Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.48 MB, 19 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>HỌC VI N NGOỆẠI GIAO </b>
<b>KHOA TRUY N THƠNG VÀ VĂN HỐ ĐỀỐI NGOẠI ~~~~~~*~~~~~~ </b>
<b>NỘI DUNG THẢO LUẬN </b>
<b>SỰ TƯƠNG Đ NG VÀ KHÁC BIỒỆT GIỮA CÁC NHĨM NGƯỜI VIỆT Ở NAM VÀ PHÍA NAM TRUNG HOA T CÔNG CỪ Ụ ĐỊNH V NHÂN H C Ị Ọ – </b>
<b>VĂN HOÁ </b>
<i><b>Giảng viên bộ môn: Trần H ng Thuý ồ Đào Ngọc Tuấn </b></i>
<i><b>Học phần : Văn hoá Việt Nam và h i nhộập qu c tế ố</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>A. KHÁI NIỆM CÔNG CỤ ĐỊNH VỊ NHÂN H C Ọ – VĂN HỐ (PHẠM QUỲNH ANH) </b>
<b>I – CƠNG CỤ ĐỊNH VỊ NHÂN HỌC VĂN HÓA - </b>
<b>1. Khái niệm nhân học – văn hóa (Cultural Anthropology):</b>
<small>• </small> Nhà nhân chủng học và dân tộc học người Pháp Claude Lévi-Strauss: “Ở tất cả nơi nào ta bắt gặp, từ nhân học xã hội hay nhân học văn hóa, thì chúng đều được gắn liền với giai đoạn thứ hai và cuối cùng của sự tổng hợp lấy cơ sở là những kết luận của dân tộc chí và dân tộc học.”
<small>• </small> Vậy nhân học – văn hóa là phương pháp nghiên cứu văn hố chủ yếu dựa vào sự phân bố chủng người và thổ ngữ. Phương pháp này kết hợp giữa Dân tộc học (Ethnology) và Nhân học ngôn ngữ (Linguistic Anthropology). <small>• </small> Bằng cách gắn các phẩm chất văn hoá với chủ thể - người (vừa là vật mang,
vừa là chủ thể, vừa là kết quả của văn hoá), phương pháp này đã giúp: + Chuyển sang xem xét văn hóa như một q trình tự thân có khả năng tái sản xuất ra chính nó trong một cộng đồng người cụ thể.
+ Khắc phục việc lệ thuộc vào hoàn cảnh địa lý, khi tiến hành lý giải các
<i>hiện tượng văn hoá. (VD: Sẽ có rất nhiều hạn chế khi sử dụng phương pháp Địa – văn hóa với các quốc gia đa sắc tộc như Mỹ hay cộng đồng người Do Thái, cộng đồng người Hoa hải ngoại) </i>
<small>• </small> Bởi vì mỗi người đều mang một chủng tộc và tiếng nói riêng, phương pháp này đã giúp các nhà khoa học phân vùng văn hóa theo ngơn ngữ và chủng.
<i>(VD: Ở Châu Âu ta có văn hóa Slavo, văn hóa Latinh và văn hóa Gécmanh) </i>
<small>• </small> Đây cũng là phương pháp phổ biến và tiện dụng đối với các nghiên cứu về văn hóa tộc người (ethnic culture) hoặc các nghiên cứu về văn hóa dân gian.
<b>II – ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ CƠNG CỤ NHÂN HỌC – VĂN HĨA </b>
<small>• </small> Văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong tính đa dạng. Tính đa dạng văn hố là kết quả của sự đa dạng tộc người (hiện có 54 tộc người đang sinh sống tại Việt Nam), trong đó tộc người Kinh (Việt) đóng vai trị chủ thể (chiếm gần 90% tổng dân số). Bởi vậy, văn hoá Việt Nam tuy đa dạng song vẫn hướng tâm vào văn hoá chủ thể – văn hoá Việt.
<small>• </small> Về mặt chủng, tộc người Việt (Kinh) là sự hoà huyết của các tộc người sinh sống tại khu vực Đông Nam Á (trong một vùng lãnh thổ trải dài từ nam sông Dương tử – Trung Quốc đến Bắc trung bộ của Việt Nam ngày nay). Đây là một khối dân cư hùng hậu bao gồm nhiều tộc người với tên gọi chung là người Bách Việt (Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Nam Việt, Lạc Việt...). Tiếp đó, trong suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau Cơng Ngun – cịn gọi là thời
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">kỳ Bắc thuộc, người Việt cịn hồ huyết với chủng người Hán và một số chủng khác vốn có nguồn gốc nằm sâu trong Trung Hoa Đại lục.
<small>• </small> Về mặt ngơn ngữ, ngôn ngữ phổ thông hiện nay (Tiếng Việt – của tộc người Kinh) là kết quả của quá trình hồ hợp các thổ ngữ của các tộc người trong cộng đồng Bách Việt và quá trình Hán hố.
<small>• </small> Về mặt lịch sử, lúc đầu ngôn ngữ của người Kinh gồm các thổ ngữ của người Bách Việt. Cùng với sự hoà huyết và chung sống, và xuất phát từ nhu cầu giao tiếp, các thổ ngữ này bị biến đổi để trở thành một thứ ngôn ngữ chung cho cả cộng đồng; đó là ngơn ngữ Việt – Mường. Các yếu tố cơ bản cấu thành ngôn ngữ Việt – Mường là: Mơn - Khơ me, Tày – Thái.
<small>• </small> Q trình giao lưu văn hố với Hán ngữ, chủ yếu diễn ra vào giai đoạn Bắc thuộc. Trong bối cảnh đó, ngơn ngữ Việt - Mường đã hấp thụ Hán ngữ để làm giàu và phát triển.
<small>• </small> Cuộc giao lưu với văn hố phương Tây – từ thời Pháp thuộc đến nay, đã đem lại cho tiếng Việt một diện mạo mới, được đánh dấu bằng sự ra đời chữ quốc ngữ và một cấu trúc ngữ pháp cũng như vốn từ vựng ổn định như ngày nay.
<small>• </small> Tóm lại, văn hố Việt Nam là sự thống nhất trong đa dạng xét từ giác độ nhân học văn hoá.
<b>[ NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO ] </b>
1. Vũ Minh Giang, Nội dung của truyền thống Việt Nam, trong sách “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay”, HN, 1996, tr.16. 2. Phạm Thái Việt, Nhân học – văn hóa, trong sách “Đại cương về văn hóa
Việt Nam”, NXB Văn hóa – Thơng tin, HN, 2004, tr.30 & 39.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>B. SỰ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA CÁC NHÓM NGƯỜI VIỆT NAM VÀ Ở NAM TRUNG HOA TỪ CÔNG CỤ ĐỊNH V NHÂN H C Ị Ọ – VĂN HOÁ (TRẦN HUY LÂM + PHẠM PHƯƠNG ANH) </b>
<b>Chủng </b>
<b>Về nhân chủng học thì Bách Việt là những cư dân thuộc loại hình Nam Mongoloid (Nam Á), trong đó bao gồm những nhóm dân tộc Tày Thái, Việt Mường, Môn – Khmer và cả Miêu Dao, phân bố ở Hoa Nam và Đông Nam Á ngày nay. </b>
<b>Nhưng lại có ý kiến rằng người Việt đầu tiên vốn là một bộ tộc gốc Mông Cổ ở </b>
Tây Tạng, di cư xuống phía nam từ thời đồ đá cũ. Nhóm dân tộc này định cư tại vùng Bắc Bộ, thượng nguồn sông Hồng ngày nay và tạo nên nền văn minh Đơng
<b>Sơn. Nhóm bộ tộc này cũng có sự tương đồng rất lớn về nhân chủng, văn hóa với các tộc người ở phía Nam Trung Quốc - mà sử Trung Quốc còn gọi là cộng đồng Bách Việt. </b>
Ví dụ: Cương vực 15 bộ mênh mông của nước Văn Lang thời Hùng Vương, với Tây giáp Tứ Xuyên (Ba Thục), Bắc tới Hồ Nam, làm các sử gia nghi ngờ rằng đó
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">là <b>lãnh thổ của cả dòng Bách Việt chứ không chỉ của “nước Việt” ngày nay</b>.
<b>Lãnh thổ Bách Việt đã trải khắp vùng Hoa Nam, rộng lớn khơng thể ngờ. </b>
<small>• </small> <b>=> vùng Hoa Nam và “nước Việt" ngày nay có chung dịng Bách Việt </b>
Về mặt nhân chủng, cho tới khoảng giữa thiên niên kỷ I trước Cơng ngun (-500), về cơ bản, đó là vùng phi Hoa phi Ấn, vùng Việt theo nghĩa rộng (Việt là một tộc – danh phiếm xưng, chỉ toàn bộ các cư dân phi Hoa phi Ấn, thuộc các ngữ hệ Môn-Khơme, Tày – Thái, Mèo – Dao, Tạng – Miến, Anh-đô nê- - diêng (Mã Lai, Đa Đảo), Việt – Mường.
Cho tới trước khi Trung Quốc bành trướng xuống vùng lưu vực Trường Giang, thì
<b>Việt Nam và Trung Quốc là khác nhau trên căn bản: Việt Nam là vùng châu Á </b>
gió mùa. Trung Quốc là vùng châu Á đại lục; Việt Nam là vùng nông nghiệp nước với hệ thống tưới nước.Trung Hoa là vùng nông nghiệp khô, Việt Nam là vùng lúa nước, Trung Hoa là vùng kê, cao lương, rồi mạch. Từ giữa thiên niên kỷ I trước
<b>Công nguyên, bành trướng Trung Quốc tràn xuống lưu vực Trường Giang và xa mãi về phía Nam; vùng “Bách Việt” co lại dần, tưởng “mất hết” nhưng cuối cùng vẫn còn một Việt Nam, đại biểu duy nhất cịn sót lại của phức hợp Bách Việt ngày xưa, tồn tại vừa với tính chất Dân tộc – Nhà nước vừa với tính </b>
chất Dân tộc – Nhân dân. Dù có những sự khác biệt như thế nhưng từ đó xuất hiện trên thực tiễn những sự giống nhau, những cái “bất dị” giữa Việt Nam và Trung Quốc
Đến đây cần nói rõ, nước Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi.
Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình,
<i>quen gọi là vùng Kinh Sở nay là Hồ Bắc, Hồ Nam của Trung Hoa. </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sơng Hồi sơng Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ.
Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống.
Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là
<i>dân Man Di. </i>
<b>Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. </b>
Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư
<b>dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. </b>
Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên cịn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đơng, tức vùng Mân Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, - theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mơng, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là q trình
<b>Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu. Từ đó, tạo nên những mối liên hệ rõ nét đầu tiên tới những dân tộc của Việt </b>
Nam hiện nay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dịng người Ngơ Việt chạy ra biển sang Nhật Bản. Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh - tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thơng dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo… Điều này chứng tỏ
<b>rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. Tiếng </b>
Hai dân tộc Kinh Việt Nam và Hán Trung Quốc (TQ) có nhiều điểm giống và khác nhau. Trong 1000 năm Bắc thuộc, các khác biệt bị xói mịn rất nhiều, kể cả về
<b>huyết thống. May sao tổ tiên ta vẫn giữ được một khác biệt căn bản nhất – ngôn </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>ngữ. Giữ được thế cũng là nhờ tiếng Việt tiềm ẩn những tính năng kỳ diệu, chẳng </b>
hạn ngữ âm cực kỳ phong phú, có thể ghi âm hầu như mọi ngữ âm ngoại ngữ.
<i><b>Sau 1.000 năm bị Hán hóa, ngơn ngữ Việt chấp nhận chữ Hán nhưng cấm cửa </b></i>
<i><b>tiếng Hán. Tổ tiên ta đã nghĩ ra cách đọc chữ Hán bằng tiếng Việt (gọi là từ </b></i>
Hán-Việt) mà không đọc bằng tiếng Hán, tức Việt Nam hóa phần ngữ âm của chữ Hán, biến thành chữ của mình, gọi là <b>chữ Nho </b>với ý nghĩa “Chữ của người có học”.
<i>Chữ Nho chính là chữ Hán được phiên âm ra tiếng Việt, vì thế dễ học hơn. Tổ tiên </i>
ta có thể dùng chữ Nho bút đàm giao dịch với quan chức chính quyền chiếm đóng,
<i>đạt được yêu cầu bắt dân ta học chữ của chúng. Rốt cuộc người Việt có chữ để ghi chép và giao tiếp nhưng vẫn đời đời nói tiếng mẹ đẻ, khơng ai nói tiếng Hán. Mưu </i>
toan Hán hóa ngơn ngữ hồn tồn thất bại.
<i>Giữ được ngun vẹn tiếng mẹ đẻ và nhờ đó giữ được nịi giống và đất nước mình — đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nói theo ngơn ngữ </i>
học hiện đại, là tổ tiên ta đã biết lợi dụng đặc điểm ghi ý không ghi âm của chữ
<b>Hán để đọc chữ Hán bằng bản ngữ. Chữ Nho đã thầm lặng vơ hiệu hóa q trình </b>
Hán hóa ngơn ngữ. Từ Hán-Việt đã giúp kho tàng từ vựng tiếng Việt phong phú
<b>thêm nhiều lần cả về số lượng và mỹ cảm. Cho dù khoảng 60% từ vựng tiếng Việt hiện nay có gốc Hán ngữ nhưng đó chỉ là hiện tượng giao thoa ngơn ngữ bình thường. Chẳng hạn tại TQ, khoảng 70% từ ngữ tiếng Hán hiện đại có gốc tiếng Nhật. </b>
Để sửa nhược điểm chữ Nho không ghi được tiếng Việt, vào khoảng thế kỷ 12 tổ tiên ta làm một thử nghiệm ngôn ngữ táo bạo: sáng tạo chữ Nơm có yếu tố biểu
<i><b>âm, ghi được tiếng Việt. Chữ Nôm cấu tạo trên nền tảng chữ Hán, biết chữ Hán </b></i>
<i>mới học được chữ Nơm, vì vậy phụ thuộc Hán ngữ và khó phổ cập, lại chưa được nhà nước công nhận, thời gian tồn tại quá ngắn so với chữ Nho. Tuy vậy, do văn thơ chữ Nơm thể hiện được tiếng nói và nỗi lịng của người bình dân nên đã tạo dựng được một nền văn học mới trội hơn hẳn văn học chữ Nho, mở ra một giai đoạn phát triển rực rỡ nền văn hóa Việt(pros and cons). Thử nghiệm này cịn hé lộ </i>
<b>một tiềm năng cực kỳ quý giá của tiếng Việt — thích hợp chữ biểu âm. Đây là </b>
điều kiện tất yếu để 5 thế kỷ sau các giáo sĩ Francesco de Pina, Cristoforo Borri, Alexandre de Rhodes…
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Francesco de Pina
Họ đã làm được chữ biểu âm Latin hóa cho tiếng Việt. Giả thử các giáo sĩ-bậc thầy ngôn ngữ học ấy đến TQ làm chữ biểu âm cho tiếng Hán thì chắc chắn họ sẽ thất bại, bởi lẽ tiếng Hán khơng thích hợp chữ biểu âm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Với hai ưu điểm quý giá –– biểu âm và Latin hóa, chữ Quốc ngữ đã làm thay đổi hẳn đời sống ngơn ngữ, văn hóa, xã hội nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới cho nền
<i><b>văn minh Việt. Loại chữ này ghi âm được 100% tiếng Việt, thực hiện nói/nghĩ thế </b></i>
nào viết thế ấy, viết thế nào đọc thế ấy, lại dễ học dễ dùng chưa từng thấy. Giới
<i>tinh hoa nước ta ca ngợi Chữ Quốc ngữ là hồn đất nước. Trong chữ quốc ngữ, có một số lượng lớn các từ ngữ được mượn từ tiếng Hán và được gọi là âm Hán Việt. Dù có những điểm tương đồng nhất định, song đây vẫn là một dạng thức ngôn từ hữu dụng, có tính biểu đạt cao và được lưu truyền cho đến tận ngày nay. </i>
<small>• </small> <b>Ngơn ngữ </b>
Ngun nhân có sự giống nhau về mặt ngơn ngữ
<b>1. Do hai nước láng giềng có sự giao lưu, tiếp xúc từ lâu đời </b>
2. Nước Việt Nam trải qua thời kì hơn một nghìn năm bị Bắc thuộc xâm
<b>lược đô hộ. Dù người Việt vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc riêng, nhưng vẫn có phong tục truyền thống và ngơn ngữ vẫn bị ảnh </b>
hưởng
=> Khơng khó hiểu khi Tiếng Việt và Tiếng Trung có nhiều phần tương đối giống nhau
Các yếu tố giống nhau
<b>Phát âm </b>
<b>Đều là ngơn ngữ có thanh điệu </b>
<small>• </small> Tiếng Việt có 6 thanh điệu
<small>• </small> Tiếng Trung có 4 thanh điệu chính và 1 thanh điệu nhẹ
<b>Từ vựng </b>
Có nhiều từ Hán việt giống tiếng Trung, Việt Nam sử dụng 30% chữ Hán Việt
<b>Cấu trúc từ và câu </b>
Tên của các thành phần câu trong tiếng Trung và tiếng Việt đều tương đối
<b>giống nhau, tức là đều có Chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ, tân ngữ, trạng ngữ </b>
Cái giống nhau đã từng được giới học giả trong ngoài nước, một thời quá nhấn
<i>mạnh khiến thế giới tưởng đâu Việt Nam là một “vùng phía trước” của văn minh </i>
Trung Hoa ở khu vực Đông Nam Á. Chỉ nhấn mạnh đến cái giống nhau và về cái
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><i><b>giống nhau, người ta chỉ nói đến và cắt nghĩa là do Việt Nam học, vay mượn, tiếp </b></i>
<i><b>thu của Trung Quốc: một cái khung chính trị, hành chính một nhà nước Hoa hóa </b></i>
với hồng đế và một bộ máy quan liêu các cấp, một ý thức hệ: Nho giáo với “kẻ sĩ” v.v…
<i><b>Cái giống nhau ở kiến trúc thượng tầng ở trên bề mặt – mà cũng khơng hồn </b></i>
<i>tồn như nhau: vua Việt khác hoàng đế Trung Hoa, chức danh quan lại có thể </i>
giống nhau mà chức năng và sự vận hành của bộ máy cũng có khác.
<b>Tơn giáo Thời Tống, Trung Quốc theo Tống – Nho; thời Lý Trần, ngang thời </b>
Tống, Đại Việt sùng Phật nhưng không bài Nho, Lão. Luật Hồng Đức soạn ngay dưới thời ơng vua sùng Nho, thích mơ phỏng Trung Quốc và Lê Thánh Tông, mà do áp lực của lịch sử vẫn phải tôn trọng những nhân tố nội sinh trong nền văn – hóa, phong tục dân gian…
<i><b>Các lễ hội 5-5 âm lịch (lễ hội ngày Hạ chí), 15 7 âm lịch, trung thu 15 8 âm lịch </b>--vốn đều không xuất phát từ Hoa Bắc mà đều có gốc tích ở miền Sở, Việt… tức vùng trồng lúa nước phương Nam… Cịn có thể kể ra nhiều lắm. Nhiều cái giống nhau giữa Việt Nam và Trung Quốc là do Trung Quốc đã tích hợp văn hóa lúa nước vào cấu trúc văn hóa Trung Hoa. </i>
<b>NGUỒN THAM KHẢO: </b>
hoi/van hoa/khac biet van hoa giua viet nam va- - - -trung-quoc nhin- -tu lich- -su/
nam- -cai cach- -thanh cong chu- - -viet -trung-quoc- -khong/ thi
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><b>C.<sub> SỰ </sub>KHÁC BIỆT GIỮA CÁC NHÓM NGƯỜI Ở VIỆT NAM VÀ NAM TRUNG HOA TỪ CÔNG CỤ ĐỊNH V NHÂN H C Ị Ọ– VĂN HOÁ (PHẠM THỊ KHÁNH HUY N + TR N LINH NHI)ỀẦ</b>
<b>1. Chủng </b>
VN: Yếu tố Mongoloid chiếm ưu thế trong cộng đ ng dân cồ ư VN, g m các ồ nhóm người Vi t bệ ản địa và các nhóm người Vi t di tệ ả ụt biển l n lên TQ (nh ng vư ề sau trở lại VN vì s bành trướng Nam ti n cự ế ủa Hoa tộc)
Hoa Nam: Chủ yếu là người Hán, ngoài ra do hoà huy t v i nế ớ gười Vi t đã ệ tạo ra ng i Hán Mongoloid phương Nam. Chỉ thuần các nhóm ng i Vi t di tườ ườ ệ ản lụt biển và ko trở lại Vi t Nam nói riêng và Đơng Dệ ương nói chung, để rồ ề sau i v sáp nhập chung vào TQ và trở thành nhóm Nam Hán
Ban đầu người Vi t Nam và phía Nam Trung Hoa có chung nguồệ n g c là t c ố ộ người Bách Vi t nhệ ưng từ ữa thiên niên kgi ỷ I trước Công nguyên, bành trướng Trung Quốc tràn xu ng l u vố ư ực Trường Giang và xa mãi v phía Nam; vùng ề “Bách Việt” co l i d n, t ng “mạ ầ ưở ấ ết h t” nhưng cuối cùng vẫn còn một Vi t Nam, ệ đại biểu duy nhất cịn sót l i cạ ủa ph c hứ ợp Bách Việt ngày xưa, tồn tạ ừa với v i tính chất Dân tộc – Nhà nước v a vừ ới tính ch t Dân tấ ộc – Nhân dân.
Sự kiện chia r Bách Việt: Chiếẽ n tranh T n Viầ - ệt
Chiến tranh Vi t – Tầệ n ( 218 208 TCN ) là cu- ộc kháng chiến ch ng nhà ố Tần mở rộng v phía nam cề ủa các bộ tộc Bách Việt ở vùng Hoa Nam và đây là tộc người chung mà phân bố ở Bắc B Việộ t Nam và Hoa Nam hiện nay
Các sử gia căn c theo các ghi chép của S ký, Hoài Nam Tử: cuộc chiến ứ ử kết thúc năm 208 TCN và "kéo dài 10 năm", nên xác định r ng thằ ời điểm T n ầ Thủy Hoàng phát binh đánh Bách Việt khoảng năm 218 217 TCN- . Quân Tần đóng sát các th y lủ ộ chính, dùng thuyền để chuyển quân cũng như lương th o. Tuy ả nhiên không th băng qua núi b ng đ ng sông, nên phể ằ ườ ải đào kênh Linh Cừ để vận chuyển, khởi công đào từ năm 219 TCN do thiết kế của giám quan Sử Lộc. Đ o ạ quân nam chinh của Tần Th y Hồng đã đào núi làm sơng đủ ể chuyể ươn l ng. Ph ng ỏ đoán là việc đào kinh này tốn kho ng 3 năm (hoàn tả ất năm 216 TCN). Khoảng năm 216 TCN, sau khi đào xong kênh Linh Cừ, đạo quân (kho ng 200 ngàn ngả ười) dưới s lãnh đự ạo của Lâu thuyền tướng quân là quan Uý Đồ Th theo Ly giang ư tiến vào Tây u. Khi ti ến đ n vùng h p l u cế ợ ư ủa sáu con sông lớn: nước Tây Âu, các đạo quân này chia quân ngược dòng các thủy đ o thiên nhiên đ đánh chiạ ể ếm đất của ng i Bách Vi t tuy nhiên đã gườ ệ ặp sự chống trả mãnh liệt của ng i Bách ườ Việt.
Trong khi ba đạo quân ti n đánh vùng Mân Viế ệt, Đông Vi t và Nam Vi t ệ ệ khá thuận lợi và hoàn thành mục tiêu, đạo quân ti n vào Ngũ Lĩnh g p rế ặ ất nhiều khó khăn. Liên ti p trong 3 năm (218 215 TCN), quân T n vế – ầ ừa phải đào kênh,
</div>