư vào công nghệ này sao cho phù hợp với đặc điểm cũng như mục đích của cơng việc là rất cần thiết.
<small>Nhóm 1, Public Blockchain</small>
Dang Blockchain đầu tiên phải kế đến là Public Blockchain. Đây là dạng blockchain mà ở đó tất các mọi người tham gia đều có quyền như nhau (permissionless blockchain), tat cả mọi người tham gia có thé đọc, ghi. Day là hệ thống phi tập trung (distributed system), không một ai có thể chiếm quyền điều khiến hệ thống, tính bảo mật rat cao khơng ai có thê thay đổi dữ liệu một khi dữ liệu đã được chứng thực hợp lệ, trừ khi xảy ra trường hợp tan công 51%. Hiện nay có rất nhiều public blockchain, nồi bật nhất vẫn là Bitcoin (BTC) và Ethereum (ETH).
<small>Như phân tích trên, Public Blockchain cho phép người dùng đọc và ghi khơng</small>
giới hạn và được bảo mật băng thuật tốn đồng thuận, các thuật tốn đó là băng chứng cơng việc, bằng chứng cô phần . Điều này giúp giảm thiểu gian lận trong giao dịch, giúp các giao dịch có độ tin cậy và minh bạch cao. Hệ thống của công nghệ Blockchain này
<small>cũng cho phép người dùng tham gia và xây dựng ứng dụng với chi phí khởi tạo rẻ hơn.</small>
Tuy nhiên, song song cùng các ưu điểm đó, Public Blockchain cũng có những
<small>nhược diém nhât định. Đâu tiên, về chi phí giao dich của loại hình này sé dat hơn so với</small>
<small>T7 Nguyễn Trung Kiên, “Cơ chế hoạt động của công nghệ chuỗi khối Blockchain”, Cục Tin học hóa, Bộ</small>
<small>TT&TT, class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">
hình thức Blockchain cịn lại và chỉ thực hiện được các giao dịch cơ bản, đồng thời tốc
<small>độ giao dịch cũng chậm hơn. Ngoài ra, mặc dù dữ liệu cá nhân hoặc thông tin nhận dạngcá nhân đã được mã hóa nhưng những dữ liệu cơng khai này sẽ có cơ hội bị giải mã</small>
trong tương lai. Do đó hiện tại một số public blockchain không yêu cầu dữ liệu cá nhân được lưu trữ trên hệ thống blockchain cơng cộng.
<small>Nhóm 2, Private Blockchain</small>
Private Blockchain là một hình thức thê hiện khác của blockchain. Sự khác biệt chính giữa Public blockchain và Private blockchain là Private blockchain kiểm soát những ai được quyền tham gia vào hệ thống của mình. 'Š. Private blockchain có tính tap trung hơn vì chỉ có một nhóm nhỏ những người tham gia vận hành hệ thống với vai trị là nút chính. Ngồi ra, Private blockchain có cơ chế đồng thuận (consensus) khác so với public blockchain. Đây cũng là loại hình phù hợp cho một nhóm các công ty hay tổ
<small>chức hoạt động trên hệ sinh thái Blockchain.</small>
Do hình thức cơng nghệ Private Blockchain phân quyền truy cập nên việc đọc và ghi sẽ bi giới hạn hơn. Bên cạnh đó, việc được bảo mat bằng thuật tốn pre-approved và u cầu phải xác định danh tính trong giao dịch, sẽ làm cho tính bảo mật trở nên yếu hơn, có khả năng bị tan cơng cao hơn so với Public Blockchain. Thêm nữa do phải tự xây dựng mạng lưới nên chi phí khởi tao Private Blockchain sẽ đắt hơn. Đổi lại, chi phi giao dịch rẻ hơn và tốc độ giao dịch nhanh hơn. !
<small>Nhóm 3, Hybrid Blockchain</small>
Kiểu blockchain thứ ba là loại hình có sự kết hợp cua Private Blockchain va Public Blockchain. Với hệ thống này, người dùng có thé kiểm sốt người nào có quyền truy cập vào dữ liệu nào trong Blockchain, vừa công khai một số dit liệu, vừa giữ những thông tin khác được bảo mật trong hệ thống tư. Một giao dịch trong mạng lưới tư của hệ thống hybrid thường sẽ được xác thực bên trong mạng lưới. Tuy vậy, người dùng cũng có thé đưa thơng tin này ra hệ thống công dé xác thực, việc này giúp làm tăng tính
minh bạch của hệ thống.
1.3. Tác động của việc ứng dụng công nghệ Blockchain trong việc bảo hộ quyền
<small>tác giả</small>
Tính ưu việt của cơng nghệ blockchain không chỉ được thé hiện qua lý thuyết được nêu tại phần 1, mà cịn thê hiện thơng qua ứng dụng vào lĩnh vực sở hữu trí tuệ và bảo vệ quyền tác giả một cách an toàn, dé dàng và tiện ích hơn. Ở phan tiếp theo, bài
<small>18 Public, Private, Permissioned Blockchains Compared</small>
<small> truy cập: 27/02/202219 Pierluigi Martino, Blockchain and Banking: How Technological Innovations Are Shaping the BankingIndustry, 2021.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">viết tập trung khai thác các khía cạnh của blockchain trong việc xác lập quyền tác giả,
1.3.1. Xác lập, ghỉ nhận quyền tác giả
Quyền tác giả đối với tác phẩm phát sinh tại thời điểm tac pham sáng tạo được thé hiện đưới hình thức vật chất nhất định, không phân biệt tac phâm đã công bố hoặc chưa công bố, đã đăng ký bảo hộ hoặc chưa đăng ký bảo hộ. Thế nhưng chủ sở hữu tác phẩm vẫn có quyền đăng ký tác phẩm thuộc sở hữu của mình tại cơ quan bản quyên tác giả của Nhà nước dé được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả. Nếu người sáng tao đăng ký tác pham với Cục Bản qun tác giả thì khơng có nghĩa vụ phải chứng minh quyền tác giả, quyền liên quan thuộc về mình khi có tranh chấp, trừ trường hợp có chứng
<small>cứ ngược lại.</small>
Trường hợp khơng đăng ký quyền tác giả với Cục bản quyền tác giả, các tác giả cần lưu trữ tat cả các chứng cứ cần thiết dé chứng minh căn cứ phát sinh quyên tác giả, chăng hạn như tài liệu chứng minh mình là người trực tiếp tạo nên tác phẩm; văn bản giao việc cho tác giả thuộc công ty tô chức của mình tạo nên tác phẩm và văn bản bàn giao tác phâm đã hoàn thành; hợp đồng thuê tác giả tạo ra tác pham; hay tài liệu chứng minh được hưởng quyền thừa kế hoặc các tài liệu tạo ra tác phẩm ghi nhận trên cơ sở dữ liệu máy tính... Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy các tác giả thường không lưu trữ các thông tin này, dẫn tới khi xảy ra tranh chấp, tác giả khó khăn trong việc chứng minh quyền tác giả cũng như bảo vệ quyên lợi cho bản thân.
Blockchain có thé được ứng dụng dé việc đăng ký quyên sở hữu trí tuệ trở nên tiện lợi hơn cho các tác giả. Hệ thống công nghệ cho phép tác giả đăng ký quyên tác giả trực tuyến sẽ dé dàng lưu trữ các thông tin liên quan đến tên tác phẩm, tên/bút danh... và được mã hoá một chiều thành một chuỗi ký tự riêng biệt, liên kết với mốc thời gian mà người dùng gửi tài liệu lên hệ thống. Bằng cách lưu trữ các chuỗi ký tự, giúp người nộp đơn có thê cất giữ tài liệu trên hệ thống.
1.3.2. Sử dụng, khai thác quyền tác giả
Do nhu cầu chuyền giao và tìm kiếm lợi nhuận từ các quyên tài sản ngày càng tăng lên, các giao dịch khai thác quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả tại Việt Nam cũng tăng cao. Việc khai thác, sử dụng quyền tác giả một cách có hiệu quả đang được xã hội và cộng đồng hết sức quan tâm. Cơng nghệ blockchain có thé giúp việc khai thác, thực hiện quyền của tác giả được trọn vẹn hơn và đồng thời cũng hướng đến bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh đề thúc day sự tăng trưởng của nền kinh
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Thông qua công nghệ Blockchain, chủ sở hữu quyền tác giả có thể kinh doanh tác phâm trên nên tảng số. Từ trước đến nay, chủ sở hữu quyền tác giả thường có xu hướng khai thác các giá trị thương mai của tác pham của minh qua các bên trung gian như nhà xuất bản, công ty phát hành hoặc mới đây nhất là thông qua nền tang mạng xã hội trên Internet. Với cách thức này, họ sẽ phải chuyên giao một phan quyền tài sản của mình cho bên thứ ba dé khai thác lợi nhuận từ tác phẩm của minh.
Giải pháp cho việc này, công nghệ Blockchain thông qua cơ chế ngang hàng cho phép người dùng trong hệ thống giao dịch trực tiếp với nhau mà không cần tới bên thứ ba dé xác nhận giao dịch. Tác giả chỉ cần đăng tải tác phâm lên hệ thống Blockchain mà khơng phải chi trả bat kỳ khoản phí nao, chỉ cần chi trả một phan lợi nhuận thu được từ việc khai thác giá tri tác phẩm cho nhà khởi tạo và vận hành Blockchain. Việc này một mặt cho phép tác giả thu lợi trực tiếp từ thành quả lao động, mặt khác vẫn đảm bảo tác giả có tồn quyền với tác phẩm của mình. Hình thức khai thác giá trị của tài sản như vậy hiện nay khá phổ biến với việc kinh doanh các NFTs - Non-fungible token, hay cịn gọi là các token khơng thể thay thế, là một dạng dữ liệu đại diện cho quyền sở hữu của f9, Hiểu đơn giản, NFTs là mã định danh cho những ấn pham một sản phẩm độc nha
giới hạn trên thị trường. Người mua sẽ đấu giá trên các sàn giao dich dé được sở hữu NFTs. Ví dụ tiêu biểu cho việc tạo ra lợi nhuận từ NFTs là họa si Xèo Chu đấu giá tranh được gan 23.000 USD từ san giao dịch Binance NFT?!. Mặc dù đây là hình thức kinh doanh được quan tâm khá nhiều trong thời gian gần đây, điều quan trọng là cần xem xét đến tính pháp lý của NFTs và bản chat các giao dịch liên quan. Nội dung này sẽ được giải quyết trong phan 3 của bài báo.
Thứ hai, blockchain là chìa khóa giúp giảm thiểu gánh nặng của hoạt động chuyển giao quyên tác giả:
Trước hét, chủ sở hữu quyên tác giả có thé dé dàng chuyên quyền sử dung, chuyên nhượng quyên tác giả trên hệ thống Blockchain thông qua hợp đồng thông minh (smart contract). Trên thé giới hiện nay chưa có định nghĩa thong nhất về hợp đồng thơng minh. Theo Tapscott & Tapscott”? “Hop đồng thông minh là chương trình máy tính có khả năng tự động thực thi các điều khoản trong hợp đơng. Q trình này diễn ra dựa trên nguyên tắc “Néu-thi” (If-then): nếu những diéu kiện quy định trong hợp
<small>20 Non - fungible token, truy cập ngày 26/2/2022</small>
<small> truy cập ngày26/2/2022</small>
<small>““https:/www2.deloitte.com/content/dam/Deloitte/tr/Documents/technology-media-telecommunications/deloitte-Po V-blockchain-media.pdf</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">dong được đáp ứng thì hop đồng sẽ được tự động thực thi.” Theo Vitalik Buterin?, hop đồng thông minh là chương trình máy tính trực tiếp kiểm sốt một số loại tài sản kỹ thuật số. Hợp đồng thông minh thực hiện chuyển đổi tài sản số thành chương trình máy tính, tự động mã hóa dựa trên những điều kiện cho sẵn và phân định tài sản cho người thích hợp”?. Ở Việt Nam hiện nay, có quan điểm cho răng hợp đồng thông minh là “Hợp đồng kỹ thuật số cho phép các điều khoản được thiết lập dựa trên tính đồng thuận phi tập trung, giúp chong gian lận và có đặc tính tự thi hành thơng qua cơ chế tự động thực
Thơng qua nghiên cứu, nhóm tác giả cho rang hợp đồng thơng minh có thé được hiểu là “Chương trình máy tính thiết kế trên nên tảng công nghệ Blockchain dé tự động thực thi một phan hoặc toàn bộ các điều khoản thỏa thuận. Các điều khoản trong hợp dong thông minh được mã hóa từ hợp dong đã ký kết hoặc giỗng như thỏa
<small>thuận thơng thường được ghỉ dưới ngơn ngữ lập trình. ”</small>
Mặc dù được gọi là hợp đồng thông minh nhưng hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm xoay quanh việc có nên coi hợp đồng thơng minh là một dạng hợp đồng hay khơng. Nội dung này nhóm tác giả sẽ bàn luận kỹ hơn ở phân sau của bai nghiên cứu.
Với công nghệ Blockchain, chủ sở hữu quyền tác giả có thé soạn thảo hợp đồng chuyền giao quyền tác giả dựa trên những mẫu có sẵn trên hệ thống, hoặc tự soạn thảo cho mình một bản hợp đồng riêng”5.
Ngồi ra, chủ sở hữu quyền tác giả có thê điều chỉnh mức giá và các điều khoản khác liên quan tới tác phâm một cách linh hoạt. Cùng một tác phâm tác giả có thé tao ra nhiều hợp đồng khác nhau với với điều khoản về giá khác nhau, phụ thuộc vào mục dich sử dụng cũng như hình thức giao dịch. Vi du: giá của hợp đồng chuyên nhượng quyên tác giả sẽ khác với giá của hợp đồng chuyên giao quyền tác giả hay trường hop giao dịch dé sử dụng cá nhân sẽ có giá khác khi sử dụng cho mục đích thương mại.
Tác giả có thé soạn thảo hợp đồng thơng minh cho phép giá của tác phẩm thay đổi theo nhu cầu thị trường. Khi nhu cau của thị trường tăng cao, nhiều người sử dụng tác phẩm thì giá sẽ tự động lên và ngược lại, khi ít người sử dụng thì giá của sản phẩm
<small>sẽ được tự động giảm xng.</small>
<small>23 Vitalik Buterin là lập trình viên và cũng là đồng sáng lập Ethereum và Bitcoin Magazines.</small>
<small>24 Smart Contracts, ort/crypto-research/smart-contracts/, truy cập ngày 27/2/2022?® Phan Vũ, “Hợp đồng thơng minh và một số van đề pháp ly đặt ra”, Tap chí Nhà nước và Pháp luật, số5/2019, tr.39.</small>
<small>“8Alexander Savelyev, Copyright in the blockchain era: promises and challenges, Elsevier Ltd, 2017.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Cơng nghệ Blockchain sử dụng tiền mã hóa, cho phép người dùng thanh toán ở mức rất nhỏ (một phần của một xu)?’, miễn phí phí giao dich và từ đó tạo thành cơ chế dùng bao nhiêu trả tiền bấy nhiêu. Người dùng sẽ chỉ phải trả số tiền tương ứng với khoảng thời gian họ sử dụng tác phẩm. Vi du: Một người sẽ chỉ phải trả khoản tiền
<small>tương ứng với thời gian người đó nghe một bài nhạc hay xem một bộ phim mà không</small>
phải chi trả cho toàn bộ thời gian đăng ký như trên những nên tang thông thường khác
<small>hiện nay như Netflix”Š hay Spotify”?,...</small>
Bên cạnh đó, việc phân chia lợi nhuận giữa các đồng tác giả sẽ trở nên dễ dàng hơn với thiết kế của hợp đồng thông minh. Khi tập thê tác giả thiết kế hợp đồng thông minh, họ có thê thỏa thuận sẵn về phần trăm, số tiền mà mỗi người được hưởng tương ứng với công sức mà mình đã đóng góp vào tác phâm. Khi người mua tiến hành giao dịch thì số tiền thanh tốn sẽ được hệ thống tự động phân phối cho các tác giả theo điều khoản thỏa thuận phần trăm trên hợp đồng thông minh mà không cần thêm một bước nào khác. Việc này một mặt đảm bảo quyền lợi sát sườn, trực tiếp cho các đồng tác giả, không phải chờ đợi việc thanh toán như trước kia. Mặt khác hợp đồng thông minh sẽ tự động phân phối lợi nhuận về cho tác giả tương ứng với số phần trăm lợi nhuận đã thỏa thuận khi người mua mua tác phẩm.
Tác giả cịn có thé được hưởng lợi từ việc tiếp tục khai thác quyền tài sản của các bên mua. Cá nhân sau khi được chuyên quyền sử dụng có thé thực hiện quyền tai sản nhằm mục đích sinh lời. Chủ sở hữu quyền tác giả có thể thỏa thuận với người mua, người nhận chuyên nhượng về quyền lợi mà mình được hưởng sau khi mua bán, chuyển quyền sử dụng, chuyên nhượng quyền tác giả. Tương tự như việc phân chia lợi nhuận giữa các đồng tác giả, tác giả, chủ sở hữu sẽ nhận được số tiền tương ứng với số phần trăm lợi nhuận đã thỏa thuận trên hợp đồng khi người mua mua tác phẩm.
Qua những phân tích trên, có thê thấy công nghệ Blockchain nếu được khai thác và sử dụng đúng cách sẽ là cơng cụ hữu ích để đem về lợi nhuận cho chủ sở hữu quyền tác giả. Những khó khăn về mặt hợp đồng, thời gian hay chi phi giao dịch được giải quyết nhờ vào sự trợ giúp của Blockchain.
1.3.3. Bảo vệ để chống lại các hành vi xâm phạm
Hiện nay, van nạn xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng đang diễn ra phơ biến, gây ton hại tới quyền và lợi ích của tác giả, chủ sở hữu
<small>“fSebastian Pech, Copyright Unchained: How Blockchain Technology Can Change The Administration andDistribution of Copyright Protected Works, Northwestern Journal of Technology and Intellectual Property, 2020.28 Netflix là một dich vụ phát trực tuyến theo đăng ky, cho phép các thành viên của xem các chương trình truyềnhình và phim trên một thiết bị có kết nối Internet.</small>
<small>29 Spotify là một dich vụ cung cấp nhac, podcast và video kỹ thuật số cho phép bạn truy cập hàng triệu bài hátvà các nội dung khác của các nghệ sĩ trên khắp thế giới.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">tác phẩm. Công nghệ Blockchain được kỳ vọng sẽ giúp quyền tác giả được bảo vệ tốt
<small>hơn, chong lại các hành vi xâm phạm thông qua hai cơ chê ham băm (hash function) va</small>
dấu vết thời gian (timestamp).
Một là, công nghệ Blockchain ngăn ngừa các hành vi xâm phạm quyền tác
Blockchain giúp các chu sở hữu quyền tác giả bao mật nội dung tác pham hiệu quả hơn thông qua cơ chế hàm băm (hash function)*° - công cụ thiết lập nền tảng cơ bản cho việc bảo vệ và chống lại sự thay đôi trong Blockchain. Thông tin của tác phâm lên hệ thống Blockchain được mã hoá một chiều thành một chuỗi ký tự riêng biệt là hàm băm. Hàm băm được sử dụng như một dấu vân tay và như vậy sẽ khơng có sự trùng lặp giữa các tác phẩm, liên kết với mốc thời gian mà người dùng gửi tài liệu lên hệ thống. Ngoài ra cũng xác minh được tính tồn vẹn của tài liệu gốc vì nêu có bat kỳ sự thay đồi nao trong tác phẩm thì sẽ tạo ra một chuỗi ký tự mã hoá (hàm băm) mới, và hệ thống sẽ nhận được cảnh báo rằng tài liệu đã bi chỉnh sửa. Một giao dịch Blockchain là bất biến, vì vậy thơng tin đã được đăng tải trên Blockchain khơng bao giờ có thê bị mất hoặc thay đổi. Các bên thứ ba có thé sử dụng Blockchain dé xem chuỗi quyền tác giả hoàn chỉnh của một tác phẩm.
Hai là, các thông tin trên hệ thông Blockchain là bằng chứng về quyên sở hữu doi với tac phẩm.
Với tính chất đặc thù là lưu trữ mọi giao dịch trên hệ thong của minh, bat ky thay đổi nào liên quan đến quyền tác giả của tac phẩm như chuyển nhượng, chuyền giao quyên sở hữu đều được hệ thống lưu lại đầy đủ và công khai. Việc minh bạch thông tin về chủ sở hữu quyền tác giả cũng như tình trạng pháp lý của tác phâm cũng góp phần vào việc chống lại hành vi mạo danh hay kiếm lợi bất chính từ việc sử dụng lại tác phẩm. Bat kỳ thay đổi nào liên quan tới tác phâm đều được hệ thống lưu lại do đó sẽ kiêm sốt được hành vi tiếp theo của người dùng khi đã có một bản sao tác phẩm trong
Ngoài ra, Blockchain giúp khắc phục cách thức lưu trữ truyền thống qua mốc thời gian (trusted Timestamping). Bên cạnh hàm băm dé bao mật, mốc thời gian sẽ đóng vai trị như một dang dir liệu (data) trong các giao dich được lưu trữ. Một dau thời gian (timestamp) bao gồm một chuỗi các ký tự hoặc thơng tin mã hóa sẽ có vai trị ghi lại thông tin về các sự kiện, ngày, giờ, thậm chí giây diễn ra việc chuyên quyền sở hữu tác
<small>giả. Khi các tác gia hoặc chu sở hữu quyên tác gia đăng tải tác phâm của họ lên một nên</small>
<small>80 Một hàm số tốn học có nhiệm vụ tạo “dấu vân tay” cho thông tin từ thông tin gốc</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">tảng dựa trên công nghệ Blockchain, nên tảng này sẽ tự động sản sinh ra một chuỗi hoặc giấy thơng hành điện tử cho nội dung đó, bao gồm cả dấu thời gian.
Do đó, sẽ giúp xác định tác giả và giải quyết khi có những tranh chấp, bất đồng về quyền tác giả; đồng thời giúp các bên biết rõ hiện ai là chủ sở hữu hợp pháp của tác pham. Đồng thời, bất kỳ giao dich nào liên quan đến quyên tác giả (như việc chuyển quyền nhượng, chuyển quyền sử dụng quyền tác giả) đều sẽ được sẽ được mã hàm băm lưu lại toàn bộ trên Blockchain. Khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến quyền đối với tác phâm, chủ sở hữu quyền tác giả có thể đễ dàng sử dụng các giao dịch lưu trữ trên Blockchain làm bằng chứng cho quyền sở hữu của mình đối với loại quyền tranh chấp. Đặc biệt, công nghệ blockchain nên được sử dụng dé chứng thực các hành vi lam xâm phạm quyên tác giả đã và dang gây ra rất nhiều tốn hại đến tác giả và chủ sở hữu quyên tác giả. Việc gắn các mã kết nói thơng tin với hệ thống blockchain nhăm định dạng các mã được gắn lên sản phâm đề xác thực với thông tin gốc từ tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả về mã hàm gốc là một trong số những ứng dụng thuyết phục nhất của cơng nghệ blockchain, có thê đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống lại hành vi xâm phạm quyên tác giả. Minh bạch thông tin cùng với công nghệ blockchain cũng cho phép người tiêu dùng cùng tham gia có khả năng phân biệt sản phâm hang chính
<small>hãng và hàng giả?!.</small>
<small>Ba là, ứng dung cơng nghệ Blockchain vào ngăn ngừa các hành vi xâm phạm</small>
quyền tác giả.
Sau khi xuất hiện trên hệ thống, các tác phẩm sẽ được gan với các NFTs (Non-fungible tokens). Các token này là những token độc nhất gan liền với tác phẩm, đóng vai trị như mã định danh dé phân biệt tác phẩm này với tác phẩm khác. Khi có sự hỗ trợ của mã token khơng thể thay thế và Blockchain, người dùng khác không thê thay đổi nội dung hay lưu trữ dé sử dụng lại tác phẩm trên cùng một nền tảng mà không được
sự đồng ý của chủ sở hữu quyên tác giả. Từ đó ngăn ngừa các hành vi làm nhái, làm giả
và thu lợi bất chính từ tác phẩm.
Ngồi ra, khả năng tác phâm bị loại bỏ hay thay thế cũng là rất thấp nhờ vao tính phân tán của cơng nghệ Blockchain. Nếu như muốn thay đổi hay can thiệp vào nội dung của tác phẩm thì sẽ phải thay đổi tat cả các bản sao trên các nút chứ không chỉ cần thay đổi một bản duy nhất thuộc hệ thống máy chủ như các nên tảng lưu trữ hiện nay.
Tóm lại, những thơng tin trên hệ thống Blockchain có thé được đảm bảo an toàn gan như là tuyệt đối khi nó khơng thé bị chỉnh sửa hay thay đơi. Nếu tác giả, chủ sở hữu
<small>31 Nguyên Hạnh, Công nghệ blockchain với hoạt động sở hữu trí tuệ, h class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">
thực sự là người có quyền tác giả đối với tác pham thì sẽ được hệ thơng bảo vệ hết sức
<small>an tồn.</small>
Chương 2: Ứng dụng cơng nghệ blockchain trong việc bảo hộ quyền tác giả theo điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam
Nhen nhóm ý tưởng về một giải pháp thực tế về mặt tính tốn để đánh dấu thời gian các văn bản số, dé chúng không bị lùi ngày về trước hoặc can thiệp vào?2 từ những năm cuối của thế kỷ XX nhưng cơng nghệ Blockchain chỉ chính thức hồn thiện khi được Satoshi Nakamoto giới thiệu lần đầu tiên vào năm 2008. Sau khoảng thời gian phát hành, ứng dụng của Blockchain không chỉ dừng lại là công nghệ dang sau hệ thông tiền điện tử mà đã mở rộng ra rất nhiều lĩnh vực như ngân hàng, y tế, giáo dục.... trong đó bao gồm cả lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
Quyền sở hữu trí tuệ, mà cụ thé là quyền tác giả một mặt đã và đang được hưởng rất nhiều lợi ích từ sự phát triển của cơng nghệ. Các lợi ích có thé kê đến như tạo ra nhiều phương thức mới dé tác giả sáng tạo, thé hiện và lưu trữ tác phẩm. Một số loại hình tác phẩm như tác phâm văn học, hội họa hay nhiếp anh giờ đây không nhất thiết phải thé hiện dưới hình thức vật ly mà có thé được thê hiện dưới dạng tệp tin được số hóa nhờ các phương tiện kỹ thuật. Song song với đó, mạng Internet?3 giúp việc truyền dat thông tin trên khắp thé giới trở nên dé dang hơn, từ bat kỳ đâu, vào khoảng bat kỳ thời gian nào và do vậy, giúp kết nối trực tiếp giữa tác giả và người tiêu dùng trong việc truyền đạt tác phâm. Với sự hỗ trợ của sản phẩm công nghệ và Internet, việc sao chép và truyền đạt tác phâm được thực hiện hiệu quả hơn do tác phẩm được sao chép đúng nguyên bản va chất lượng hon, có thé được truyền tải nhanh hơn và rộng rãi hơn đến
<small>công chúng.</small>
Mặt khác, các tác giả cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức đối với việc bảo vệ, thực thi qun tác giả do chính mơi trường kỹ thuật số tạo ra. Việc dé dàng truyền đạt tác phâm đến công chúng bằng phương tiện kỹ thuật số thực chất lại là con dao hai lưỡi bởi một khi tác phẩm đã được tác giả cơng bố thì hàng ngàn người có thê dé dàng sao chép tác phẩm chỉ với thao tác của một cú nhấp chuột và tải về. Ngoài ra, tác gia, chủ sở hữu cũng sẽ gặp khó khăn trong quản lý việc sử dụng tác phâm khi người dùng thường xuyên đăng tải lại tác phẩm trên các nền tảng khác nhau mà không được sự đồng ý, cho phép của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, thậm chí cịn có hành vi mạo danh tác giả dé đăng tai trái phép nhăm trục lợi bat chính. Tat cả những hành vi trên tạo ra các tôn thất về mặt tinh thần cũng như vật chất cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.
<small>32 Mạng Internet là hệ thống thơng tin tồn cầu có thé được truy nhập cơng cộng gồm các mang máytính được liên kêt với nhau, ( 19/internet)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><small>Cơng nghệ Blockchain ra đời với các tính năng vượt trội của mình được kỳ vọng</small>
sẽ giải quyết những bat cập mà môi trường kỹ thuật số đặt ra trong bảo hộ quyên tác giả. Mặc dù, với tính mới của mình mà hiện nay pháp luật các quốc gia trên thé giới chưa có đủ quy định về các van đề phát sinh trong Blockchain, thé nhưng blockchain cũng là một sản phẩm của môi trường kỹ thuật số nên việc tồn tại những quy định sẵn có đề điều chỉnh và việc xem xét chúng là cần thiết.
Hiện nay có rất nhiều điều ước quốc tế được sử dụng nhằm mục đích bảo hộ quyền tác giả, tiêu biểu có thé kế đến như Cơng ước Berne 1886 về bảo hộ các tác phâm văn học và nghệ thuật, Hiệp định Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS), Hiệp ước quyên tác giả WIPO (WCT),... Các hiệp định trên đều có chung mục đích là hướng tới bảo hộ, khai thác quyền tác giả nói riêng cũng như qun sở hữu trí tuệ nói chung. Trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả lựa chọn công ước Berne và hiệp ước WIPO (WCT) dé phân tích bởi đây là những điều ước quốc tế có liên quan chặt chẽ tới việc điều chỉnh quyền tác giả trong môi trường số. Công ước
<small>Berne dù được ra đời sớm và chưa có các quy định liên quan tới cơng nghệ nhưng nó là</small>
nền móng cho các điều ước quốc tế liên quan tới quyền tác giả nên việc xem xét các quy định trong này là cần thiết. Hiệp ước WCT ra đời sau sự ra đời của Hiệp định TRIPs và khi mạng Internet đã phát triển, nên nó điều chỉnh được bao quát hơn các vấn đề nảy sinh trong môi trường kỹ thuật số so với các điều ước quốc tế khác. Ngoài ra, WCT được ban hành trên cơ sở các quy định của Cơng ước Berne nhằm hiện đại hóa hệ thong quyên tác giả quốc tế và dựa hệ thống đó vào thời đại công nghệ s6**. Các nội dung của hiệp ước này khơng nhằm mục đích hạn chế hay gây ảnh hưởng đến phạm vi bảo hộ quyền tác giả theo cơng ước Berne. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng đi vào nghiên cứu, phân tích các quy định sở hữu trí tuệ của pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh các van đề liên quan tới ứng dụng công nghệ trong bảo hộ quyên tác giả.
2.1. Ứng dụng công nghệ Blockchain trong xác lập quyền tác giả 2.1.1 Đối twong bảo hộ trong hệ thống Blockchain
Việt Nam đang tiếp tục đây mạnh việc thực hiện các điều khoản theo Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học; triển khai thực hiện các cam kết với tư cách là thành viên của Tổ chức Thuong mại Thế giới (WTO), việc tham gia Hiệp định TRIPS, về các khía cạnh kinh tế của quyền sở hữu trí tuệ là yêu cầu bắt buộc của lộ trình này. Theo cam kết tại Hiệp định về bảo hộ sở hữu trí tuệ giữa Việt Nam và
<small>Thụy Si, ngồi việc tham gia Cơng ước Berne, Hiệp định TRIPS, Việt Nam còn phải3 Vũ Thị Phương Lan (chủ nhiệm đề tài), Bảo hộ quyển tác giả trong môi trường kỹ thuật số theoĐiều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường Đại họcluật Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">thực hiện theo Công ước Rome 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng. Theo cam kết tại Điều 1, Khoản 3 và Điều 18, Chương II Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì ngồi việc tham gia Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật trong thời hạn 24 tháng, Việt Nam cịn phải thực hiện Cơng ước Geneva 1971 về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm, chống lại việc sao chép trái phép, Công ước Brussels 1974 về phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh trong thời hạn 30 tháng kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Có thé nói đối tượng bảo hộ quyền tác giả trong hệ thống Blockchain được tập trung chủ yếu ở 3 lĩnh vực: Tác phâm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ, cụ thể các tác phâm thuộc một trong số những loại hình được liệt kê tại Điều 14 Luật SHTT Việt Nam bao gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc kỷ tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biếu và bài nói khác; c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc; e) Tác phẩm sân khấu;
f) Tác phẩm điện anh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
j) Bản họa đô, sơ đô, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, cơng trình khoa học; k) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
<small>Ù_ Chương trình máy tinh, sưu tập dữ liệu.</small>
2. Tác phẩm phải sinh chỉ được bảo hộ nếu không gây phương hại đến quyên tác giả doi với tác phẩm được dùng dé làm tác phẩm phải sinh.
Có thê thấy, các tác pham được bảo hộ quyên tác giả như “Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; Tác phẩm báo chí; Tác phẩm âm nhạc ” đều đã thê hiện dưới hình thức vật chất nhất định, vì vậy chỉ cần số hóa
chúng dé đưa vào bảo hộ trong hệ thống Blockchain.
Đối với các tác phẩm sân khấu, dé được bảo hộ thơng qua Blockchain cần ghi âm, ghi hình tác phẩm dé
Điểm đáng chú ý ở đây, đó là tác phẩm hội họa, đồ họa khi tồn tại đưới dang dữ liệu điện tử hồn tồn có thê được thể hiện dé dàng trên màn hình máy tinh, máy chiếu hoặc bang kỹ thuật in ấn, còn tác phẩm điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt và những tác phẩm
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">tương tự tồn tại dưới dạng độc bản (một bản gốc duy nhất) thì lại khơng thể được lưu trữ dưới dạng đữ liệu điện tử. Cũng có ý kiến cho rằng, ngày nay, với sự trợ giúp của các robot tự động (máy tiện tự động, máy cắt CNC), những dữ liệu kỹ thuật số có thể được dùng dé điều khiến các robot tạo ra các tác phẩm điêu khắc và nghệ thuật sắp đặt như ý muốn của con người.
Tiếp theo là tác phâm nhiếp ảnh, được hiểu là tác phâm thé hiện hình ảnh thế giới
có thé được tạo ra bang các phương pháp hóa học, điện tử hoặc phương pháp kỹ thuật khác. Có thé thấy, trong môi trường kỹ thuật số, tác phẩm nhiếp anh là tac phâm được lưu trữ đưới dang dit liệu kỹ thuật số, và có thé được thê hiện trên các thiết bị ngoại vi như màn hình máy tính, màn máy chiếu hoặc có thé được in ra trên vật liệu in như giấy
<small>ảnh, bạt nhựa... thông qua các biện pháp kỹ thuật.</small>
Trong môi trường kỹ thuật số, các tác phâm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phâm kiến trúc có thé là các bản vẽ kỹ thuật số được mã hóa và có thể hiển thị đưới dang đồ họa hai chiều (2D) hoặc ba chiều (3D) và được lưu trữ đưới dạng
<small>tệp dữ liệu hoặc sưu tập dữ liệu.</small>
Có thé thấy, pháp luật Việt Nam đã việc liệt kê các loại hình ton tại của các tác
phâm nhưng chưa quy định cụ thê cho trường hợp tác phẩm tồn tại dưới dạng đữ liệu kỹ thuật số. Điều này sẽ dẫn đến những hạn chế nhất định trong việc bảo vệ các tác pham trong mơi trường kỹ thuật số. Tiêu biéu có thé kê đến trường hợp những tác pham dù đã được thê hiện và nhận biết trên các phương tiện kỹ thuật số, ví dụ như tác phẩm điêu khắc được thể hiện dưới dạng hình ảnh 3D trên màn hình máy tính, nhưng chưa được thi cơng thành hình khối trên thực tế, có thé khơng được bảo hộ.
Theo Cơng ước Berne, các tác phẩm nghệ thuật có thé được biểu hiện theo bat kỳ phương thức hay dưới hình thức nao, chăng hạn như sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch, hay nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời, các tác phẩm điện ảnh va các tác phẩm được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự với điện ảnh, các tác phẩm đồ họa, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, chạm trồ, in thạch bản; các tác phẩm nhiếp ảnh và các tác phẩm được diễn tả bằng một kỹ thuật tương tự như nhiếp ảnh; các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, minh họa, địa đồ, đồ án, bản phác hoa và các tác phẩm tạo hình liên quan đến địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học. Tuy nhiên, luật pháp quốc gia thành viên của Liên Hiệp có thâm quyền quyết định khơng bảo hộ các tác phẩm nói chung hoặc những thé loại khác cụ thé nào đó, trong khi các tác phẩm ây chưa được ấn định trên một hình thái vật chất. Nhu vậy, so với pháp luật
<small>Việt Nam, cơng ước Berne có đơi tượng “mở” hơn về các hình thức tơn tại của tác phâm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">khi quy định các tác phẩm nghệ thuật có thé được biểu hiện theo bat kỳ phương thức hay dưới hình thức nào. Tuy nhiên, những quy định cụ thê về việc bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm được lưu trữ dưới dang dữ liệu kỹ thuật số vẫn chưa được đề cập đến trong công ước Berne.
Về đối tượng được bảo hộ theo Hiệp định TRIPs, theo ghi nhận tại Điều 9, thì Hiệp định TRIPs bảo hộ tất cả các tác pham van hoc, nghé thuat, khoa hoc duge vat chất hóa đã được liệt kê tai Điều 2 của Công ước Berne nêu trên. Tuy nhiên, bên cạnh việc dẫn chiếu lại đối tượng bảo hộ từ công ước Berne, Hiệp định TRIPs còn quy định các bộ sưu tập dữ liệu hoặc tư liệu khác, dù dưới dạng đọc được băng máy hay dưới dạng khác, mà việc tuyên chọn hoặc sắp xếp nội dung chính là thành quả của hoạt động
trí tuệ đều phải được bảo hộ bản quyền”. Việc bảo hộ nói trên, với phạm vi khơng bao
hàm chính các dữ liệu hoặc tư liệu đó, khơng được làm ảnh hưởng tới bản quyền đang tồn tại đối với chính dữ liệu hoặc tư liệu đó.
Theo Khoản 3 Điều 5 Luật SHTT Việt Nam, trong trường hợp điều ước quốc tế
<small>mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định</small>
của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”. Như vậy, dựa trên các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, có thé hiểu rang, trong môi trường kỹ thuật số, việc bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm nghệ thuật có đối tượng là các tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phâm kiến trúc được thể hiện hoặc lưu trữ dưới dạng đữ liệu kỹ thuật số dù dưới dạng đọc được bằng máy hay dưới dạng khác, miễn là việc tuyên chọn hoặc sắp xếp nội dung chính là thành quả của hoạt động trí tuệ
2.1.2. Chủ thể của được bảo hộ quyền tác trong hệ thong Blockchain
Về nguyên tắc, tất cả các chủ thé được bảo hộ quyền tác giả trong môi trường truyền thống cũng là các chủ thé được bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số, cụ thé ở đây là trong hệ thống Blockchain. Các quy định liên quan đến chủ sở hữu quyền tác giả được ghi nhận tại Chương HI Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đơi, bố sung năm 2009, 2019. Theo đó, chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này. Đồng
<small>thời, phạm vi chủ sở hữu được bảo hộ theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam được xác định</small>
dựa trên các tiêu chí: quốc tịch, nơi thực hiện hành vi, điều ước quốc tế. Cụ thể Điều 25 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chủ sở hữu quyền tác giả tại Điều 36 của Luật sở hữu trí tuệ bao gồm: Tổ chức, cá nhân Việt Nam; Tổ chức, cá nhân nước ngồi có tác pham được sáng tạo và thé hiện dưới hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam; Tổ
<small>chức, cá nhân nước ngồi có tác phâm được cơng bơ lân đâu tiên tại Việt Nam; Tô chức,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">cá nhân nước ngồi có tác phâm được bảo hộ tại Việt Nam theo Điều ước quốc tế mà
<small>nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.</small>
Theo đó, chủ sở hữu quyên tác giả đối với tác phẩm được quy định từ Như vậy, dưới góc độ của pháp luật sở hữu trí tuệ, ngay trong mơi trường truyền thống, chủ thé quyền tác giả là những người có quyền năng đối với tác pham do minh sáng tạo ra hoặc sở hữu, bao gồm tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Quyền năng nay được mở rộng tới những tác phẩm tồn tại trong hệ thống Blockchain, do như phân tích tại phần trên, Blockchain là một số cái kỹ thuật số hay dé hiểu hon là nơi các đối tượng của quyền tác giả được thể hiện dưới dạng dữ liệu kỹ thuật số. Do đó, chủ thể của quyền tác giả trong mơi trường này là những người chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tác phẩm nghệ thuật được lưu trữ đưới dạng dữ liệu kỹ thuật số. Dưới góc độ tiếp cận này, công ước Berne cũng quy định việc bảo hộ quyền tác giả được dành cho tác giả và những người sở hữu quyền tác giả. Như vậy, các chủ thé quyền tác giả khi tham gia vào hệ thống Blockchain gồm có là tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả.
Như đã phân tích ở phần trước, tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra tác phâm văn học nghệ thuật. Quá trình tạo ra các tác phẩm nghệ thuật là quá trình hoạt động sáng tạo của cá nhân. Tác giả của các tác phẩm nghệ thuật chỉ là những con người cụ thê “bang lao động trí tuệ của mình trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm bằng việc sử dụng các cách thức biểu hiện khác nhau thông qua dấu hiệu, đường nét, hình khối, màu sắc, âm thanh, hình ảnh... được bố cục, sắp xếp, trình bày dưới một hình thức vật chất nhất định mà người khác có thể cảm nhận được một cách trực tiếp thông qua các giác quan tự nhiên của con người hoặc gián tiếp thông qua sự trợ giúp của các thiết bị, phương tiện hiện có hoặc sẽ phát triển trong tương lai, mang đậm nét dấu ấn cá nhân của người sáng tạo, mang tính chất độc đáo, riêng có, ngun thủy, độc lập, mới có của sáng tạo, khơng sao chép từ những sáng tạo hiện có.” Dé được cơng nhận là tác giả của một tác phẩm nghệ thuật, cá nhân phải thỏa mãn những tiêu chí nhất định, đặc biệt đối với tác giả tham gia vào hệ thống Blockchain. Cá nhân tham gia vào hệ thống Blockchain với vai trò là tác giả của tác phẩm sẽ được sau đây:
Bên cạnh tác giả, cịn có một chủ thê khác sở hữu quyền tác giả đó là chủ sở hữu quyền tác giả. Nếu như tác giả chỉ có thé là các cá nhân, thì chủ sở hữu quyền tác giả vừa có thể là cá nhân, vừa có thể là pháp nhân. Như đã phân tích, trong đa số các trường hợp, tác giả sẽ đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả. Tuy nhiên, nếu tác pham được hình thành do có các tổ chức, cá nhân thuế, giao nhiệm vụ cho tác giả thì các tơ chức, cá nhân này sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả. Ngoài ra, người được chuyển giao quyền tác giả, hay người thừa kế của tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả cũng là chủ sở hữu quyên tác giả. Có nhiều trường hợp tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">tác giả và ngược lại. Việc phân biệt giữa tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả là quan trọng, vì chủ sở hữu quyền tác giả mới chính là người có quyền sử dụng định đoạt tác phẩm. Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu quyên tác gia là tổ chức, cá nhân nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyên tài sản của quyên tác giả. Trên cơ sở đó, chủ thé là chủ sở hữu quyền tác giả được quy định trong Luật SHTT từ Điều 37 đến Điều
<small>42 như sau:</small>
Nếu người sáng tạo ra tác phâm nghệ thuật sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm thì họ vừa là tác giả (đồng tác giả) và vừa là chủ sở hữu quyền tác giả. Trong trường hop đồng tác giả, nếu có phan riêng biệt có thê tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác thì có các quyền đối với phần riêng biệt đó.
Nếu tác giả sáng tạo ra tác phâm nghệ thuật do được tô chức, cá nhân giao nhiệm vụ hoặc giao kết hợp đồng với tác giả, thì chủ sở hữu quyền tác giả sẽ là những tơ chức, cá nhân đó. Ly do pháp luật dành cho các đối tượng chủ thé nay tư cách chủ sở hữu quyền là để “khuyến khích sự đầu tư tài chính và tạo điều kiện vật chất khác cho hoạt động sáng tạo”. Thực tế, hoạt động lao động trí tuệ của các tác giả dé tạo ra tác phẩm nghệ thuật đã nhận được sự bù dap vé vat chat tir chu thé giao nhiệm vu hoặc bên giao kết hop đồng. Vi vậy, sẽ là rất hop lý khi pháp luật cho phép các đối tượng chủ thé này nam các quyền khai thác sử dụng về mặt kinh tế đối với tác phẩm sau khi hoàn thành dé thu hồi lại vốn đầu tư trước đó. Tuy vậy, các quyền liên quan đến nhân thân của tác giả (quyền đặt tên, quyền ghi tên, bút danh), do đặc tính khơng thé chuyển giao, van thuộc về tác giả và được tôn trọng trong suốt quá trình khai thác, sử dụng tác phẩm.
Nếu coi quyền tác giả đối với tác phẩm nghệ thuật cũng là một loại tài sản, thì quyền này cũng có thê được thừa kế và chuyền giao như các loại tài sản khác. Trường hợp quyền tác giả được thừa kế cho tổ chức, cá nhân, thì những tơ chức, cá nhân nhận thừa kế sẽ trở thành chủ thé mới của quyền tác giả. Căn cứ phát sinh quyền sở hữu quyền tác giả của các đối tượng chủ thé này là dựa trên cơ sở pháp luật về thừa kế tai sản. Trường hợp tô chức, cá nhân được chuyên giao, căn cứ phát sinh quyền sở hữu quyền tác giả của các đối tượng chủ thé này là dựa trên cơ sở pháp luật về chuyên nhượng quyên sở hữu quyên tác giả.
Ngoài các chủ thé nêu trên, còn một chủ thé đặc biệt nữa của quyền tác giả đó là Nhà nước. Nhà nước sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm đăng tải lên hệ thống Blockchain trong những trường hợp tác pham khuyết danh, trường hợp tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu quyền tác giả chết khơng có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được quyền hưởng di sản hoặc trường hợp tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà nước.
</div>