Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Ai đã đặt tên cho dòng sông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.19 KB, 14 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SƠNG</b>

<b>A. MỞ BÀI</b>

“Ơi dịng sơng bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm khiến người đọc không khỏi nhớ đến Huế mộng mơ, yên bình, dịu dàng với dịng sơng Hương xinh đẹp. Chính dịng sơng ấy đã đem đến cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhà văn để rồi những người nghệ sĩ cho ra đời những tác phẩm có giá trị. Cũng tự nhiên như thế, sơng Hương đi vào văn chương của Hồng Phủ Ngọc Tường và để lại thương nhớ khôn ngi trong lịng người đọc. Vẻ đẹp sơng Hương đa dạng và phong phú,…

<b>B. KẾT BÀI</b>

Đoạn trích là áng văn đẹp về sông Hương và xứ Huế, kết tinh tình u say đăm của Hồng Phủ Ngọc Tường với mảnh đât này. Đoạn trích nói riêng và bút kí nói chung đã khắc họa nét đặc trưng phong cách của Hoàng Phủ Ngọc Tường, in dấu ấn của một tâm hồn yêu xứ Huế đích thực.

<b>C. THÂN BÀI</b>

<b>I. GIỚI THIỆU CHUNG1. Tác giả</b>

- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại, ông là một tri thức u nước ln tích cực tham gia các phong trào đấu tranh chống Mĩ – Ngụy ở miền Nam thời kì trước năm 1975.

- Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp giữa trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý,...

- Hồng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách hành văn độc đáo và có sở trường về thể bút ký, tùy bút. Văn phong của ông được cấu tạo bởi hệ thống, ngôn từ nghệ thuật sang trọng, đậm chất trữ tình của cái tơi un bác, tài hoa. - Ông sinh ra ở Quảng Trị, nhưng lại gắn bó sâu sắc với cố đơ Huế nên những sáng

tác của ơng gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, con người, đặc biệt là văn hóa Huế như “Ngồi trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”. - Nhà văn Lev Tolstoy quan niệm rằng: “ Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của

tình yêu”. Với ý nghĩa đó, ta hồn tồn có căn cứ để khẳng định: Cây bút ký xuất sắc bậc nhất của nền văn học Việt Nam - Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dâng hiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

trọn vẹn bầu máu nóng của mình cho xứ Huế. Bởi suốt một cuộc đời cầm bút, ông đã nghiêng hết cho mảnh đất cố đơ này. Từ đó, “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” ra đời như minh chứng cho tình yêu rất đỗi đẹp đẽ này.

<b>2. Tác phẩm</b>

- Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ở Huế vào năm 1981, in trong tập sách cùng tên mang đậm chất sử thi về thiên nhiên, qua đó bộc lộ sự gắn bó với quê hương đất nước, đặc biệt mảnh đất kinh thành Huế.

- Bài ký có 3 phần, đoạn trích được trích ở phần đầu của tác phẩm. Với bút ký này, tác giả đã mang đến cho người đọc những cảm nhận đầy chất thơ về sơng Hương theo dịng chảy của nó từ dãy Trường Sơn chảy qua thành phố Huế rồi xuôi về biển cả…

- Trong tác phẩm, nhà văn thể hiện tình yêu thiên nhiên, tinh thần dân tộc với truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời của dân tộc - những điều ông đã dày cơng tìm tịi, nghiên cứu và tích lũy cả một đời. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc tái hiện lại vẻ đẹp sơng Hương như một nhân vật trữ tình, tới những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong khơng gian và thời gian qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.

<b>II.PHÂN TÍCH1. Nhan đề</b>

- Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” lấy từ câu hỏi bâng khng của một nhà thơ Hà Nội khi lặng ngắm dịng sơng. Bài ký lý giải tên dịng sơng bằng một huyền thoại mỹ lệ: “Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sơng đã nấu nước của trăm lồi hoa đổ xuống dịng sơng cho làn nước thơm tho mãi mãi”. Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi: “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”. Rất có thể tác giả muốn khẳng định: chính những người dân bình thường – những người sáng tạo ra văn hóa, văn học, lịch sử “đã đặt tên cho dịng sơng”. Với nhan đề như vậy, tác giả muốn lưu ý mọi người về một cái tên đẹp của dòng sông và cũng là cái cớ để tác giả ngợi ca vẻ đẹp của quê hương. Điều đó cũng gợi lên niềm biết ơn đối với những người đã khai phá miền đất này, niềm tự hào về quê hương.

<b>2. Hình tượng con sơng Hương</b>

<b>a) Sơng Hương dưới góc nhìn địa lý là cơng trình của tạo hóa ban tặng cho xứ Huế</b>

Khám phá vẻ đẹp của cơng trình nghệ thuật tạo hóa ban tặng cho xứ Huế, ta như có một “cuộc thám hiểm” thực sự nở hoa trên trang giấy. Xi theo hành trình đó, sơng Hương ở vùng thượng nguồn là một điểm dừng chân đầy huyền bí.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>Khúc thượng nguồn</b>

- Hồng Phủ Ngọc Tường đã mở đầu đoạn trích bằng một câu văn không giấu nổi niềm tự hào của mình khi nói về sơng Hương. Sơng Hương đã được đặt ngang hàng với các dịng sơng nổi tiếng trên thế giới. Ngồi ra, sơng hương cịn rất độc đáo “Sông Hương thuộc về 1 thành phố duy nhất”. Câu văn mang ít nhiều sắc thái chủ quan, cảm tính và có thể cũng là sự thiên vị của niềm u

- Nhìn từ cội nguồn, nó là dịng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn hùng vĩ, được Hoàng Phủ Ngọc Tường ưu ái mà ví như “bản trường ca của rừng già”. “Bản trường ca” ấy có những âm vựng đối ngược, vừa mãnh liệt rầm rộ, vừa dịu dàng, say đắm. Nó thể hiện trọn vẹn bản ngã hoang dại, mãnh liệt, cá tính của nàng Hương. Với cách so sánh này, ta phần nào hình dung được chiều dài, độ rộng cỉa sông Hương. Tuy nhiên, khơng phải vì vậy mà sơng Hương lúc nào cũng dữ dội, bí ẩn như khi nó “rầm rộ giữa bóng cây đại. ngàn, mãnh liệt qua, những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực”. Mà nó cũng có lúc dịu dàng, say đắm như khi chảy "giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Với cái nhìn tinh tế của mình, nhà văn nhận ra “bản lĩnh gan dạ, một tâm - hồn tự do và trong sáng” của dịng sơng là được rừng già hun đúc thành. Tác giả đã sử dụng một câu văn dài, đẹp như một bản nhạc với đầy đủ các nốt trầm, bổng. Nếu vế đầu của câu văn ngắt nhịp ngắn, những âm vực cao, rầm rộ , mãnh liệt, cuộn xoáy tạo nên những nốt bổng (nốt thăng) trong bản nhạc dòng chảy Hương Giang thì vế sau ngắt nhịp dài khiến người đọc ngân nga trong những nốt nhạc nhẹ nhàng, say đắm. Đó là nét đối lập, thống nhất trong dòng chảy của sơng Hương.

- Nếu đi sâu tìm hiểu về đặc trưng của địa hình núi rừng, ta sẽ thấy Nhà văn họ Hồng đã nhân hóa dịng sống như “một cơ gái Di-gan phóng khoảng và man dại”. Với biện pháp tu từ nhân hóa, tác giả đã gợi ra vẻ đẹp hoang dại, phóng khống của dịng sơng Hồng Phủ Ngọc Tường đã dùng hình ảnh, tính cách của coo gái Di-dan mạnh mẽ, cá tính với làn da nâu rám nắng, đôi mắt xanh thăm thẳm như thảo nguyên và mái tóc vàng đầy nắng và gió. Đặc biệt, nhwungx cơ gái Di-gan nổi tiếng với những điệu nhảy bốc lửa, đắm say, một tâm hồn ưa tự do và trong sáng. Sông Hương ở khúc thượng nguồn cũng như vậy: hoang dại, mãnh liệt, bí ẩn và rất đỗi quyến rũ

Hình ảnh sông Hương khúc thượng nguồn làm ta liên tưởng tới sơng Đà dưới ngịi bút của Nguyễn Tn với hình ảnh đá bờ sơng, mặt ghềnh, hút nước, từ đó thấy được sự tương đồng giữa các con sông: khúc thượng nguồn chảy rất dữ dội.

Đay là một nửa cuộc đời sơng Hương mà nó khơng muốn bộc lộ, muốn giấu kín thật kín nên đã “đóng kín lại và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.” và tiếp tục cuộc thủy trình đi tìm người tình của mình. Vậy mà, Hồng Phủ Ngọc Tường đã tìm đến và khám phá ra những nét bí ẩn đó. Là nhà văn nặng lịng với Huế, gắn bó

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

với dịng sơng từ thuở cịn thơ, hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường hiểu từng ngốc ngách của dịng sơng, ơng khơng muốn người đọc hay bất kì ai tị mị về sơng Hương, mà nhìn nhận nó ở một góc độ nên ơng đã trực tiếp đưa quan điểm của mình vào để thức tỉnh người đọc: “Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khn mặt kinh thành, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian trn mà nó đã trải qua”. Đó là nét kì cơng trong q trình khám phá nghệ thuật, là cái nhìn đầy mới mẻ yêu thương và trân trọng với vẻ đẹp tồn diện của sơng Hương. Hồng Phủ Ngọc tường đã đem đến cho người đọc những hiểu biết đa dạng, phong phú về con sông Hương mà không phải ai cũng biết.

- Dù phóng khống đến đâu, cá tính đến mức nào thì nàng Hương cuối cùng vẫn là một cô gái, như đúng cái tên gọi của nó. Cơ gái ấy, khi ra khỏi rừng già “lại nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”, được gọi bằng một danh xưng đầy trân trọng: người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở - vẻ đẹp mà ai cũng thấy khi đến Huế. Ta tự hỏi, nguyên do nào để sông Hương thay đổi sắc thái nhanh như vậy? Phải chăng, nó biết khi nào sống đúng với bản năng của mình, khi nào dâng hiến những điều tinh túy nhất cho xứ Huế thơ mộng.

Bằng thứ ngơn từ “lóng lánh bụi vàng”, nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường đã làm rõ bản sắc của sơng Hương. Đó khơng chỉ là một dịng chảy tự nhiên hình thành từ cấu trúc địa hình mà cịn là một dịng sơng được ví như một con người với vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm, đầy cá tĩnh mà cũng khơng kém phần nữ tính. Sơng Hương được miêu tả từ nhiều góc độ, với nhiều phương pháp để vừa khảo sát, vừa trữ tình. Nhà văn đã có cách sáng tạo hình ảnh riêng: vừa tả thực, vừa so sánh, ẩn dụ lại vừa tạo ra những liên tưởng bất ngờ, cùng với hình ảnh giàu đường nét, có màu sắc và có cả âm thanh. Dưới ngịi bút của Hồng Phủ Ngọc Tường, ta thấu hiểu hơn ý nghĩa của văn chương: “Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo làm tơ điểm hơn đời sống văn hóa tinh thần”.

<b>Ngoại vi thành phố Huế</b>

Nhà văn Nga Pautopxki từng khẳng định: “Nhà văn chân chính là người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khơng chỉ hấp dẫn ta bằng hình ảnh con sông Hương ở thượng nguồn với những vẻ đẹp hoang dại đầy cá tính, ơng cịn miêu tả hình ảnh con sơng với một cuộc hành trình đầy khó khăn, thử thách trước khi trở thành người tình dịu dàng, chung thủy của cố đơ

- Chưa bao giờ con sông ngọt ngào và dịu dàng đến thế! Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khéo léo gợi nhắc khoảng thời gian dài đằng đãng từ quá khứ đến thực tại “Phải nhiều thể kỉ trôi qua", mở ra một khoảng khơng mơ màng, n ắng lạ kì. Nhắm

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

mắt mường tượng nên hình ảnh dịng sơng như đang kéo lê dịng chảy của mình qua nhiều thế kỉ để rồi nó trở nên nhẹ nhàng, sâu lắng. Sơng Hương ví như "người tình mong đợi đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Lưu luyến quá! Dịu dàng quá! Câu văn làm ta nhớ đến lời hứa của chính nhà văn dành cho cơ gái ấy: “Tơi sẽ tìm em giữa mịt mù vơ tận dù một ngày cịn đập cánh tàn hoa”

- Khơi sâu vào mạch nguồn của cảm xúc, nương theo những nhịp chảy trơi của dịng nước, Hồng Phủ Ngọc Tường đã ghi lại thủy trình của Sơng Hương khi nó bắt đầu về xi tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một cơ gái đang chìm đắm trong câu chuyện tình yêu lãng mạn, nhuốm màu cổ tích của chính mình. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Sơng Hương như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài, con sông như được thổi vào trong nó một mảnh tình riêng, một mảnh tâm hồn đặc biệt sâu sắc. Sông Hương mang một vóc dáng mới, sức sống mới đầy khát khao và lãng mạn. Tác giả đã miêu tả con sơng bằng cái nhìn tình tứ của một tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn và bay bổng bằng cách sử dụng một loạt các động từ mang sắc thái nhân hóa để từ đó vẽ ra một hành trình sống động của dịng sơng.

- Khi ra khỏi vùng núi trầm mặc, âm u dịng sơng như bừng thực sự trẻ trung cùng với đó là tình yêu, niềm khao khát thanh xuân thể hiện qua sự chuyển biến liên tục với những thay đổi bất ngờ. Dịng sơng khơng một phút nghỉ tay, nghỉ mắt cứ mải miết chuyển mình như lao vào cuộc tìm kiếm, Sơng Hương vịng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Nó đi qua những địa danh như điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, bãi Nguyệt Biều, Lương Quán. Động từ “vịng”, “uốn mình” khiến dịng sơng trở nên sinh động hơn, ta cảm như những trang văn kia cũng đang rung rinh những con chữ, run rẩy theo từng nhịp điệu, những chữ ấy xô đấy nhau trên tranh giấy mà thành. Đó là một “cuộc tìm kiếm có ý thức” mà đích đến chính là thành phố tương lai của nó - thành phố Huế. Chính nhờ thủy trình gian trn ấy, sơng Hương có cơ hội khoe tất cả vẻ đẹp về hình dáng của mình. Đó là những đường cong tuyệt mĩ trên dáng hình mềm mại “mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược bẻ lừa bằng con thoi”. - Màu nước: Sông Hương hiện lên với màu xanh thăm thẳm khi đi qua chân núi

Ngọc Trản, độ sâu của nước đã tạo nên màu xanh của nước. Khi đi qua phía Tây Nam thành phố, màu nước có sự thay đổi rõ rệt “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Vẻ đẹp rực rỡ mà màu nước có được là do sự phản quang của mặt trời. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ sông Hương bằng nghệ thuật ngược sáng của điện ảnh. Với những màu nước rực rỡ này, Sông Hương giống như một con gái khốc lên mình ba sắc áo làm duyên, làm dáng với Huế. Sông Hương thật yểu điệu, thướt tha, rực rỡ trong đôi mắt của nhà văn. Người dân Huế rất tự hào về màu nước đa sắc của sông Hương như chính người đẻ ra đứa con tinh thần này khẳng định: “Dưới đáy kinh nghiệm của một đời cầm bút, tơi đã khơng ngần ngại gửi tâm hồn mình vào

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

tác phẩm, vẽ lại đời mình bằng màu nước của dịng sơng, nó xanh biếc và yên bình như một lẽ vĩnh hằng trong cảnh vật cố đơ”, nó biển sắc nhanh chóng “sớm xanh, trưa nàng, chiều tim” như những luồng sáng chiếu bóng kinh thành thêm đẹp, thêm lung linh hơn, và đặc biệt, nó muốn khắc sâu vào tâm trí những người một lần đặt chân đến đây, mà yêu màu sắc nước, mê say ngàn đời.

- Khi đi qua các lăng tẩm – nơi yên nghỉ của vua chúa nhà Nguyễn, sông Hương mang một vẻ đẹp trầm mặc. Những đồi thông bạt ngàn, lăng tẩm đồ sộ tạo cho khơng khí nơi đây một sự linh thiêng, thành kính đến vơ cùng. Chính khơng gian ấy đã đem đến cho sông Hương vẻ đẹp sâu lắng, trầm mặc – vẻ đẹp riêng của Huế và sơng Hương.

Với sự liên tưởng phong phú, Hồng Phủ ngọc Tường đã đưa độc giả đến với những vẻ đpẹ đa dạng, phong phú của sông Hương. Vẫn là con sơng ấy, khúc thượng nguồn thì tự do, phóng khống, man dại với những dịng chảy dữ dội thì khi về vùng ngoại ơ của Huế, sơng Hương đã thay đổi hồn tồn, trở thành một người gái đẹp mềm mại trong dòng chảy rực rỡ của màu nước pha cả chút trầm tư trong tâm hồn. Sông Hương đang tự chế ngự và thay đổi mình để phù hợp với Huế. Hóa ra tồn bộ thủy trình của dịng sơng Hương chính là cuộc tìm kiếm người tình đích thực của người con gái trong câu chuyện tình yêu lãng mạn nhưng cũng đầy như khó khăn, thử thách. Văn học quả thật là cái đẹp của cuộc sống được nhìn có đơi mắt tinh tế nhạy cảm, trái tim yêu thương của người nghệ sĩ hun đún mà thành. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vẽ cho sông Hương một vẻ đẹp, một dáng điệu yêu kiều bằng chất liệu ngôn từ rộng lớn và sâu sắc của mình. Nhà văn đã khơng chỉ tái hiện chân thực dịng chảy của con sơng trên bản đồ địa lí mà quan trọng hơn là biến cái thủy trình ấy thành hồnh trình của người con gái đẹp duyên dáng, kiêu sa mà tình tứ.

<b>Vào thành phố Huế</b>

Chính Hồng Phủ Ngọc Tường đã chia sẻ: “Đất nước có nhiều dịng sơng, nhưng chỉ có một dịng sơng để thương để nhớ, như cuộc đời có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mang theo”. Tình cảm của sơng hương dành cho Huế cũng như vậy, một tình cảm thủy chung rất đỗi đẹp đẽ.

- Chính vì vậy , khi mới chỉ nghe thấy tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga ở bờ bên kia, sông Hương “vui tươi hẳn lên”. Đó là quy luật tất yếu của tình cảm. Sơng Hương hạnh phúc, phấn khởi như tâm trạng của một người con gái đang yêu. Có ai đi qua nửa cuộc hành trình cuộc đời để “tìm kiếm người tình mong đợi” với bao gian truân vất vả mà khi nhìn thấy những dấu hiệu đầu tiên của người yêu lại không vui cho được?

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Tạm biệt vùng ngoại ơ Kim Long, nàng Hương “như đã tìm đúng đường về”, nàng “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam - Đông Bắc”. Và ở cuối con đường, nó đã nhìn thấy “chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời”. Đó là cây cầu Trường Tiền – cây cầu biểu tượng của thành phố Huế

- Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, nàng uốn một đường cong mềm hẳn đi “như một tiếng vâng khơng nói ra của tình u”. Quả đúng là “tình yêu là những lý lẽ riêng thuộc về con tim”, dẫu là một dịng sơng cá tính thì khi đắm mình trong tình u, sơng Hương vẫn mang những vẻ đẹp ý nhị riêng! Câu văn miêu tả vẻ đẹp của sông Hương khi về tới thành phố Huế nghe thật nhẹ nhàng, thật lãng mạn, thật tình tứ, say mê. Những đường nét mềm mại, mê đắm của nàng khiến cho tất cả những ai khi đọc thiên tùy bút cũng đều cảm thấy sửng sốt, ngỡ ngàng, và muốn say đắm trong tình yêu để một lần được nghe tiếng vâng” kia ngọt ngào đến mức nào! - Sông Hương trong lịng Huế:

Sơng Hương là tất cả những gì người dân xứ Huế có, họ u mến dịng sơng đã gắn bó suốt bao đời. Cũng chính vì u mến dịng sơng, muốn nàng ở lại bên mình thật lâu cũng góp mặt trong các hoạt động thường ngày nên họ đã đào những “nhánh sông mang nước Hương giang tỏa đi khắp phố thị” từ đầu đến cuối kinh đô, tạo nên vẻ đẹp gần gũi với cuộc sống đời thường.

Sông Hương mang vẻ đẹp trầm tư, xưa cũ với “những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít” và “những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mơ-tê xưa cũ”. Hồng Phủ Ngọc Tường với niềm hồi cổ của một nhà văn hóa am hiểu về Huế, đã cảm nhận được vẻ đẹp rất riêng của sông Hương và Huế - vẻ đẹp trầm tư, xưa cũ đầy trữ tình.

Càng yêu thì người ta lại càng có xu hướng hịa quyện vào nhau lâu hơn, như thấu hiểu điều đó: sơng Hương trong lòng thành phố chảy “chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh” như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Dịng chảy ấy có thể được cảm nhận bằng thị giác qua hàng trăm ánh đèn hoa đăng vào những đêm rằm tháng 7. Dòng chảy của sơng Hương có được trước hết có được do đặc điểm địa lý tự nhiên. Sông Hương đến với thành phố Huế có rất nhiều nhánh nhỏ, san bớt nước ở dịng chính, có hai hịn đảo Cồn Dã Viên và Cồn Hến ngăn dòng chảy lại khiến lưu tốc của dịng sơng giảm hẳn đi. Ngồi việc lý giải về đặc điểm địa lý, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn cho rằng dòng chảy ngập ngừng muốn đi, muốn ở là do sông Hương đã dành quá nhiều tình cảm cho Huế. Vì quá yêu thành phố này, quá lưu luyến với người tình mong ước nên sông Hương chẳng muốn rời Huế, chỉ muốn mãi mãi ở trong lòng Huế. Đây là sự lý giải thấm đẫm cảm xúc – sự lý giải của tình u mà tác giả gọi đó là “những vấn vương của một nỗi lịng”. Đó là “một điệu slow tình cảm” – một điệu nhảy quấn qt, dun dáng, tình tứ mà sơng Hương dành riêng cho Huế. Dòng

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

chảy ấy khiến nhà văn liên tưởng đến dịng chảy của sơng Nê-va, dịng chảy nhanh như một đồn tàu tốc hành, nhanh đến nỗi “lũ hải âu khơng kịp nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo”. Sự liên tưởng ấy khiến nhà văn càng thêm yêu quý, tự hào dòng chảy của sơng Hương q mình. Dịng chảy đầy trữ tình này của sơng Hương đã đi vào thi ca:

“Dịng nước sông Hương chảy lặng lờ Ngàn thông núi ngự đứng như mơ’ Hay:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sơng chảy vào lịng, nên Huế rất sâu”

Dân tộc Việt Nam tự hào vì có lồi hoa dù trong bùn lầy vẫn tỏa ngát hương thơm, như người dân xứ Huế tự hào về dòng Hương giang được sánh ngang với các dịng sơng nổi tiếng trên thế giới. Sông Xen của Pa-ri quá thơ mộng, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét cũng không kém cạnh với sự lặng lẽ vốn có, hay sơng Nê-va ở Nga, một dịng sông mang ý nghĩa lớn trong lịch sử của châu Âu. Các dịng sơng này, cũng là nhịp cầu thổn thức của các thành phố, vì đều chảy trong lòng thành phố. Nhưng trải qua bao thăng trầm của đất nước cùng những đổi thay của nhân loại, nàng Hương vẫn ngẩng cao đầu đầy kiêu hãnh, bởi trong tổng thể nàng vẫn giữ - nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông” mà khơng một dịng sơng nào có được. Đó là nét riêng của sông Hương, của Huế.

<b>Xa Huế</b>

Nếu nói bình rượu hồi của thế gian là phải làm cho người ta say từ chén đầu đến chén cuối, thì hành trình đi tìm vẻ đẹp của sơng Hương cũng thuận theo cái lẽ tự nhiên ấy. Cái dáng điệu đắm say, ngây ngất của dịng sơng cịn ảnh lên khi nó sắp phải từ giã thành phố yêu thương, thân thuộc.

- Sông Hương chếch về hướng chính Bắc, xa dần thành phố Huế. Khi đến ngoại ô Vĩ Dạ, với màu xanh của tre trúc mà ta đã bắt gặp trong thơ Hàn Mặc Tử:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

sông Hương như “sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dịng, rẽ sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Dịng chảy này có gì đó rất lạ với tự nhiên, bởi lẽ, ở phương diện địa lý, Bao Vinh là một nơi khá cao của kinh thành Huế, nơi có thể dõi mắt nhìn xa mười dặm trường đình. Và sự quay ngược lại của sơng Hương thật bất ngờ vì sơng Hương đã chảy xuống đồng bằng – khu vực thấp hơn thì khơng ai nghĩ nó có thể ngược lên những nơi cao như thị trấn Bao Vinh. Đó là điều rất lạ với tự nhiên nhưng dòng chảy ấy lại rất giống với con người. Sông Hương quay lại để nói với Huế một lời

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

thề trước khi về biển: “Còn non, còn nước, còn dài, cịn về, cịn nhớ,…” Đó là lời thề non nước, lười thề thủy chung, son sắt. Lời thề ấy khiến tác giả liên tưởng tới sự mạnh mẽ, táo bạo của thúy Kiều quay lại gặp Kim Trọng trong đêm tự tình để nói lời thề nguyền:

“Tiên thề cùng thảo một chương Tóc mây một món, dao vàng chia đôi

Vầng trăng vằng vặc giữa trời Đinh ninh hai miệng một lời song song”

- Như vậy, trong cái nhìn lãng mạn của một trái tim đa tình, sông Hương trở thành người con gái dịu dàng và chung thủy. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra sự trở lại để gặp mặt lần cuối góc phố cổ kính mang dấu ấn thời gian. Nhà văn đã nhân cách hóa, gọi đó là “nỗi vấn vương, có một chút lẳng lơ, kín đáo của tình u”. Sơng Hương “lẳng lơ” vì nó dành qua nhiều tình cảm cho Huế. Đó là sự chung thủy, son sắt của sông Hương với vùng đất cố đơ, với thành phố duy nhất mà nó chảy qua – người tình mà suốt đời nó ln hướng về. Trong trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dịng sơng kia khơng cịn là vật thể vơ tri, vơ giác mà nó cịn có cảm xúc, có nỗi buồn, có sự thủy chung và nỗi nhớ nhung, lưu luyến. Bởi thế, mà nó chẳng nỡ xa cách như lời thơ mà Vũ Quần Phương từng kí thác tâm tình: .

“Có bao giờ sơng chảy thẳng đâu em Sơng lượn khúc lượn dịng mà tới biển”

- Để đáp lại tình cảm sâu sắc ấy, người dân Châu Hóa đã chuyển lười thề vang vọng kia thành giọng hò dân gian vang vọng khắp lưu vwucj sơng Hương. Đó là sự trân trọng, u mến của người dân hai bên bờ dành cho sông Hương và Huế.

Những câu văn nhẹ nhàng, tình tứ, ngơn từ đầy cảm xúc của Hoàng Phủ Ngọc Tường như những thanh âm vang dội, phả vào lòng người đọc một mùi hương đặc biệt kết tinh bởi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời. TIỂU KẾT (GĨC NHÌN ĐỊA LÝ): Từ những cảm nhận về sơng Hương,

có thể nhận thấy Hồng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận dịng sơng từ nhiều góc độ, ở mỗi góc độ nhà văn đều thể hiện những cảm nghĩ thật sâu sắc và mới mẻ về con sông biểu tượng của đất cố đô. Nhà văn đã thể hiện vẻ đẹp của sơng Hương trong cái nhìn mê đắm của chính bản thân mình. Ta nhìn thấy cái vẻ đẹp phóng khống đầy man dại như “những cơ gái Di-gan”, vẻ đẹp đầy nữ tính của sơng Hương xinh đẹp, dịu dàng, uyển chuyển và kín đáo khi ở trong lòng thành phố và cái vẻ đa tình như nàng Kiểu lỡ bước. Hồng Phủ Ngọc Tường đã vẽ nên những nét đẹp đặc biệt cho dịng sơng văn học, để dịng sơng Hương trở thành một “bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”. Nhà văn đã mang tới những vùng thẩm mỹ mới mẻ, tồn vẹn về vẻ đẹp của sơng Hương trong quan hệ với kinh thành Huế, qua đó thể hiện tình u tha thiết sự gắn bó của

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương của xứ Huế đẹp đẽ, dịu hiền. Sự chuyển biến này giúp ta nhận ra phong cách độc đáo tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi lẽ “Phong cách là người”. Phong cách của Hoàng Phủ Ngọc tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình. Hiểu biết sâu rộng, am tường trên nhiều lĩnh vực đã thể hiện một tầm nhìn, tri thức dày dặn trong việc khám phá hành trình của sông Hương.

<b>b) Sông Hương gắn với lịch sử dân tộc</b>

Nhà văn Maksim Gorky cho rằng: “Mỗi người đều mang trong mình nhiệm vụ của người nghệ sĩ, và Hồng Phủ Ngọc Tường cũng khơng vì đam mê thế giới văn chương mà quên đi thiên chức của mình. Hơn ai hết, ông hiểu rõ Huế với cái tên gọi là “mảnh đất cố đơ” thì cần tơ điểm những gì. Nên ơng đã huy động tồn bộ vốn tri thức lịch sử và văn hỏa đủ cả Đông Tây kim cổ vào từng trang viết, tạo nên những liên tưởng vừa rộng vừa sâu. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp sơng Hương dưới góc độ lịch sử thì ta có thể khẳng định rằng Hồng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hóa Huế, ơng khơng chỉ nhìn sơng Hương trơi ở hiện tại, ngày ngày mang phù sa vun đắp cho cánh đồng Châu Hóa và mang nguồn nước ngọt trao tặng cho cuộc sống người dân xứ Huế mà ơng cịn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần cho những hào hùng trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc.

- Từ thời các vua Hùng: sơng Hương đã là “một dịng sơng biên thùy xa xôi của đất nước”, là biên giới của đất nước.

Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi: sông Hương từng mang tên Linh Giang, nó “chiến đấu một cách oanh liệt để bảo vệ vùng biên giới phía Nam của Tổ quốc”. Nó được coi là ải Chi Lăng ở phía Nam, đã bao lần làm cho quân thù khiếp sợ. Vùng đất Châu Hóa giữa vị trí chiến lược trong việc trấn giữ biên cương Tổ quốc Đại Việt, mà có lúc lịch sử gọi đó là “Vạn Lý trường thành” của phía Nam. Nó oai liệt giống sơng Như Nguyệt, sơng Đuống, sông Bạch Đằng ở miền Bắc.

Ở thế kỉ XVIII, XIX “nó đã vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” và “nó sống hết lịch sử bị tráng của dân tộc với những cuộc khởi nghĩa đẫm máu”. Không dừng lại ở đó, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, nó đã chứng kiến những chiến công long trời lở đất, chấn động năm châu thời Cách mạng tháng Tám năm 1945; nó cổ vũ nồng nhiệt cho cuộc nổi dậy tổng tiến cơng mùa xn Mậu Thân năm 1968; nó đau đớn hứng chịu sự tàn phá khốc liệt của đế quốc Mĩ những năm 1975. Đó khơng chỉ là sự mất mát về vật chất mà còn là sự mất mát về tinh thần, văn hóa, là sự mất mát khơng gì bù đắp nổi.

</div>

×