Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Chương 3: LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.58 KB, 42 trang )

Chương 3:
LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Tầm quan trọng của việc tìm hiểu lịch sử địa phương
- Nghiên cứu lịch sử địa phương để thấy được những đóng góp cụ thể của nhân
dân các địa phương trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.
- Nghiên cứu lịch sử địa phương góp phần giáo dục các thế hệ sau tình yêu đối
với quê hương đất nước, với dân tộc, lòng kính trọng đối với tổ tiên và các thế hệ đi
trước. Người học tự hào với lịch sử quê hương qua đó cũng thấy được trách nhiệm
của mình với địa phương, với dân tộc, với tổ tiên và các thế hệ mai sau.
1.2. Khái lược lịch sử khu vực Bắc Trung Bộ
- Đối tượng nghiên cứu của lịch sử Bắc Trung Bộ là các thời kỳ lịch sử của Bắc
Trung Bộ. Theo quan điểm lôgíc và quan điểm lịch sử, các thời kỳ này được phân
chia về mặt thời gian, tương ứng với các thời kỳ lịch sử dân tộc Việt Nam. Nội dung
nghiên cứu là các vấn đề chung về lịch sử Bắc Trung Bộ: sự kiện lịch sử, nhân vật
lịch sử
- Các thời kỳ lịch sử được phân chia thành các mốc quan trọng sau: Thời tiền sử
và sơ sử; Thời Bắc thuộc; Thời kỳ độc lập tự chủ (từ năm 905 đến năm 1858); thời
kỳ từ 1858 đến 1945; Thời kỳ từ năm 1945 đến nay.
- Trong tiến trình của lịch sử dân tộc, khu vực Bắc Trung Bộ cùng với các khu
vực khác luôn diễn ra các sự kiện lịch sử tiêu biểu, mang ý nghĩa toàn dân tộc. Bên
cạnh đó, khu vực này cũng sản sinh ra những anh hùng dân tộc, những chiến sĩ yêu
nước và cách mạng có nhiều đóng góp cho lịch sử dân tộc. Trong đó, khu vực Thanh
- Nghệ - Tĩnh có phần đóng góp xứng đáng hơn cả.
1.3. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong tiến trình lịch sử dân tộc
1.3.1. Thanh - Nghệ - Tĩnh thời tiền sử và sơ sử
* Thời tiền sử:
- 1 -
Ngay từ rất sớm, người nguyên thuỷ đã xuất hiện và sinh sống ở địa bàn các tỉnh
Thanh - Nghệ - Tĩnh.
1. Khảo cổ học đã phát hiện được nhiều công cụ chặt thô sơ của người vượn ở Núi
Đọ, Quan Yên, Núi Nuông (Thanh Hoá) Trong đó, người vượn ở Núi Đọ dần dần


đạt tới hình thức xã hội tiền thị tộc (có niên đại cách ngày nay khoảng 30 đến 20 vạn
năm).
Dấu vết người nguyên thủy cũng được tìm thấy ở hang Thẩm Ồm (Quỳ Châu -
Nghệ An). Phát hiện dấu tích người vượn ở Thẩm Ồm chứng tỏ Nghệ An đã có mặt
cùng cả nước từ thuở bình minh xa xưa của lịch sử dân tộc.
2. Dấu tích của văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Bắc Sơn cũng được tìm thấy khá dày
đặc ở đất Thanh Hóa, Nghệ An. Điều này chứng tỏ quá trình định cư liên tục của
người nguyên thủy ở Thanh Hóa, Nghệ An từ thời đại đá cũ sang thời đại đá mới.
- Văn hóa Sơn Vi (có niên đại cách ngày nay 30.000 đến 11.000 năm) được tìm
thấy ở hang núi Một (Cẩm Thủy - Thanh Hóa); mái đá Điều, mái đá Nước, hang Anh
Rồ (Bá Thước – Thanh Hóa); hang Con Moong (Thạch Thành – Thanh Hóa); đồi
Dùng, đồi Rạng (Thanh Chương – Nghệ An)…
- Văn hóa Hòa Bình (có niên đại cách ngày nay 11.000 năm) được tìm thấy tại 31
di chỉ ở khắp các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa và trong các hang núi đá vôi ở các
huyện Quế Phong, Con Cuông, Tương Dương, Tân Kỳ, Quỳ Châu (Nghệ An). Thời
kỳ này, con người đã biết nấu chín thức ăn, định cư một thời gian dài, sống trong chế
độ công xã thị tộc mẫu hệ, bắt đầu có trồng trọt và chăn nuôi.
- Văn hóa Bắc Sơn (có niên đại cách ngày nay 8000 đến 7000 năm) được tìm thấy
ở mái đá Thạch Sơn, hang Điền Hạ… (Cẩm Thủy – Thanh Hóa); mái đá Điều (Bá
Thước – Thanh Hóa); hang Con Moong (Thạch Thành – Thanh Hóa). Cư dân nơi
đây đã sử dụng rất nhiều đồ gốm, nông nghiệp sơ khai đã bắt đầu xuất hiện.
- Vào cuối thời kỳ đá mới, khảo cổ học đã phát hiện trên địa bàn Thanh – Nghệ –
Tĩnh có nhiều di chỉ hết sức quan trọng (có niên đại cách ngày nay 6000 đến 5000
năm): Đa Bút, núi Mông Cù (Vĩnh Lộc – Thanh Hóa); Quỳnh Văn (Nghệ An); Trại
- 2 -
Ổi (Quỳnh Hồng – Quỳnh Lưu – Nghệ An)… Tại các di chỉ này, người ta phát hiện
các công cụ bằng xương, bằng sừng, có vết tích chài lưới… chứng tỏ người nguyên
thủy thời kỳ này đã vươn mạnh mẽ xuống đồng bằng và ven biển.
3. Sơ kỳ thời đại đồ đồng:
Sau quá trình lâu dài đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn và phát triển, cư dân

trên lãnh thổ nước ta bước vào thời đại đồ đồng, theo đó, trên địa bàn Thanh – Nghệ
– Tĩnh, các nhà khoa học cũng đã tìm thấy được những bằng chứng thuyết phục về
thời kỳ này ở đây.
Tại lưu vực sông Mã, khảo cổ học đã phát hiện được các nơi cư trú của các bộ lạc
sơ kỳ thời đại kim khí. Cư dân ở đây tụ cư ở vùng cửa suối dọc đôi bờ sông Mã kéo
dài khoảng 10 km từ xã Mường Lầm đến Nà Nghìn. Tại các tụ điểm cư dân này, các
nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều công cụ đá mài, đồ gốm với những hoa văn phong
phú. Đặc biệt ở Quỳ Chữ (xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa) là di chỉ có nhiều chiến
cụ rìu cân, rìu xéo, mũi giáo, mũi lao và mũi tên bằng đồng có trang trí bằng hoa văn
đúc nổi, có cả các dụng cụ để nấu và đúc đồng…
Tại lưu vực sông Lam, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một số di tích
thuộc sơ kỳ thời đại đồng thau như nhóm di tích Đồi Dền (Tương Dương – Nghệ
An); Trại Ổi (Quỳnh Lưu – Nghệ An); lèn Hai Vai (Diễn Châu – Nghệ An); Rú
Trăn (Nam Đàn – Nghệ An)… Các di tích văn hóa đồ đồng trên đây thuộc giai đoạn
tiền Đông Sơn là những bước chuẩn bị để tiến tới văn hóa Đông Sơn. Nó bắt nguồn
trực tiếp của văn hóa thời đại đồ đá mới trước đó và mang những sắc thái riêng của
các bộ lạc hay nhóm bộ lạc vùng sông Lam. Nó vừa phân biệt với những dòng văn
hóa tiền Đông Sơn thuộc lưu vực sông Hồng (Phùng Nguyên - Đồng Đậu – Gò
Mun), sông Mã và những vùng khác của đất nước, vừa thể hiện những mối quan hệ
tiếp xúc giao lưu văn hóa và trao đổi sản phẩm giữa Nghệ Tĩnh với các địa bàn trên.
Một số đồ gốm ở Trại Ổi, lèn Hai Vai có phong cách và đồ án trang trí giống đồ gốm
Hoa Lộc ở Thanh Hóa. Gốm Đồi Dền có một số hình trang trí gần gũi với gốm
Phùng Nguyên ở lưu vực sông Hồng. Một số đồ gốm Rú Trăn cũng tìm thấy ở Thanh
- 3 -
Hóa qua trao đổi. Quá trình tiếp xúc giao lưu văn hóa đó cũng là quá trình xích lại
gần nhau giữa các nhóm bộ lạc và các khu vực trong quá trình tiến tới một nền văn
hóa thống nhất – văn hóa Đông Sơn.
Có thể nói, cùng với lưu vực sông Hồng thì lưu vực sông Mã, sông Lam là một
trong những dòng chảy văn hóa dẫn đến văn hóa Đông Sơn, góp phần tạo nên văn
hóa Đông Sơn sau này

* Thời sơ sử:
Niên đại: Từ thế kỷ VII TCN đến thế kỷ II TCN. Thời Hùng Vương, Thanh Hoá
thuộc bộ Cửu Chân, Nghệ An thuộc bộ Hoài Hoan và phần bắc bộ Cửu Đức, Hà
Tĩnh thuộc bộ Cửu Đức của nước Văn Lang.
Di chỉ khảo cổ Đông Sơn (nay thuộc phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa).
Lần đầu tiên ở Việt Nam, có một nền văn hóa bao trùm trên một địa bàn rộng lớn từ
Hoàng Liên Sơn đến miền Nam Việt Nam.
Di tích văn hoá Đông Sơn tập trung đậm đặc ở lưu vực các con sông: sông Hồng,
sông Mã, sông Cả. Có 379 di tích, trong đó Thanh Hoá có 104 di tích, Nghệ An có
25 di tích
Các di tích văn hóa Đông Sơn ở Thanh Hóa phân bố rộng từ vùng núi đến vùng
đồng bằng thuộc các huyện: Đông Sơn, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Quảng Xương, Nông
Cống, Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Vĩnh Lộc, Hà Trung…
Trên đất Nghệ An và Hà Tĩnh cũng đã phát hiện được rất nhiều di tích văn hóa
Đông Sơn mà tiêu biểu nhất là Làng Vạc (Nghĩa Đàn – Nghệ An), Đồng Mỏm (Diễn
Châu – Nghệ An), Xuân An (Nghi Xuân – Hà Tĩnh)…
Vào giai đoạn Đông Sơn, nghề đúc đồng đạt đến mức cực thịnh. Ở Làng Vạc tìm
thấy khuôn đúc rìu và đúc dao găm bằng sa thạch. Ở Đồng Mỏm người ta tìm thấy
môi đúc đồng bằng đất nung còn dính xỉ đồng. Đồ đồng Đông Sơn gồm đủ bộ từ
công cụ, nhạc cụ đến chiến cụ. Trên các đồ đồng này đều có khắc chạm đúc nổi các
hoa văn trang trí, đặc biệt là các hình vẽ mô tả sinh hoạt, đời sống văn hóa tĩn
ngưỡng của người Việt thời bấy giờ. Người thợ đúc đồng thời kỳ này đã chế tạo
- 4 -
được nhiều loại công cụ sản xuất bằng đồng như lưỡi cày, lưỡi cuốc, xẻng, thuổng,
rìu, đục, mũi nhon…; nhiều loại đồ đựng bằng đồng như thạp, thố, âu, chậu, sành;
những đồ dùng đẹp như khóa thắt lưng, môi bằng đồng; nhiều thứ vũ khí bằng đồng
như dao găm, giáo, mũi lao, mũi tên…
Vào thời kỳ này, người Đông Sơn trên địa bàn Thanh - Nghệ - Tĩnh không những
phải đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn mà còn thường xuyên đối phó với nạn
ngoại xâm. Do vậy, trong một số di chỉ có niên đại Đông Sơn, tỉ lệ vũ khí trong tổng

số hiện vật khá cao: Đông Sơn có 519 vũ khí trong số 1026 hiện vật; Làng Vạc có
120 vũ khí trong số 475 hiện vật. Nhìn chung, tỉ lệ vũ khí lên tới trên 50% tổng số
hiện vật.
Nghề luyện sắt cũng đã xuất hiện và có những bước phát triển đáng kể trong giai
đoạn văn hóa Đông Sơn. Sự phát triển của nghề luyện kim đã thúc đẩy sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế và dẫn đến những chuyển biến sâu xa trong đời sống xã hội.
Trong các nghề thủ công, nghề làm đồ đá dần dần mất đi vai trò của nó. Nghề làm
đồ gốm, nghề kéo sợi dệt vải tiếp tục phát triển, cung cấp các loại đồ đựng, đồ dùng
trong sinh hoạt và đồ may mặc cho con người. Cơ sở kinh tế chủ yếu là nông nghiệp
trồng lúa nước có nhiều tiến bộ quan trọng. Những lưỡi cày đồng đã thay thế dần
những chiếc cuốc đá và nền nông nghiệp dùng cuốc đã chuyển dần sang nông nghiệp
dùng cày. Cây lúa trồng lúc bấy giờ gồm cả lúa tẻ, lúa nếp. Cùng kết hợp với nông
nghiệp trồng lúa, có các nghề hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Trâu, bò, lợn,
gà đã trở thành gia súc quen thuộc của con người.
Những tiến bộ về kỹ thuật, những thành tựu về kinh tế đã làm cho đời sống vật
chất và tinh thần của con người ngày càng phong phú hơn. Tượng phụ nữ trên cán
dao găm, hình người chạm khắc trên trống đồng, những đồ án trang trí trên đồ đồng,
đồ gốm, hình dáng của các công cụ, vũ khí chứng tỏ một bước phát triển cao của tư
duy, thẩm mĩ và nghệ thuật tạo hình. Công xã thị tộc tan rã nhường chỗ cho công xã
nông thôn mà trong tiếng Việt cổ gọi là kẻ, chạ, chiềng. Con người sống gắn bó
trong những quan hệ cộng đồng của xóm làng, họ hàng với những hội mùa hàng năm
- 5 -
rộn ràng tiếng trống đồng, tiếng chiêng, tiếng lục lạc, say sưa trong điệu múa và
những sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của cư dân nông nghiệp lúa nước.
 Kết luận:
- Người Đông Sơn đã chiếm lĩnh các đồng bằng, dọc lưu vực các con sông
lớn, ngã ba sông, vùng trung du, miền núi và hải đảo. Cư dân Đông Sơn sống tập
trung thành từng làng trù mật, rộng lớn.
- Công nghệ luyện kim đạt đến đỉnh cao, đúc nhiều đồ đồng: trống, thạp, thố,
dao găm, mũi tên, cày Thành thục kỹ thuật làm khuôn, tạo vật pha chế hợp kim và

bước đầu phát triển nghề luyện sắt.
- Nghề nông nghiệp lúa nước phát triển rộng rãi, nghề làm vườn và chăn nuôi
gia súc. Nông nghiệp dùng cày kim loại và dùng sức kéo của động vật.
- Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương là Nhà nước đầu tiên của Việt Nam
và Đông Nam á, có tổ chức quân đội, trang bị nhiều loại vũ khí, cung nỏ. Kinh đô Cổ
Loa đã có thành, hào bao bọc xung quanh.
Có thể nói, lưu vực sông Mã, sông Cả là một trong những trung tâm của văn
hóa Đông Sơn, đã góp phần xứng đáng và là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời
của đất nước Văn Lang - Âu Lạc.
1.3.2. Thanh - Nghệ - Tĩnh thời Bắc thuộc
a. Chính sách đô hộ và đồng hoá của phong kiến phương Bắc
- Sau khi chiếm được Âu Lạc, năm 179 TCN, Triệu Đà chia nước ta thành 2
quận: Giao Chỉ (vùng châu thổ Bắc Bộ) và Cửu Chân (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh). Mục đích nhằm biến nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Năm 111
TCN, nhà Hán đánh bại Triệu Đà, đô hộ nước Nam.
Chính sách của nhà Hán là chế độ lạc tướng, người Việt quản lý ở cấp huyện. Sau
khởi nghĩa Hai Bà Trưng, đưa quan lại nhà Hán sang cai trị đến cấp huyện.
Năm 905, Khúc Thừa Dụ đánh thắng nhà Đường, chấm dưt 1000 năm Bắc thuộc
trên đất nước ta và vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh.
- 6 -
- Chính sách đồng hoá trên mọi phương diện:
+/. Di dân người Hán đến ở lẫn với người Việt để đồng hoá, lai máu, thay đổi
phong tục tập quán của người Việt. Các quan lại nhà Hán (Nhâm Diên, Sỹ Nhiếp,
Tích Quang ) đã tổ chức đám cưới cho người Việt và người Hán, con cái của họ sau
lấy họ của những người này. Tên họ của người Việt cũng ảnh hưởng của Trung Hoa
bắt đầu từ đây.
+/. Nho giáo được truyền vào nước ta, là hệ tư tưởng của bộ máy cai trị phong
kiến Trung Hoa. Về sau, các triều đại phong kiến nước ta vẫn lấy hệ tư tưởng Nho
giáo để điều hành đất nước.
+/. Chữ Hán và văn học Trung Quốc cũng được truyền vào nước ta. Về sau nhân

dân ta trên cơ sở 214 bộ thủ chữ Hán đã sáng tạo ra chữ Nôm, là thứ chữ riêng của
người Việt.
b. Tên gọi:
Xứ Thanh là một cách gọi dân gian chỉ tỉnh Thanh Hoá, là một thực thể địa lý tự
nhiên và văn hoá, khiến Pierre Pasquier - viên Toàn quyền Đông Dương người Pháp
trước kia coi Thanh Hoá không chỉ là một tỉnh mà là một xứ (pays). Cái nhìn địa –
văn hoá này đã được ông cha ta từ xa xưa thấu tỏ, do vậy, dù trải qua bao nhiêu triều
đại, qua bao cuộc sát nhập và phân chia thì xứ Thanh vẫn là xứ Thanh, Thanh Hoá
vẫn là Thanh Hoá.
Trước thời Hán, Thanh Hoá thuộc quận Cửu Chân, thời Hán quận Cửu Chân
thuộc bộ Giao Chỉ. Thời nhà Lương đổi Cửu Chân thành Ái Châu.
Xứ Nghệ là một cách gọi dân gian giống như xứ Huế, xứ Thanh để chỉ vùng đất
thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Xứ Nghệ còn có tên gọi khác là Nghệ
Tĩnh (đây là cách gọi rút ngắn từ hai tên riêng của hai tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh.
Khác với tên xứ Nghệ, tên Nghệ Tĩnh không chỉ là cách gọi thông thường, mà có
thời kỳ được làm tên gọi chính thức của một tỉnh – tỉnh Nghệ Tĩnh, do sự sát nhập
hai tỉnh Nghệ An và Hà Tình làm một, tồn tại từ năm 1975 đến 1991.
- 7 -
Thời nhà Hán cai trị nước ta, vùng đất Nghệ An và Hà Tĩnh được coi là Hàm
Hoan, coi đó như là một huyện của quận Cửu Chân (bao gồm cả Thanh Hoá, Nghệ
An và Hà Tĩnh ngày nay). Đến thế kỷ III, người Hán đổi tên Hàm Hoan thành Cửu
Đức, đến thời đường đổi thành Hoan Châu. Đến cuối thế kỷ VIII, đô hộ nhà Đường
lại tách Hoan Châu thành hai phần, phần Bắc gọi là Diễn Châu, phần Nam vẫn giữ
tên cũ là Hoan Châu.
Suốt thời kỳ Bắc thuộc, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các tỉnh Thanh -
Nghệ - Tĩnh cũng chịu sự bóc lột, vơ vét tàn bạo và chính sách đông hoá dân tộc,
khủng bố, đàn áp tàn bạo của các triều đại phong kiến phương Bắc nhằm biến nước
ta thành quận, huyện của chúng, biến dân tộc Việt thành dân tộc Hán, người Việt
thành người Hán.
c. Các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu của nhân dân:

*. Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248.
Năm 248, một cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân Cửu Chân đã bùng nổ. Lãnh tụ
của nghĩa quân là Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh. Bà Triệu quê ở huyện Nông Cống
(tỉnh Thanh Hóa), là người phụ nữ có chí khí hơn người, có hoài bão đánh giặc ngoại
xâm giành lại độc lập cho đất nước. Đêm đêm, bà thường cùng anh là Triệu Quốc
Đạt vào rừng tập luyện quân sĩ, chuẩn bị khởi nghĩa.
Năm vừa tròn 19 tuổi, Triệu Thị Trinh cùng anh hô hào nhân dân trong vùng nổi
dậy. Cuộc khởi nghĩa được dân chúng Cửu Chân hưởng ứng nhiệt liệt và nhanh
chóng lan tỏa ra quận Giao Chỉ. Nghĩa quân chiến đấu liên tiếp nhiều trận, thế lực
ngày càng mạnh, quân số có tới hàng vạn người. Nhà Ngô lo sợ, phải điều động hơn
8000 quân do An Nam hiệu úy, thứ giả Giao Châu là Lục Dận chỉ huy sang đàn áp.
Triệu Quốc Đạt bị hi sinh trong trận chiến đấu với quân Ngô, Triệu Thị Trinh thay
anh chỉ huy nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng trong nhiều trận, nhưng lực lượng bị
tiêu diệt dần, liệu thế không chiến đấu nổi, bà đã chạy lên núi Tùng Sơn tự vẫn.
Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại, nhưng đã khẳng định tinh thần yêu nước, bất khuất
sáng ngời của nhân dân Thanh Hóa nói riêng và nhân dân ta nói chung từ thời Trung
- 8 -
nữ vương. Nó đánh dấu bước trưởng thành của phong trào đấu tranh vũ trang giành
độc lập của nhân dân ta lúc bấy giờ.
Tùng Sơn nắng quyện mây trời
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh
Sử sách đã ghi lại rằng: Bà mặc áo giáp vàng, cài trâm vàng, đi guốc ngà, cưỡi
voi trận, nói lời khí phách: “Ta chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ,
chém cá kình biển đông, đánh đuổi giặc Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chớ
không chịu khom lưng làm tỳ thiếp ”.
*. Mai Thúc Loan với khởi nghĩa Hoan Châu năm 722.
- Nguyên nhân: Từ nửa cuối thế kỷ VII, dưới sự cai trị hà khắc và tham lam của
viên An Nam đô hộ Lưu Diên Hựu, nhân dân nhiều nơi đã nổi dậy khởi nghĩa. Tuy
nhiên, vào đầu thế kỷ VIII, bọn quan lại nhà Đường lại càng ra sức hoành hành, cướp
ruộng đất, hạch sách nhân dân. Ách lao dịch nặng nề, cống nạp phiền nhiễu. Nhân

dân hàng năm còn phải vận chuyển nhiều thức ngon, vật lạ cống nạp cho nhà Đường.
Điều này làm cho nhân dân ta rất căm phẫn, đó là lí do dẫn đến cuộc khởi nghĩa của
Mai Thúc Loan.
Mai Thúc Loan người Thiên Lộc (Hà Tĩnh), sau theo mẹ đến trú ngụ ở huyện
Nam Đàn (Nghệ An) làm nghề đốn củi kiếm sống, rồi ở đợ cho nhà giàu. Ông là một
thanh niên có sức khỏe, nhanh nhẹn, da đen nên sau này nhân dân gọi là Mai Hắc Đế
(vua Đen).
Năm 713, Mai Thúc Loan hiệu triệu dân phu nổi dậy khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa
được nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt. Nhiều nghĩa sĩ, nhân tài khắp vùng Thanh,
Nghệ, Tĩnh đã kéo về tụ nghĩa dưới cờ của Mai Thúc Loan. Nhiều quân lính thuộc
các quốc gia Chămpa, Chân Lạp, Kim Lân cùng với 32 châu quanh vùng đã liên kết
với nghĩa quân. Mai Thúc Loan tự xưng là hoàng đế, xây thành trên núi và lấy vùng
Sa Nam hiểm yếu làm căn cứ chống giặc.
Nhà Đường được tin đã cử Dương Tư Húc cùng An Nam đô hộ phủ là Quang Sở
Khách đem 10 vạn quân tiến sang đàn áp. Nghĩa quân sau nhiều trận chiến đấu đã
- 9 -
thất bại, tan rã, chạy vào rừng, Mai Thúc Loan chết ở đó, kết thúc một cuộc khởi
nghĩa khá tiêu biểu của nhân dân ta chống lại nhà Đường ở nửa đầu thế kỷ VIII.
1.3.3. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thời kỳ độc lập tự chủ (từ 905 đến 1858)
- Tên gọi: Bắt đầu từ thời phong kiến độc lập tự chủ, Thanh Hoá vẫn thuộc Ái
Châu. Đến thời Lý, đổi thành phủ Thanh Hoá, danh xưng Thanh Hoá bắt đầu có từ
đó (Thanh: trong sáng; Hoá: biến hoá). Sau này, trải qua các triều đại, có lúc Thanh
Hoá được gọi là phủ, trấn, lộ, trại, thừa tuyên, thậm chí, cái tên Thanh Hoá có từ thời
Lý cũng có lúc đổi thành Thanh Đô, Tây Đô, Thanh Hoa. Năm 1802, gọi là trấn
Thanh Hoá, năm 1831, đổi trấn thành tỉnh, bắt đầu gọi là tỉnh Thanh Hoá (Hoa: tinh
hoa). Năm 1841, lại đổi thành tỉnh Thanh Hoá.
Thời kỳ đầu của phong kiến tự chủ Đại Việt vẫn dùng địa danh Hoan Châu và
Diễn Châu để chỉ vùng đất Nghệ An và Hà Tĩnh. Tuy nhiên, đến thời Lý Thái Tông
(1033), nhà nước gộp Hoan Châu và Diễn Châu thành một đơn vị hành chính, đặt tên
mới là châu Nghệ An, cái tên Nghệ An chính thức ra đời từ thời nhà Lý, thế kỷ XI.

Đến năm 1469, Lê Thánh Tông gọi vùng đất này là thừa tuyên Nghệ An, đến thời
Gia Long, đổi thừa tuyên Nghệ An thành trấn Nghệ An. Thời Minh Mạng tách trấn
Nghệ An thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, tên gọi hai tỉnh này tồn tại cho đến
năm 1975.
- Các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm tiêu biểu của nhân dân Thanh - Nghệ -
Tĩnh:
a. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong khởi nghĩa Lam Sơn:
Lam Sơn (Thọ Xuân - Thanh Hóa) lúc bấy giờ theo tên Nôm là làng Cham thuộc
huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa. Lam Sơn là quê hương của người anh hùng Lê
Lợi và là căn cứ buổi đầu của cuộc kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi lãnh
đạo.
Năm 1416, Lê Lợi và 18 người đã tổ chức Hội thề Lũng Nhai (làng Mé, cách
Lam Sơn 10km), nêu cao quyết tâm đoàn kết đánh giặc Minh. Đầu năm 1418, Lê Lợi
- 10 -
dựng cờ khởi nghĩa, tự xưng là Bình Định vương, truyền Hịch kêu gọi nhân dân
đứng lên cứu nước.
Bình Định vương cùng nghĩa quân đã chiến đấu ở Thanh Hóa 6 năm. Trong 6
năm đầu gian khó ấy, tại Thanh Hóa đã diễn ra các trận đánh lớn: Lam Sơn, Mường
Một (Thường Xuân); Mường Chính, Bến Bổng (vùng thượng du sông Âm); Ba Lẫm
(Bá Thước); Kình Động (Bá Thước); Úng Ải (Bá Thước); Sách Khôi (Bá Thước);
Đa Càng (Thọ Xuân). Trong đó, có trận đánh phía địch có 10 vạn tên như ở Kình
Động. Mùa đông năm 1424, Bình Định vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách
của Nguyễn Chích.
Như vậy, Thanh Hóa là địa bàn hoạt động đầu tiên của nghĩa quân Lam Sơn trong
cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Địa bàn này diễn ra những trận chiến
đấu quyết liệt của nghĩa quân với quân Minh. Tuy nhiên, với tài năng, uy tín của
người đứng đầu và lòng yêu nước của nhân dân đã đưa cuộc khởi nghĩa vượt qua
thời kỳ đầu đầy gian khó, củng cố căn cứ địa, không cho giặc đàn áp, dập tắt cuộc
khởi nghĩa.
Vượt qua thời kỳ đầu củng cố căn cứ địa, năm 1424, nghĩa quân chuyển sang giai

đoạn phát triển, theo kế của Nguyễn Chích, tiến xuống vùng đồng bằng Nghệ An.
Theo đúng kế hoạch, tháng 10 - 1424, nghĩa quân đã tiến công thành Trà Lân
(Tương Dương, Con Cuông - Nghệ An) do ngụy quan Cầm Bành với hơn 1000 quân
trấn giữ. Sau 2 tháng bị bao vây, Cầm Bành phải đầu hàng. Chiếm được thành Trà
Lân, nghĩa quân đã khai thông và kiểm soát được con đường từ miền núi xuống vùng
đồng bằng.
Sau khi diệt địch trong trận phục kích ở Khả Lưu, Bồ Ải (Anh Sơn), nghĩa quân
tiến xuống giải phóng toàn bộ các châu, huyện của Nghệ An, đồng thời vây hãm chặt
thành Nghệ An trong nhiều tháng. Thành này do tướng giặc Trần Trí và sau là
Phương Chính trấn giữ. Nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh nhất tề nổi dậy tham gia,
hưởng ứng cuộc khởi nghĩa, tự nguyện và hăng hái góp phần vào sự nghiệp cứu
nước. Nghĩa quân đến đâu, nhân dân ở đó đứng lên gia nhập nghĩa quân, tiếp thêm
- 11 -
lương thực và góp sức cùng nghĩa quân giải phóng các châu, huyện. Những lực
lượng chống quân Minh đang hoạt động trong vùng đều gia nhập vào hàng ngũ nghĩa
quân Lam Sơn như Phan Liêu, Lộ Văn Luật (ở miền tây Hà Tĩnh), Nguyễn Biên
(Cẩm Xuyên – Hà Tĩnh), Nguyễn Vĩnh Lộc ở Trang Niên (Yên Thành)…
Có nơi, nhân dân còn nổi dậy tự vũ trang để phối hợp với nghĩa quân giải phóng
quê hương, tiêu biểu là trường hợp của Nguyễn Tuấn Thiện ở Đỗ Gia (Hương Sơn –
Hà Tĩnh). Từ các xóm làng miền xuôi đến các bản mường miền núi, các tầng lớp xã
hội và thành phần dân tộc đều quy tụ lại dưới lá cờ cứu nước của Bình Định vương
Lê Lợi.
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, toàn phủ Nghệ An đã trở thành căn cứ của cuộc
khởi nghĩa. Chỉ huy sở của Lê Lợi lúc đầu đặt ở động Tiên Hoa (Hương Sơn) sau dời
về thành Lục Niên trên núi Thiên Nhẫn. Tại đây, bộ tham mưu của nghĩa quân chỉ
đạo quân, dân hết lòng xây dựng, bảo vệ căn cứ địa và chuẩn bị mọi mặt để đưa cuộc
chiến tranh yêu nước đến toàn thắng.
Từ phủ Nghệ An, tháng 6 - 1425, nghĩa quân tiến ra giải phóng phủ Diễn Châu,
căn cứ địa của cuộc kháng chiến được mở rộng trên quy mô lớn, nhờ đó, lực lượng
của nghĩa quân trưởng thành về mọi mặt và cuộc khởi nghĩa phát triển thành cuộc

chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính nhân dân sâu rộng, có căn cứ địa vững
chắc, hùng hậu.
Với “đất đứng chân” của Nghệ An - Hà Tĩnh, năm 1425, nghĩa quân Lam Sơn
tiến ra giải phóng Thanh Hóa, tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa, rồi năm
1426, mở cuộc tiến công ra Bắc. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc do Lê Lợi lãnh
đạo phát triển rộng ra quy mô cả nước và giành thắng lợi quyết định vào cuối năm
1427 với chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang vang dội.
Như vậy, trong thắng lợi huy hoàng của sự nghiệp “bình Ngô” của dân tộc đầu
thế kỷ XV, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đã thể hiện rõ là một địa bàn chiến lược
quan trọng. Nhân dân các tỉnh nơi đây đã có những đóng góp quyết định cho cuộc
khởi nghĩa ngay từ những ngày đầu đầy gian khó cho đến thắng lợi cuối cùng.
- 12 -
1.3.4. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong phong trào giải phóng dân tộc từ 1858 -
1945:
a. Thanh - Nghệ - Tĩnh trong Phong trào Cần Vương:
Ngày 1 - 9 - 1858, thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược Việt Nam, trong
khi đó, triều Nguyễn lại đang chìm vào khủng hoảng, suy vong. Với ưu thế hơn hẳn
của một nước tư bản đang trên đà phát triển, thực dân Pháp đã lấn át, gặm dần, nuốt
trỏng Việt Nam, biến Việt Nam từ một nước độc lập, tự chủ thành một nước thuộc
địa vẫn còn tàn dư phong kiến.
Hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, văn thân, sĩ phu và nhân dân
Nghệ Tĩnh đã đứng dậy phò vua , cứu nước. Chính nơi đây là địa bàn quan trọng
nhất, diễn ra các cuộc khởi nghĩa quyết liệt nhất trong phong trào Cần Vương chống
Pháp cuối thế kỷ XIX.
*. Khởi nghĩa Hương Khê:
Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất và kéo dài nhất
trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao
gồm 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, trong đó, địa bàn chính là
Nghệ An, Hà Tĩnh. Cuộc khởi nghĩa phát triển qua hai thời kì: từ 1885 đến 1888 là
thời kỳ xây dựng và tổ chức lực lượng; từ 1889 đến 1895 là những năm chiến đấu

của nghĩa quân.
Sau khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương (7 – 1885), ở Hà Tĩnh đã bùng
nổ nhiều phong trào đấu tranh vũ trang.
Cuộc khởi nghĩa đầu tiên là của Lê Ninh ở Trung Lễ (Đức Trung - Đức Thọ).
Cuối năm 1885, Lê Ninh tổ chức tấn công vào thành Hà Tĩnh, giết chết tên Bố chánh
Lê Đại. Sau đó, nghĩa quân kéo lên Hương Khê, vừa để tránh sự truy nã, vây hãm
của giặc Pháp, vừa nhằm phối hợp tác chiến với đội quân của Phan Đình Phùng.
Nhưng không may, đến giữa năm 1886, Lê Ninh bị bệnh mất, em ông là Lê Trực đã
thay ông, sau này trở thành một thủ lĩnh của nghĩa quân Hương Khê.
- 13 -
Cùng với khởi nghĩa của Lê Ninh, còn có các cuộc khởi nghĩa khác như: Khởi
nghĩa của Cao Thắng, Cao Nữu ở Hàm Lại, Sơn Lễ (Hương Sơn); Khởi nghĩa của
Nguyễn Trạch và Nguyễn Chanh ở Can Lộc; Khởi nghĩa của Ngô Quảng và Hà Văn
Mỹ ở Nghi Xuân; Khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Thuận ở Thạch Hà; Ở làng Đông
Thái (Đức Thọ) có đội quân Phan Đình Phùng.
Tại Nghệ An, cũng xuất hiện nhiều lực lượng chống Pháp, tiêu biểu nhất là đội
quân của Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ. Cuộc khởi nghĩa của hai ông tồn tại đến
năm 1887.
Trên cơ sở các cuộc khởi nghĩa đó, Phan Đình Phùng đã tập hợp và phát triển
thành một phong trào có quy mô rộng lớn khắp bốn tỉnh bắc Trung Kì, với địa bàn
chính ở Hương Khê (Hà Tĩnh), tồn tại suốt 10 năm liên tục.
Vượt qua thời kỳ khó khăn ban đầu, lực lượng của nghĩa quân sau một thời
gian đã phát triển tới hàng ngàn người. Lực lượng nghĩa quân phân bố thành 15 quân
thứ, tuân theo những quy định về kỷ luật do cụ Phan thảo ra. Đạiu bản doanh của
Phan Đình Phùng đặt tại khu Ngàn Trươi, Vụ Quang. Khởi nghĩa Hương Khê trở
thành nơi hội tụ của một số lực lượng vũ trang chống Pháp ở các tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
Các đồn giặc ở tỉnh lị Hà Tĩnh, Trường Lưu (Can Lộc), Nầm (Hương Sơn),
Linh Cảm (Đức Thọ), Voi (Kỳ Anh)… bị nghĩa quân tấn công liên tiếp.
Lo sợ trước sự phát triển của phong trào, thực dân Pháp đã tập trung lực

lượng, mở nhiều cuộc tấn công ác liệt vào trung tâm căn cứ và tìm cách cắt đứt liên
lạc của nghĩa quân với nhân dân vùng xuôi.
Để phá thế bị bao vây, cuối năm 1893, Cao Thắng đề nghị với Phan Đình
Phùng một kế hoạch táo bạo đánh thẳng vào Nghệ An. Trên đường tiến quân, nghĩa
quân đã tổ chức đánh chiếm đồn Nu ở Thanh Chương. Trong trận này, Cao Thắng bị
thương nặng và hi sinh. Từ đây, khởi nghĩa Hương Khê ngày càng khó khăn.
Bước vào những năm 90 của thế kỷ XIX, giặc Pháp hầu như đã dập tắt được
những cuộc khởi nghĩa ở các nơi khác nên rảnh tay đối phó với nghĩa quân Phan
- 14 -
Đình Phùng. Chúng kết hợp nhiệu thủ đoạn, vừa tấn công quân sự, vừa ra sức dụ
hàng, ly gián nhân dân với nghĩa quân. Tuy nhiên, đêm đêm, các đội tiếp tế vẫn bí
mật chuyển lương thảo lên căn cứ Ngàn Trươi, Vụ Quang. Giữa vòng vây của giặc,
vượt qua muôn vàn gian khổ, hi sinh, nghĩa quân đã chiến đấu oanh liệt, làm nên
những chiến thắng vang dội ở Đại Hàm, Cây Khế và nhất là trận Vụ Quang nổi
tiếng.
Tháng 8 – 1895, thực dân Pháp cấu kết với phong kiến Nam triều, phái
Nguyễn Thân với danh nghĩa Khâm sai tiết chế, kéo thêm 3000 lính khố xanh ra phối
hợp với lực lượng của Pháp ở Hà Tĩnh khép chặt vòng vây, chặn đường tiếp tế, tìm
mọi thủ đoạn tiêu diệt nghĩa quân.
Trong một trận giao chiến với giặc, Phan Đình Phùng bị thương nặng. Ngày
28 - 12 - 1895, ông đã qua đời tại đại bản doanh Núi Quạt (Vụ Quang). Khởi nghĩa
Hương Khê tiếp tục kéo dài thêm một thời gian, sang đến năm 1896 mới hoàn toàn
chấm dứt.
Khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần
Vương chống Pháp của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX.
*. Khởi nghĩa Ba Đình:
Khởi nghĩa Ba Đình dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng, Phạm Bành,
Hoàng Bật Đạt và một số tướng lĩnh khác.
Căn cứ Ba Đình cách huyện lị Nga Sơn 4 km, phía tây bắc giáp huyện Hà Trung,
được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê. Vào mùa

mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước mênh mông, tách
biệt với các làng khác.
Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng có một cái đình, từ làng này có thể nhìn
thấy đình của hai làng kia. Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh Công Tráng đã cho
bao bọc xung quanh căn cứ lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, cắm đầy chông
tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3 m, chân rộng từ 8 đến 10 m. Trên mặt thành,
nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở làm lỗ
- 15 -
châu mai sẵn sàng chiến đấu. Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía trong thành có hệ
thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực và vận động khi chiến đấu. Tại
các nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các hầm chiến đấu được xây dựng theo
hình chữ “chi”, nhằm hạn chế thương vong. Ở mỗi làng, tại vị trí ngôi đình được xây
dựng một đồn đóng quân: Thượng Thọ có đồn Thượng; Mậu Thịnh có đồn Trung;
Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn công,
đồng thời cũng có thể chiến đấu độc lập.
Có thể nói rằng, căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng
ngự quy mô nhất thời kì Cần Vương cuối thế kỷ XIX. Ngoài Ba Đình còn có các căn
cứ hỗ trợ: Căn cứ Phi Lai của Cao Điển, căn cứ Quảng Hóa của Trần Xuân Soạn, căn
cứ Mã Cao của Hà Văn Mao.
Lực lượng nghĩa quân Ba Đình gồm khoảng 300 người, tuyển từ ba làng và các
vùng Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa quân có 10 toán.
Về vũ khí, nghĩa quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo, mác, cung, nỏ.
Nghĩa quân của Đinh Công Tráng đã đánh nhiều trận giành thắng lợi. Năm 1886,
nghĩa quân liên tiếp tấn công các phủ, thành, huyện lị, chặn đánh các đoàn xe, các
toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12 – 3 – 1886, lợi dụng phiên
chợ, nghĩa quân đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa.
Từ ngày 18 – 12 – 1886 đến ngày 20 – 1 – 1887, quân Pháp đã điều 76 sĩ quan và
3.500 quân vây hãm và tiến đánh Ba Đình. Quân Pháp đã nã tới 16.000 quả đại bác
trong vòng một ngày trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa.
Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm chống lại kẻ thù đông

gấp 12 lần, được trang bị vũ khí tối tân, hiện đại. Trong những trận chiến đấu vô
cùng ác liệt này, nghĩa quân đã mưu trí dũng cảm, bám trụ từng tấc đất, đập tan
nhiều cuộc tấn công, gây tổn thất nặng nề cho quân đội Pháp, làm chấn động tinh
thần binh lính Pháp ở Việt Nam và còn là nỗi lo sợ cho bọn Pháp ở chính quốc.
Tuy nhiên, vì lực lượng quá nhỏ không thể đương đầu với quân đội Pháp vừa
đông vừa mạnh nên lực lượng của nghĩa quân Ba Đình bị thương vong rất nhiều.
- 16 -
Để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, nghĩa quân Ba Đình đã mở con đường máu
vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút khỏi lên căn cứ Mã Cao nhằm củng cố
lực lượng và chuẩn bị cuộc chiến đấu mới.
Đến sáng ngày 21 – 1 – 1887, quân Pháp mới chiếm đợc Ba Đình. Sau đó, quân
Pháp đã triệt hạ hoàn toàn cả ba làng của căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho quân truy kích
nghĩa quân ở Mã Cao, rồi tiếp tục đến Thung Voi, Thung Khoai và cuối cùng là tận
miền tây Thanh Hóa – nơi đóng quân của Cầm Bá Thước.
Các thủ lĩnh như Nguyễn Khế, Hoàng Bật Đạt hi sinh; Phạm Bành, Hà Văn Mao,
Lê Toại tự sát; Đinh Công Tráng chạy về Nghệ An, quân Pháp treo giải cái đầu ông
với trị giá tiền thởng rất cao. Mùa hè năm 1887, vì tham tiền nên viên Lí trưởng làng
Chính An đã mật báo cho quân Pháp đến bắt và sát hại Đinh Công Tráng.
Cuộc khởi nghĩa Ba Đình nói chung và lãnh tụ Đinh Công Tráng được lịch sử
đánh giá rất cao, nó thể hiện lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của nhân dân Thanh
Hóa trong Phong trào Cần Vương.
Chính người Pháp đã phải thừa nhận: “1886 – 1887, cuộc công hãm Ba Đình là
quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút nhiều quân lực nhất và làm cho các cấp
chỉ huy lo ngại nhiều nhất”.
b. Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh:
- Hoàn cảnh lịch sử: Là một nước tư bản phát triển, thực dân Pháp cũng chịu ảnh
hưởng r ất lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933). Thực dân Pháp
đã trút gánh nặng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933) lên vai các nước
thuộc địa trong đó có Việt Nam làm cho đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, nhất là
nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Chính sách khủng bố nặng nề của thực dân

Pháp, nhất là sau khởi nghĩa Yên Bái thất bại đã làm cho nhân dân ta càng căm thù
và quyết tâm đấu tranh giành độc lập, giành quyền sống. Trong lúc đó, Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời đã kịp thời lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân đứng lên
đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Trong những nguyên nhân chung kể trên, ở
Nghệ Tĩnh còn có những nguyên nhân riêng của nó. Chính những nguyên nhân riêng
- 17 -
đó đã khiến cho phong trào cách mạng 1931 – 1931 ở Nghệ – Tĩnh phát triển đến
đỉnh cao và là nơi diễn ra nhiều cuộc đấu tranh của công nông quyết liệt nhất.
- Các cuộc đấu tranh tiêu biểu của nhân dân Nghệ Tĩnh:
+ Ngày 1 - 5 - 1930, diễn ra cuộc đấu tranh của hơn 1000 nông dân hai huyện
Hưng Nguyên, Nghi Lộc do công nhân Vinh - Bến Thủy làm nòng cốt với yêu sách
đòi tăng lương, giảm giờ làm, giảm sưu thuế.
+ Ngày 30 - 8 - 1930, 3000 nông dân huyện Nam Đàn biểu tình, vũ trang kéo đến
huyện lị, phá huyện đường, mở cửa nhà giam, giải phóng tù chính trị.
+ Ngày 1 - 9 - 1930, trên 2 vạn nông dân huyện Thanh Chương rầm rộ tổng biểu
tình vào huyện đường. Với khí thế cách mạng ngút trời, quần chúng đã tràn vào phá
nhà giam, thiêu hủy huyện đường.
+ Ngày 12 - 9 - 1930, hơn 8000 nông dân các xã trong huyện Hưng Nguyên có
vũ trang kéo lên huyện lị. Máy bay của Pháp đã ném bom khi đoàn biểu tình vừa tới
làng Thái Lão (cách huyện lị 2 km) làm nhiều người chết và bị thương. Đến chiều,
khi đồng bào ra tìm nhặt xác các người chết thì máy bay địch lại tới ném bom lần thứ
hai. Cả hai lần làm 217 người chết và 125 người bị thương.
Như vậy, từ cuộc tổng đình công của công nhân Vinh - Bên Thủy đến cuộc tổng
biểu tình của nông dân hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương, cao trào cách mạng ở
Nghệ Tĩnh đã đạt tới cao điểm. Bằng bạo lực cách mạng với hình thức đấu tranh
chính trị là chủ yếu, kết hợp chặt chẽ giữa thành thị với nông thôn, quần chúng cách
mạng Nghệ Tĩnh đã tấn công dồn dập vào thực dân phong kiến, làm rung chuyển bộ
máy chính quyền của chúng từ tỉnh, huyện xuống đến xã. Trước khí thế xung thiên
của quân chúng cách mạng, bọn phủ, huyện nhiều nơi trong tỉnh đều bỏ trốn. Tổng lý
các xã như rắn mất đầu, hoang mang khiếp sợ, nhiều tên đã mang sổ sách, triện bạ

nộp cho cách mạng. Ban chấp hành nông hội đỏ (xã bộ nông) đứng ra quản lí mọi
mặt đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở nông thôn, làm nhiệm vụ của chính quyền
nhân dân theo kiểu chính quyền Xô Viết.
- 18 -
Từ tháng 9 - 1930 đến đầu năm 1931, chính quyền Xô Viết đã ra đời ở nhiều địa
phương thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nó đã làm đúng chức năng của một
chính quyền cách mạng, chính quyền của dân, do dân và vì dân.
Tuy nhiên, trong cuộc đọ sức hết sức chênh lệch này, các chính quyền Xô Viết đã
nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp và gìm trong biển máu. Nhiều cán bộ, đảng
viên bị bắt, bị tù đày, các cơ sở Đảng bị tan rã, phong trào cách mạng tạm thời lắng
xuống.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh có một vị trí
đặc biệt quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta nói chung, của
nhân dân Nghệ Tĩnh nói riêng.
1.3.5. Thanh - Nghệ - Tĩnh từ 1945 đến nay:
a. Cách mạng Tháng Tám:
Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã trải qua các thời kỳ thăng trầm của cách mạng. Năm 1945, khi thời cơ cách
mạng ngàn năm có một đến với dân tộc, với sự chuẩn bị chu đáo, nhân dân Thanh -
Nghệ - Tĩnh đã đứng lên giành chính quyền cách mạng.
Sau khởi nghĩa tháng Tám 1945 giành thắng lợi, cùng với nhân dân cả nước,
Thanh - Nghệ - Tĩnh bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Trong hai
cuộc kháng chiến này, nhân dân Thanh - Nghệ - Tĩnh với tư cách là hậu phương,
luôn có những đóng góp rất lớn về người và của để làm nên những chiến công hiển
hách của dân tộc.
 Ý nghĩa:
- Cách mạng tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó phá tan
xiềng xích của thực dân Pháp và phát xít Nhật trên đất nước ta. Nước ta giành
được độc lập dưới chế độ dân chủ cộng hoà.
- 19 -

- Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đánh dấu bước nhảy vọt của Cách mạng
Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới: giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai
cấp công nhân, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
- Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh
của nhân dân các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trên thế giới.
b. Kháng chiến chống Mỹ cứu nước:
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước “mãi mãi được ghi vào
lịch sử dân tộc ta một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời
về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi
vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm
quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.
- Chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong
kiến ở nước ta.
- Mở ra kỷ nguyên mới của đất nước: kỷ nguyên độc lập dân tộc, thống nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội.
- Cỗ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, các dân tộc đang đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
CHƯƠNG 4:
VĂN HOÁ ĐỊA PHƯƠNG
BÀI 1: KHÁI LƯỢC VĂN HOÁ VÙNG BẮC TRUNG BỘ
1. Cơ sở hình thành văn hoá khu vực Bắc Trung Bộ:
Vùng văn hoá Bắc Trung Bộ được hình thành bởi rất nhiều nhân tố. Chúng ta
có thể dựa vào những yếu tố quy định sắc thái văn hoá của các địa phương trong cả
nước để xác định không gian văn hoá của các vùng văn hoá và các tiểu vùng.
- Vị trí địa lý và môi trường sinh thái
- Phương thức sản xuất
- Nguồn gốc lịch sử
- 20 -
- Nguồn gốc tộc người
- Ngôn ngữ

- Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
- Quan hệ, giao lưu, ảnh hưởng văn hoá
- Vai trò của vùng trung tâm
Có 8 nhân tố cơ bản tạo nên vùng văn hoá:
- Môi trờng tự nhiên: Môi trờng đồng bằng, miền núi, cao nguyên, duyên
hải… là một trong những nhân tố quy định tạo nên vùng văn hoá.
- Hoạt động sản xuất: Là hình thức con ngời khai thác, thích ứng với điều kiện
tự nhiên để tạo ra của cải vật chất. Ở nơi nào có sự tơng đồng về điều kiện tự nhiên,
trình độ phát triển và hoạt động sản xuất thì ở đó có sự tơng đồng về văn hoá.
- Truyền thống lịch sử: C dân sinh sống trong một vùng vì có cùng nguồn gốc
lịch sử nên giữa họ vẫn giữ lại những tơng đồng văn hoá bền vững.
- Nguồn gốc tộc ngời: Trong một vùng văn hoá chỉ có một tộc ngời sinh sống
thì tính thống nhất văn hoá của nó đã có ngay từ cội nguồn. Và trong một vùng có
nhiều dân tộc, để tạo thành những đặc trng văn hoá chung của vùng thì trong quá
trình lịch sử giữa các tộc ngời đã có mối quan hệ giao lu, ảnh hởng sống động.
- Ngôn ngữ: Đây là một nhân tố quan trọng vì nó là phơng tiện để sáng tạo và
chuyển tải văn hoá, nhất là văn hoá dân gian. Ở các dân tộc khác nhau, nói ngôn ngữ
khác nhau cũng có thể có cùng mô típ văn hoá chung, thể hiện trong các huyền thoại,
cổ tích, lễ nghi, tín ngỡng… Và ở những vùng có nhiều dân tộc cùng xen kẽ sinh
sống, thờng có khuynh hớng lấy một ngôn ngữ dân tộc có số đông nhất, trình độ phát
triển cao nhất là ngôn ngữ (phơng tiện) giao tiếp.
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội: Nhân tố này ảnh hởng tới trình độ t duy
văn hoá nghệ thuật, hình thành các hình tợng và biểu tợng văn hoá.
- Quan hệ giao lu, ảnh hởng văn hoá: Đây là nhân tố chủ đạo, giữ vai trò quan
trọng hàng đầu để hình thành nên vùng văn hoá. Trong một vùng văn hoá, không chỉ
có ngôn ngữ, tín ngỡng có sự giao thoa văn hoá mà trong cả kiến trúc, điêu khắc…
cũng còn lu giữ nhiều yếu tố đan chen giữa các tộc ngời, các nền văn hoá khác nhau.
- Vai trò của vùng trung tâm: Quy luật phát triển kinh tế - xã hội cũng nh văn
hoá không bao giờ là dàn đều, mà thờng từ các trung tâm rồi lan toả, phổ biến rộng
ra các nơi xung quanh. Vùng trung tâm là nơi phát sinh, nâng cao, tiếp nhận rồi lan

toả theo quy luật lan truyền văn hoá.
Nh vậy, không gian lãnh thổ là một tiêu chí xác định các vùng văn hoá. Tuy
nhiên không phải vì thế mà coi không gian lãnh thổ là cái khung “trói chặt” động thái
văn hoá vùng và “cô đặc” các biểu trng, giá trị văn hoá địa phơng. Bản chất văn hoá
vùng là liên văn hoá, hình thành trên cơ sở giao lu, ảnh hởng giữa văn hoá các tộc
ngời và nhóm c dân khác nhau. Vùng văn hoá là một không gian liền khoảnh, nhng
ranh giới không cụ thể, rõ ràng. Nếu có những loại biên giới nào đó thì chúng chỉ là
ranh giới mềm và mở cửa, đợc ngăn cách bởi các vùng “đệm” - vùng trung gian
chuyển tiếp. Bản sắc của văn hoá vùng đợc đo trớc hết và chủ yếu bới các biểu trng
và giá trị văn hoá.
- 21 -
2. Văn hoá khu vực Bắc Trung Bộ trong sự đối sánh với văn hoá dân tộc.
2.1. Vài nét về vùng văn hoá Bắc Trung Bộ.
Đây là vùng văn hoá giữ một vị trí đặc biệt trong nền văn hoá truyền thống
Việt Nam. Xét về địa giới, vùng văn hoá Bắc Trung Bộ thuộc các tỉnh Thanh Hoá,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ngày nay, tương
đương với quận Cửu Chân và Nhật Nam xưa (thời kỳ Đông Sơn).
Xét về phương diện lịch sử, Cửu Chân, Nhật Nam thuộc vào các Bộ của nước
Văn Lang của các Vua Hùng. Đến giữa thời Bắc thuộc thì thành hai phủ Đức Thọ và
Hà Hoà (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay). Còn Trị - Thiên - Huế, từ đầu thế kỷ XV,
sau đám cưới của công chúa Huyền Trân, trở thành miền biên ải lãnh thổ của Đại
Vịêt. Thời kỳ Đông Sơn, vùng này cơ bản thuộc văn hoá Đông Sơn. Từ Đèo Ngang
trở vào thuộc vùng ngoại vi, tiếp cận với văn hoá Sa Huỳnh.
Nơi đây mang đặc tính xen kẽ, tiếp cận giữa núi - biển - đồng bằng và có ảnh
hưởng nhiều tới đời sống kinh tế, xã hội và văn hoá của cư dân. Đồng thời cũng là
cái gạch nối văn hoá giữa hai miền Nam - Bắc, là vùng “đệm”, “trung gian” giữa văn
hoá Việt Đông Sơn và Việt Sa Huỳnh, giữa Đại Việt và Chăm Pa với chức năng là
nơi tiếp thu, kế thừa và giao lưu văn hoá. Vì thế ở đây tồn tại đan xen và hoà quyện,
thể hiện rõ sự ảnh hưởng giao thoa giữa hai nền văn hoá Việt - Chăm.
Bên cạnh đó, đây cũng là vùng giáp lưu chịu ảnh hưởng của hai nền văn hoá

khổng lồ, đó là nền văn hoá Trung Hoa từ phương Bắc tràn xuống và nền văn hoá Ấn
Độ từ phía Nam tràn lên. Tuy vậy, dù là “Hán hoá bắt buộc” hay “Ấn hoá tự
nguyện”, thì cư dân nơi đây vẫn không bị đồng hoá mà lại tiếp thu được những tinh
hoa của nó để tạo một thế ứng xử văn hoá mềm dẻo, tiếp biến có chọn lọc, trên cơ sở
vẫn giữ vững bản sắc dân tộc và góp thêm nhiều yếu tố làm đa dạng, phong phú cho
nền văn hoá Việt Nam.
“Sức sống dai dẳng của văn hoá truyền thống một phần cơ bản phụ thuộc vào
sự gạn đục khơi trong của văn hoá vùng. Đó là do sự tập trung đậm đặc của biểu
tượng, giá trị văn hoá trên một không gian lãnh thổ nhất định có sức đề kháng trước
sự xâm thực bên ngoài và bảo lưu cái truyền thống văn hoá bản địa” (Huỳnh Khái
Vinh, Chấn hưng các vùng và tiểu vùng văn hoá ở nước ta hiện nay, trang 123).
Chính tính chất “cố thủ”, hơi cứng đó được thể hiện rất rõ trong tiểu vùng văn hoá
xứ Nghệ, ngay ở tính cách, lối ứng xử của con người trong sinh hoạt văn hoá.
Có thể chia vùng văn hoá Bắc Trung Bộ làm 3 tiểu vùng sau:
 Tiểu vùng Thanh Hoá với lưu vực sông Mã, sông Chu, ruộng đất rộng
và phì nhiêu, có di chỉ Núi Đọ, di chỉ văn hoá Đông Sơn, có quê hương Bà Triệu, Lê
Hoàn, Lê Lợi, có thành nhà Hồ, có Yên Trường, bia Vĩnh Lăng. Đây cũng là quê
hương của họ Trịnh, của nhà Nguyễn Gia Long. Giọng nói của cư dân gần giọng Bắc
và nói chung văn hoá truyền thống có nhiều nét giống miền Bắc, như: sự phong phú
- 22 -
của lễ hội, sự phát triển của nghệ thuật chèo, sự giàu có về dân ca, dân vũ như hò
sông Mã, hát ghẹo, hát trống quân, hát khúc Tĩnh Gia, chèo chải, múa đèn và cũng
là nơi tập trung phong phú của các loại hình trò diễn dân gian.
 Tiểu vùng xứ Nghệ (Nghệ Tĩnh) với núi Hồng, sông Lam, sông La, có di
chỉ văn hoá Thẩm Ồm, đồi Dùng, đồi Rạng, núi Dầu, rú Ta, làng Vạc Dân cư có
giọng nói trầm, ít cung bậc, nhiều từ cổ, nhưng lại là nơi có nhiều đền thờ nổi tiếng
như “Nhất Cờn, nhì Quả, Bạch Mã, Chiêu Trưng”, quê hương của đại thi hào
Nguyễn Du, chí sĩ Phan Bội Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh và của rất nhiều anh hùng
hào kiệt, danh nhân văn hoá, lãnh tụ cách mạng, quê hương Xô Viết Nghệ Tĩnh, nơi
đã sinh ra các loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian như: hò, ví dặm, hát đò đưa.

 Tiểu vùngxứ Huế (Bình - Trị - Thiên) với núi đầu Mâu, sông Nhật Lệ,
núi Mai, sông Hãn, núi Ngự, sông Hương, giọng nói và phương ngữ cũng gần Nghệ
Tĩnh. ở đây có Luỹ Thầy, truông nhà Hồ, phá Tam Giang, có kinh đô Phú Xuân với
triều đại Tây Sơn, có cung điện và lăng tẩm của các vua nhà Nguyễn, có chùa Thiên
Mụ, điện Hòn Chén, quê hương của hò giã gạo, hò mái nhì, các điệu lý, ca nhạc cung
đình Huế, tuồng đồ dân gian.
2.2. Tiểu vùng văn hoá xứ Thanh và xứ Nghệ:
Xét từ góc độ hành chính, Thanh - Nghệ - Tĩnh thuộc vùng văn hoá Bắc Trung
Bộ.
Song, cũng có ý kiến của các nhà địa lý học nói rằng, trên một ý nghĩa nào đó,
châu thổ sông Mã, sông Cả chỉ là sự “nối dài của châu thổ Bắc Bộ”. Và về mặt văn
hoá, từ trước đến sau Công nguyên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã thuộc không gian văn
hoá Đông Sơn. Trước đó nữa, có những di tích có tính chất của văn hoá Phùng
Nguyên, nếu phải nhìn xa hơn thì Cồn sò hến Đa Bút, Cồn Cổ Ngựa và các di chỉ
hang động xứ Thanh là thuộc về không gian văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn.
Cả giới địa lý học, dân tộc học và văn hoá học đều coi miền núi Thanh - Nghệ
- Tĩnh là sự nối dài cùng một dải của sơn hệ Tây Bắc - Bắc Bộ. Và với cội nguồn là
không gian văn hoá Việt Cổ, nên nhiều nhà nghiên cứu đã coi Thanh - Nghệ - Tĩnh
thuộc vùng văn hoá Bắc Bộ.
Tuy nhiên trong thực tế nghiên cứu, lâu nay, khi xem xét văn hoá ở châu thổ
Bắc Bộ, người ta thường đặt xứ Nghệ Tĩnh ra ngoài và xếp thành một vùng riêng.
GS. Đinh Gia Khánh trong “Các vùng văn hoá Việt Nam cũng đặt riêng vùng văn
hoá Nghệ - Tĩnh bên cạnh vùng văn hoá đồng bằng miền Bắc, ngoài việc tách riêng
vùng văn hoá Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
PGS. Ngô Đức Thịnh không tách riêng vùng văn hoá Nghệ - Tĩnh, mà quan
niệm rằng đồng bằng Bắc Bộ bao gồm lưu vực của sông Hồng, sông Thái Bình và
sông Mã.
- 23 -
Thực ra, tách vùng văn hoá Nghệ Tĩnh ra khỏi vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ
cũng có cơ sở khoa học của nó, nhưng nếu nhập chung vào như ý kiến của GS. Ngô

Đức Thịnh, cũng có cái lý của nó. Nghệ Tĩnh, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, chỉ
rõ sắc thái riêng khi đặt chúng vào bối cảnh lớn hơn của vùng văn hoá lưu vực sông
Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, nói cách khác, đó là những tiểu vùng văn hoá, một
mặt mang tính chất của châu thổ Bắc Bộ, một mặt có những nét riêng.
Như vậy, vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu vực những dòng sông
Hồng, sông Mã. Đây là vùng văn hoá như GS. Ngô Đức Thịnh nhận xét: “Trong các
sắc thái phong phú và đa dạng của văn hoá Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ như là một
vùng văn hoá độc đáo và đặc sắc”. Dẫn đến điều này là một hệ quả, một tổng hoà các
quan hệ của nhiều vấn đề khác nhau. Trước hết là những đặc điểm của môi trường tự
nhiên Bắc Bộ.
Nhiều nhà nghiên cứu khi nói đến Bắc Trung Bộ nói riêng hay miền Trung nói
chung, người ta thường cho rằng đây là một tổng thể hệ thống nằm trong tổng thể hệ
thống Việt Nam với các đặc điểm: Địa hình miền Trung hẹp theo chiều ngang Đông
Tây, nếu quay mặt về đông thì trước mặt là Biển Đông, sau lưng là dãy Trường Sơn;
Địa hình miền Trung chia cắt theo chiều dọc Bắc Nam, bởi các đèo là những dãy núi
đồi tách từ Trường Sơn đâm ngang ra biển.
GS. Trần Quốc Vượng trong “Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá” đã nhìn nhận
không gian văn hoá xứ Thanh, xứ Nghệ là cái nhìn địa văn hoá trong bối cảnh miền
Trung. Ở đó, mặt cắt của không gian địa lý có thể nhìn thấy rõ nhất và được mô hình
hoá như một hình hộp chữ nhật đứng gồm: Đèo Ba Dội - Thanh - Hoàng Mai - Nghệ
- Đèo Ngang. Bao quanh của hình hộp chữ nhật này một bên là núi và một bên là
biển.
Cũng cần nói thêm về Nghệ An, Hà Tĩnh, ngay từ thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc,
thậm chí ngược lên xa hơn, Nghệ An - Hà Tĩnh vẫn gắn bó với Bắc Bộ. Và việc tách
ra theo địa giới hành chính để có khu Bốn, chỉ có thời chống Pháp, chống Mỹ mà
thôi.
Vì vậy, xác định không gian văn hoá của vùng Bắc Trung Bộ, chúng ta phải
kết hợp giữa vị trí địa lý và môi trường sinh thái quy định nên đặc trưng văn hoá của
vùng. Mặt khác, cũng cần phải xem xét trên phương diện nguồn gốc lịch sử, nguồn
gốc tộc người để nhận chân ra được những đặc trưng văn hoá của vùng một cách đầy

đủ nhất, đặc biệt là quá trình giao lưu tiếp xúc văn hoá của các tiểu vùng đối với các
không gian văn hoá liền kề.
2.3. Kết luận:
Có thể tạm đưa ra một vài kết luận rằng:
- 24 -
 Vùng Bắc Trung Bộ là một vùng văn hoá quan trọng, nối liền hai miền
Nam - Bắc của đất nước.
 Xét về phương diện lịch sử, đây là vùng văn hoá có từ cội nguồn của
lịch sử dân tộc, là cái nôi của người Việt cổ.
 Vùng Bắc Trung Bộ sớm có sự giao lưu tiếp xúc văn hoá trong lịch sử,
giữa Đại Việt và Chăm Pa, giữa văn hoá Việt với văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa. Quá
trình giao lưu, tiếp biến văn hoá có chọn lọc đã làm phong phú thêm cho văn hoá của
dân tộc Việt.
BÀI 2: TIỂU VÙNG VĂN HOÁ XỨ THANH
Xứ Thanh là dải đất cổ kính kết nối hai đại vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ và
ven biển miền Trung. Vì vậy, xét trên phương diện lịch sử văn hoá, xứ Thanh có thể
được xem là “vùng đệm”, vùng “trung gian chuyển tiếp” giữa miền Bắc (Bắc Bộ) và
miền Trung (Trung Bộ). Trên mảnh đất này, những đặc trưng văn hoá vừa mang đậm
dấu ấn của văn hoá Việt - Bắc Bộ, vừa có sự chuyển tiếp - tiếp biến văn hoá Việt
Trung Bộ. Điều đó được thể hiện rõ trong đặc điểm vị trí địa lý, môi trường sinh thái,
nguồn gốc lịch sử và trong các giá trị lịch sử văn hoá vật thể và phi vật thể còn lưu
lại cho đến ngày nay như: ngôn ngữ, văn hoá dân gian, tâm lý tính cách con người,
tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội
1. Đặc trưng văn hoá xứ Thanh:
1.1. Đặc điểm vị trí, môi trường sinh thái quy định đặc trưng văn hoá của
vùng.
Xứ Thanh với khí hậu nhiệt đới nhưng lại có cái rét ngọt, rét đậm của mùa
đông Bắc Bộ, có những ngày mưa xuân ẩm ướt, mưa phùn kéo dài, có mùa thu lá
rụng và có cả hơi nóng oi ả của gió Lào miền Trung.
Thanh Hoá có nhiều danh thắng đẹp như bãi biển Sầm Sơn, sông Mã, động

Bích Đào (còn gọi là động Từ Thức), vườn quốc gia Bến En, suối cá Cẩm Lương,
hang Kho Mường
Xứ Thanh nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh phía Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung Bộ, ở vị
- 25 -

×