Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Đề tài " Tìm hiểu nguyên nhân và diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á năm 1997 " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.12 KB, 30 trang )





ĐỀ TÀI

Tìm hiểu nguyên nhân và diễn biến
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ ở Châu Á năm 1997





Giáo viên hướng dẫn : Trần Bá Trí
Sinh viên thực hiện :





Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục tiêu nghiên cứu
1.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu nguyên nhân và diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
Châu Á năm 1997.
1.2 Mục tiêu cụ thể


- Ngòi nổ và diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á năm
1997.
- Tình hình kinh tế của một số quốc gia Châu Á trong cuộc khủng hoảng
- Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến một số lĩnh vực kinh tế của Việt Nam.
- Bài học cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á.
2. Phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề chỉ giới thiệu nguyên nhân, diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ ở Thái Lan và một số nước châu Á năm 1997 và những bài học kinh nghiệm đối
với Việt Nam.


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 2

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH TÀI CHÌNH TIỀN TỆ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
CHÂU Á TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG NĂM 1997
1. 1 Hình ảnh của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997–1999 ở một số nước
Châu Á
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á nổ ra năm 1997 trước hết xuất phát
từ Thái Lan. Ngày 2.7.1997, Ngân hàng trung ương Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng
Baht, chấm dứt một thời kỳ dài duy trì tỷ giá hối đoái gần như cố định so với đồng
USD. Tỷ giá hối đoái Baht/USD: năm 1991 là 25,28, năm 1992: 25,19, năm 1996:
25,61 (Bảng 2.1).
Ngay khi đồng Baht bị tuyên bố thả nổi, nó đã mất giá 20%. Tháng 1.1998 tỷ giá
hối đoái đạt mức 53 Baht/USD.
Ngày 11.7.1997, Philippines tuyên bố thả nổi đồng Peso.
Ngày 11.8.1997, Malaysia tuyên bố không can thiệp vào thị trường hối đoái

(thực chất là thả nổi đồng Ringgit).
Ngày 14.8.1997, Indonesia tuyên bố thả nổi đồng Rupiah.
Năm 1996, tỷ giá bình quân đồng Won của Hàn Quốc là 884,2 Won/USD thì:
ngày 30.9.1997 là 914,8 Won/USD, ngày 14.12.1997 đồng Won được thả nổi.
Có thể nói sự mất giá nhanh với quy mô chưa từng có của những đồng tiền Thái
Lan, Phillippines, Malaysia, Indonesia và Hàn Quốc là biểu hiện dễ nhận thấy của sự
bùng nổ khủng hoảng kinh tế-tài chính ở các nước này.

Bảng 1.1 Tỷ giá hối đoái bình quân năm 1996 và 1997

Nước/ Tỷ giá bình quân 1996 1997
Thái Lan 25,61

47,25

Phillippines 26,29

39,50

Malaysia 2,52

3,88

Indonesia 2,308

5,400

Hàn Quốc 844,20

695,8


Nguồn: ASEAN University Network(2000), Economic Crisis in Southeast Asia and
Korea, Tradition and Modernity Publisher, Seoul, Korea.


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 3
Biểu hiện bên ngoài thứ hai của tình trạng khủng hoảng tài chính tiền tệ là sự
thua lỗ và phá sản với tốc độ và quy mô thất thường của hệ thống ngân hàng, tài chính
quốc gia, (Bảng 1.2).
Bảng 1.2 Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính

Năm tài chính từ 1.4.1997 đến 31.3.1998
Nước Năm tài
chính
1.4.1996
đến
31.3.1999
Số ngân
hàng bị
đình chỉ
hoạt động
Số ngân
hàng bị
quốc hữu
hóa/
Chính phủ
giám sát
Số ngân

hàng bị
sát nhập
Số ngân
hàng bị
bán cho
công ty
nước
ngoài
Tổng số
ngân hàng
có vấn đề
Thái Lan 108

56



4

64 (59%)

Malaysia



41


41 (68%)


Indonesia 228

16

56

11


83 (36%)

Hàn Quốc 56

16




18 (32%)

Nguồn: Fusion Confusion, the Economist, 4.4.1998, P.87.
Biểu hiện bên ngoài thứ ba của tình trạng khủng hoảng kinh tế-tài chính là sự
thua lỗ và phá sản với quy mô và tốc độ bất thường của doanh nghiệp (Bảng 1.3).

Bảng 1.3 Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp
Nước Thời gian Số doanh nghiệp phá sản
Thái Lan Tháng 1.1998 đến
5.1998
3.961 doanh nghiệp ngừng hoạt động, trong
đó có 592 phá sản

Malaysia Năm 1996

Năm 1997
489 doanh nghiệp phá sản

6.583 doanh nghiệp phá sản (bằng 13 lần so
với 1996)
Indonesia Năm 1998 Khoảng 80% doanh nghiệp ngừng hoạt
động
Hàn Quốc Năm 1997

Năm 1998
14.000 doanh nghiệp phá sản

53.000 doanh nghiệp phá sản (gấp 3,8 lần
năm 1997)
Nguồn: Đình Thơm(1998). “Khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực, nguyên nhân và
giải phát”, NXB thông tin KHXH, Hà Nội và Nguyễn Thiện Nhân (2002). “Khủng
hoảng kinh tế- tài chính ở châu Á 1997-1999”, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM.
Sự phá sản của hàng loạt ngân hàng, doanh nghiệp sẽ dẫn đến hai hậu quả trực
tiếp là số người thất nghiệp tăng mạnh, và tăng trưởng kinh tế bị giảm sút,(Bảng 1.4).




Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 4

Bảng 1.4 Tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp khi khủng hoảng kinh tế - tài chính

Tăng trưởng kinh tế (%) Tỷ lệ thất nghiệp (%)
1996 1997 1998 1996 1997 1998
Thái Lan 6,7

-0,4

-8,3




Malaysia 8,2

7,0

2,0




Indonesia 7,8

4,6

-13,7




Philippines


5,8

5,2

-0,5

9,5

10,4

3,3

Hàn Quốc 7,1

5,5

-5,8

2,3

2,5

8,0

Nguồn: ASEAN University Network(2000), Economic Crisis in Southeast Asia and
Korea, Tradition and Modernity Publisher, Seoul, Korea, tr 21- 25 và Nguyễn Thiện
Nhân (2002). “Khủng hoảng kinh tế- tài chính ở châu Á 1997-1999”, NXB Đại học
Quốc gia TP.HCM.
Năm 1996, tổng thu nhập quốc gia của Hàn Quốc là 528 tỷ USD, năm 1998 giảm

chỉ còn 317 tỷ USD, giảm 39%, thu nhập bình quân đầu người giảm từ 11.380 USD còn
6.823 USD, [6, tr61].
Về mặt kinh tế, khủng hoảng 1997-1999 ở 4 nước Thái Lan, Malaysia, Indonesia
và Hàn Quốc có đặc điểm giống nhau về xu hướng diễn biến của năm tham số:
1. Tỷ giá hối đoái tăng mạnh, ngoài tầm kiểm soát
2. Phá sản hàng loạt các ngân hàng, công tài chính
3. Phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp
4. Thất nghiệp tăng mạnh
5. Tăng trưởng kinh tế tăng mạnh


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 5

1.2 Mô hình “Các nguy cư khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế -
tài chính”
Sơ đồ 1.1 Mô hình “Các nguy cư khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng
kinh tế - tài chính”

Nguồn: Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 12 năm 2002
Qua đó ta thấy, khủng hoảng chỉ có thể nổ ra khi bên trong nền kinh tế đã tích
lũy bốn nguy cơ khủng hoảng là:
- Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp
- Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chính
- Sự lên giá của đồng nội tệ
- Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán
Và khi bên ngoài có một tác động quyết định là sự rút vốn tài chính của các nhà
đầu tư nước ngoài.
Khi đồng nội tệ bị lên giá do quốc gia duy trì tỷ giá hối đoái gần như cố định quá

lâu, yếu kém về xuất khẩu, giữ lãi suất cho vay trong nước cao hơn lãi suất các đồng
tiền mạnh ở nước ngoài, thì trước sau nguy cơ mất khả năng thanh toán sẽ ngày càng


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 6
lớn, khả năng giữ tỷ giá hối đoái cố định sẽ ngày càng suy yếu và việc phải thả nổi đồng
tiền nội địa-tức tăng tỷ giá hối đoái chỉ là vấn đề thời gian.
Khi một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán chính phủ nước sở tại sắp hết dự trữ
ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì họ sẽ bán tài sản họ đã đầu tư, đổi lấy
ngoại tệ mang ra nước ngoài. Lúc đầu, chính phủ các nước thường bán dự trữ ngoại tệ
để duy trì tỷ giá cũ, song đến một lúc nào đó, không còn khả năng bán nữa thì sẽ thả nổi
tỷ giá hối đoái. Lúc này các nhà đầu tư nước ngoài chưa bán tài sản (sổ phiếu, trái
phiếu, tín phiếu) thì sẽ tìm cách bán thật nhan và đổi sang ngoại tệ để tối thiểu hóa thiệt
hại cho mình. Áp lực này càng làm cho tỷ giá hối đoái tăng vọt. Đó là vòng xoáy khủng
hoảng thứ 1, tác động rất nhanh tới tỷ giá hối đoái (Sơ đồ 1.1).
Và việc chỉ vài ngân hàng phá sản, sẽ gây tâm trạng lo âu cho người dân gửi tiền
tiết kiệm ở các ngân hàng khác, họ sẽ lại chạy đi rút tiền tiết kiệm khỏi ngân hàng, dẫn
đến việc cả các ngân hàng làm ăn hiệu quả cũng lâm vào mất khả năng chi trả, phá sản.
Đó là vòng xoáy khủng hoảng thứ 3, tác động nhanh (Sơ đồ 1.1).
Khi tỷ giá hỗi đoái tăng mạnh dư nợ ngoại tệ của các doanh nghiệp tính bằng
tiền nội tệ sẽ tăng vọt, cùng với việc các ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ không
có khả năng cung ứng tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động nữa. Các doanh nghiệp
nào hoạt động vốn đã kém hiệu quả, thì giờ đây sẽ không có đủ vốn để kinh doanh,
càng sớm bị đảy tới thua lỗ và phá sản. Khi doanh nghiệp thua lỗ thì các ngân hàng,
công ty tài chính không đòi được nợ, sẽ càng phá sản nhanh hơn. Đó là vòng xoáy
khủng hoảng thứ 4, tác động chậm hơn các vòng xoáy khủng hoảng trước (Sơ đồ 1.1).
Khi một nước bị khủng hoảng dẫn tới hậu quả là tỷ giá hối đoái của nước đó tăng
mạnh, thì tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước đó tăng, làm cho xuất khẩu của các

nước có tỷ giá ổn định bị ảnh hưởng xấu. Điều này làm cho cán cân thương mại của
nước này bị thâm hụt, khả năng thanh toán quốc gia ngày càng suy yếu. Đây là áp lực
buộc các nước này phải phá giá đồng nội tệ để đẩy mạnh xuất khẩu, phòng ngừa khả
năng mất thanh toán (Sơ đồ 1.1). Có thể gọi đây là tác động dây truyền của việc phá giá
một nước tới các nước khác (Sơ đồ 1.1).
Tóm lại, từ mô hình “Các nguy cư khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng
hoảng kinh tế - tài chính”, chúng ta nhận thấy khủng hoảng kinh tế tài chính “kiểu châu
Á 1997-1999” đã nổ ra với sự kiện bên trong là sự tích lũy 4 nguy cơ khủng hoảng, với


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 7
sự xuất hiện và tác động lẫn nhau của 4 vòng xoáy khủng hoảng) và dưới tác động dây
chuyền của phá giá nội tệ (Sơ đồ 1.1).
Trình tự xuất hiện của các vòng xoáy khủng hoảng ở mỗi nước, tiến trình khủng
hoảng ở mỗi nước có khác nhau, tùy theo hoàn cảnh cụ thể (mức độ tích lũy các nguy
cơ khủng hoảng) và chính sách đối phó của mỗi nước.


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 8

CHƯƠNG 2
TÓM TẮT DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Ở MỘT
SỐ NƯỚC CHÂU Á
2.1. Thái Lan –Ngòi nổ của cuộc khủng hoảng.
2.1.1 Tình hình kinh tế Thái Lan trước khủng hoảng
Những năm trước năm khủng hoảng kinh tế-tài chính nền kinh tế của Thái Lan

phát triển rất tích cực: GDP tăng cao liên tục, xuất khẩu phát triển, lạm phát thấp, ngân
sách chính phủ luôn dư thừa và cán cân thanh toán có thể kiểm soát được, đầu tư tăng
vọt và tình trạng thất nghiệp hầu như không có.
 Các doanh nghiệp hoạt động ngày càng kém hiệu quả
Tăng trưởng GDP ở mức cao, kéo dài nhiều thập kỷ, cộng với lãi suất tiết kiệm
trong nước cao (bình quân 16,3% năm, trong khi ở Mỹ là 7,6), và tỉ giá hối đoái gần
như cố định đã tạo nên một môi trường kinh doanh rất hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài, đặc biệt đầu tư tài chính, cho vay ngắn hạn và tín dụng thương mại. Như vậy,
các doanh nghiệp trong nước nếu vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng, công ty nước
ngoài như Mỹ thì chỉ chịu lãi suất bằng ½ lãi suất cho vay trong nước. Nếu các doanh
nghiệp tận dụng khả năng sử dụng vốn bên ngoài không quan tâm đến hiệu quả sử
dụng vốn vay thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm, dù tổng sản lượng có thể tăng.
Một điểm đặc biệt ở Thái Lan là trong giai đoạn 1991-1996, đầu tư trực tiếp của
nước ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính gián tiếp và sử
dụng vốn vay ngắn hạn nước ngoài. Tổng đầu tư trực tiếp thwoif kỳ này là 11,701 tỷ
USD, tổng đầu tư trực tiếp của Thái Lan ra nước ngoài là 2,857 tỉ USD, do vậy tổng
đầu tư trực tiếp thuần là 8,822 tỉ USD. Trong khi đó, tổng đầu tư tài chính thuần (cổ
phiếu, trái phiếu) là 16,4 tỉ USD, và tổng vay ngắn hạn thuần là 60,04 tỉ USD. Như
vậy, trong tổng số vốn nước ngoài thuần đã đầu tư vào Thái Lan thời kỳ 1991-1996 là
85,293 tỉ USD thì đầu tư trực tiếp chỉ chiếm 10,36% (8,844 tỉ USD), đầu tư gián tiếp
19,23% (16,404 tỉ USD) và tín dụng, vay ngắn hạn tới 70,4% (60,045 tỉ USD).
Việc sử dụng đến gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín
dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty, vì phải trả nợ thường
xuyên và bằng ngoại tệ (với tín dụng ngắn hạn). Hậu quả, là nếu doanh nghiệp kinh
doanh không tốt thì hiệu quả ản xuất kinh doanh của các công ty sẽ thấp .


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 9

Thế nhưng , tỉ suất thu hồi hay tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình quân của
các doanh nghiệp đã giảm từ 8%/năm vào năm 1991 xuống chỉ còn 1%/năm năm vào
1996 . Trong một nền kinh tế mà lãi xuất cho vay là 16,3%/năm còn hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp là 1%/năm thì rõ ràng là đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng.
 Ngân hàng hoạt động ngày càng kém hiệu quả
Trước nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và do có phần buông lỏng vai trò giám
sát hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đi vay nên các ngân hàng và công ty tài
chính của Thái Lan đã rất tích cực vay nợ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong
nước .
Tổng nợ nước ngoài so với tổng tài sản nước ngoài mà hệ thống ngân hàng có tăng từ
171% (1991) lên 694% (1996). Đồng thời ROA của hệ thống ngân hàng Thái Lan chỉ
còn 0,99%/năm. Rõ ràng Thái Lan đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng “ phá sản Ngân
hàng”.








Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 10
Bảng 2.1. Số liệu kinh tế Thái Lan (diện tích 514.000 km
2
, dân số 61 triệu
người)
Nguồn : Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 12 năm 2002
 Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán

Trong suốt các năm 1991-1996 , cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm
hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới 14,7 tỉ USD.
Một lí do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được khuyến khích
do tỉ giá hối đoái danh nghĩa gần như cố định (25baht/USD), lạm phát trong nước cao
hơn so với ở Mỹ ( 5% so với 3%), đồng baht bị định giá cao hơn so với đồng USD. Để
bù đắp thâm hụt thương mại và để có vốn đầu tư bình quân 40%GDP mỗi năm, con
Năm 1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999
Tăng trưởng (%)
GDP (a)
7,0

7,1

8,2


8,6

8,7

6,7

-0,4

-8,3

1
Baht/USD 25,28

25,32

25,54

25,09

25,19

25,61

47,25

41,3
7

37,11

Lạm phát (%) 5,7

4,1

4,6

5,1

5,8

4,8

5,6

8,1

5,02
Xuất khẩu (tỷ USD)

28,23

32,1

36,4

44,47

55,4

54,4


56,7

52,9


Nhập khẩu (tỷ
USD)
-34,22

-36,26

-40,09

-48,2

-63,4

-63,9

-55,3

-40,6


Cán cân thương
mại (tỉ USD)
-5,9

-4,16


-4,3

-3,7

-7,7

-9,5

1,5

12,3

-36,26

Cán cân tài khoản
vãng lai (tỉ USD)
-7,59

-6,3

-6,36

-8,08

-13,55

-14,69

-3,02


14,3

7,2
Cán cân tài khoản
vốn (tỉ USD
11,26

9,47

10,5

12,17

21,9

19,5

-15,8

-9,5

85,29
Đầu tư trực tiếp
thuần (tỉ USD)
1,847

1,966

1,571


0,873

1,182

1,405

3,344


8,844
Đầu tư tài chính
thuần (cổ phiếu –
trái phiếu, tỉ USD)
9,994

6,584

3,474

8,812

16,644

14,537

-23,51


60,04

Đầu tư khác thuần
(tỉ USD)
-0,081

0,924

5,455

2,481

4,181

3,544

4,361


16,4
Nợ nước ngoài (ti
USD)
35,99

39,61

45,84

60,99

65,0


89,0

97,0



Nợ ngắn hạn (ti
USD)




43,6

45,7

45,6



Dự trữ ngoại tệ (tỉ
USD)
18,4

21,2

25,4

30,3


37,0

38,7

27,0

29,5


Đầu tư cố định tính
bằng % GDP (b)
38,0

39,5

39,9

40,1

42,8

39,8

39,1


40
ICOR (b/a) 5,4

5,56


4,86

4,92

5,94




5,2


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 11
đường không tránh khỏi là vay tiền nước ngoài (từ các ngân hàng, các doanh nghiệp,
nhà đầu tư tài chính, chính phủ các nước). Vì vậy nợ nước ngoài của Thái Lan không
ngừng tăng, từ 35,99 tỉ USD năm 1991 lên 89 tỉ USD năm 1996, gấp 2,47 lần trong
vòng 5 năm, và bằng 54% GDP Nợ ngắn hạn chiếm: 67% tổng nợ nước ngoài (1995),
51% tổng nợ nước ngoài (1996). Nợ ngắn hạn năm 1995 và 1996 gấp gần 1,18 lần dự
trữ ngoại tệ của quốc gia. Tức là Thái Lan thực tế đã mất khả năng thanh toán nợ nước
ngoài từ năm 1995. Tức là thực tế TL đã mất khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ
năm 1995. Nếu các nhà đầu tư Thái Lan cũng phải thả nổi đồng nội địa Baht, thì chính
họ sẽ bán cổ phiếu, trái phiếu, đòi nợ ngắn hạn, đổi từ tiền Baht ra USD, làm tăng cầu
ngoại tệ đột ngột. Kết quả là tỉ giá hối đoái sẽ tăng, dự trữ ngoại tệ cạn kiệt, nguy cơ
mất khả năng thanh toán của quốc gia sẽ ngày càng cao. Đến tháng 6.1997 nợ nước
ngoài của Thái Lan đã bằng 1,5 lần dự trữ ngoại tệ của Thái Lan.
Tóm lại, cuối 1996 đầu 1997, Thái Lan đã tích lũy cả 4 nguy cơ khủng hoảng ở mức
cao .

2.1.2 Diễn biến khủng hoảng kinh tế-tài chính ở Thái Lan
Đầu năm 1997 đến tháng 3 năm 1997: người dân và các nhà đầu tư bắt đầu rút
vốn ra khỏi các ngân hàng và các công ty tài chính, chính phủ phải đóng cửa thị trường
chứng khoáng ngày 3.3.1997. Chính phủ yêu cầu các tổ chức tài chính phải tăng cường
dự trữ tiền mặt, thông báo 10 công ty tài chính ở trạng thái không bình thường (Unico
housing Co.Ltd ; Thai-Fuji; Royal International; Sri Dhana; Eastern Finance;
County….).
Ngày 4 và 5/3/1997: hơn 21,4 tỉ Baht (820tr USD) đã được rút khỏi các ngân
hàng và công ty tài chính.
9/4/1997: tỉ giá hối đoái tăng lên mức 26,08baht/USD
25/6/1997: tổng số công ty tài chính bị đóng cửa là 58/91 cty (64%) trên toàn
quốc
Để giữ tỉ giá hối đoái, chính phủ phải bán ngoại tệ làm dự trữ ngoại tệ giảm mạnh từ
38,78 tỉ USD tháng 6.1996 còn 37.7 tỉ USD vào tháng 12.1996 và còn 31.4 tỉ USD vào
30.6.1997.
Nếu mức độ giảm sút dự trữ quốc gia của quý 2 năm 1997 kéo dài thêm khoảng
2-3 quý nữa thì lúc đó dự trữ ngoại tệ quốc gia chỉ còn khoảng 10 tỉ USD , bằng 1/3
mức dự trữ ngoại tệ năm 1996 , và chính phủ sẽ buộc phải thả nổi tỉ giá hối đoái vì


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 12
HOÀN TOÀN không còn khả năng bán ngoại tệ để duy trì tỉ giá hối đoái. Có lẽ thấy
trước nguy cơ này , ngày 2.7.1997 chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng Baht, kết
quả là 6.1997: tỉ giá là 25 Baht/USD. Đến tháng 1.1998: tỉ giá là 53Baht/USD (tăng
112% trong 6 tháng).
2.2 Indonesia – Hiệu ứng lan truyền của cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng lan san Indonesia khi các nhà xuất nhập khẩu không thể thu
hồi được lượng vốn đầu tư từ Thái Lan khiến đất nước khủng hoảng nghiêm trọng, cũng

như Thái Lan, Indonesia khởi đầu khủng hoảng cũng từ việc mất giá của đồng Rupiah,
tốc độ của nó chẳng khác nào 1 chiếc xe công thức 1, có thời điểm nó mất giá trên
625% (tỷ giá đồng Rupiah/USA tương ứng vào các ngày 2.7.1997; 31.12.1997 và
15.7.1998 là 2430, 4375, 15200). Trong khi đó nợ nước ngoài của Indonesia lên tới
133,67 tỷ USD ( trong đó vay ngắn hạn 29,2 tỷ USD) khiến Indonesia lâm vào tình
trạng khủng hoảng trầm trọng, tỷ lệ thất nghiệp tăng 4 lần và 16 ngân hàng và trên 80%
daonh nghiệp trên đất nước bị phá sản. Mức lạm phát tính đến tháng 5.1998 là 49,7% 1
tháng sau là 56,7%. Khiến hàng loạt Nhà đầu tư (chủ yếu người Hoa) rút vốn gửi sang
Singapore. Cuộc khủng hoảng chính thức bắt đầu tại Indonesia.
Sau đó cuộc khủng hoảng bắt đàu lan rộng hơn với các nước Đông Nam Á khác
như Malaixia, philipin và cả Singapore cũng bị ảnh hưởng khiến các đồng nội tệ tại các
quốc gia này giảm nhanh chống như đồng Pêsô (Philipin), Riggit (Malaixia) giảm
khoảng 25%. Và đồng đô la Singapore cũng giảm mức 6% so với trước thời kỳ khủng
hoảng.
2.3 Hàn Quốc – Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế (CHAEBOL)
Vào tháng 10.1997 cuộc khủng hoảng bắt đầu tại Hàn Quốc quốc gia có nền kinh
tế phát triển vượt bậc và đứng thứ 11 thế giới. Lĩnh vực tài chính ngân hàng của Hàn
Quốc bị ảnh hưởng trầm trọng nhất. Trong những năm 1995 tốc dộ tăng trưởng kinh tế
Hàn Quốc là 8.9%/năm một con số kỳ diệu những đến năm 1998 mức tăng trưởng ở
mức -0.8% .
Dưới sự giúp sức của chính phủ Hàn Quốc các chaebol được hưởng rất nhiều ưu
đãi, nhiều khoảng vay được chính phủ tài trợ rất lớn mức vay của chaebol dao động từ
200 đến 1000% số vốn tự có của họ để kinh doanh. Khiến nền kinh tế phụ thuộc rất
nhiều vào các tập đoàn này, với việc ảnh hưởng giá đồng Won giảm nghiêm trọng trong
cuối năm 1996 giảm 36.6% và mức 19.5% vào tháng 10.1997 các tập đoàn này không


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 13

thể tiêu thụ một lượng lớn hàng hóa như điện tử, máy móc…. Khiến họ không có khả
năng trả nợ, họ vay ngân hàng nhằm cứu vãn nhưng với mức lãi suất cao 18%/năm
nhưng các ngân hàng vẫn không chấp nhận. Dẫn đến tình trạng hàng loạt các chaebol bị
phá sản trong đó có 7 trong 30 chaebol lớn nhất tại Hàn Quốc như Hanbo, KIA, Jinro,
Dainong…. Với mức nợ lên tới 25,83 nghìn tỷ Won và tổng nợ nước ngoài là 130 tỷ
USD. Theo đó mức tín nhiệm của Hàn Quốc cũng bị đánh hạ từ mức AA
-
xuống A
+
.
việc huy động vốn trở nên khó khăn vô cùng.
2.4 Nhật Bản – Sự sụt giá của dồng Yên
Cũng những nguyên nhân trên cuộc khủng hoảng lan rộng san nền kinh tế đứng
thứ 2 thế giới, hậu quả khiến đồng yên giảm từ mức 146,5 yên/USD xuống 145,5
yêm/USD. Nguyên nhân từ sự chậm trễ của chính phủ Nhật bản trước cú sốc là nguyên
nhân chính của tình hình dẫn đến tình trạng hàng loạt các ngân hàng tại Nhật Bản bị
chao đảo, hàng loạt vụ đỗ vỡ của các doanh nghiêp trong đó có gần 1800 doanh nghiệp
bị phá sản. thất nghiệp tăng lên 4.1%. Nợ nước ngoài cảu Nhật Bản đạt mức kỷ lục 14.5
tỷ USD.


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 14

CHƯƠNG 3
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG ĐẾN CÁC QUỐC GIA CHÂU Á
3.1 Tác động tiêu cực
Hậu quả của cuộc khủng hoảng gây ra là quá rõ ràng, toàn diện và hết sức nặng
nề. Đó là sực mất ổn định của đồng tiền và cảu thị trường tiền tệ của mỗi nước và khu

vực; sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài đỗ vào mỗi nước và toàn khu vực; là sự hoạt
động đầu tư do mức lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Tất cả làm suy giảm nhanh chóng
tốc độ tăng trưởng kinh té các nước này và toàn khu vực, tình trạng thất nghiệp ngày
càng gia tăng (chẳng hạn, tại Thái Lan, Hàn quốc và Inđônêxia tình trạng thất nghiệp
tăng gấp đôi so với mức trước khủng hoảng), các khoản nợ ngoại tệ nước ngoài gia
tăng. Giá trị đồng tiền bản tệ suy giảm trầm trọng ước tính đã có hơn 20 đồng tiền khác
nhau bị giảm giá. Theo đó mà ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu là không thể tránh
khỏi trong đó nền kinh tế đứng đầu thế giới giảm 0.5 – 1% trong năm 1998 và hoạt
động thương mại toàn cầu suy giảm từ 2 – 3% so với năm 1997.
Khủng hoảng đã gây thiệt hại cho các nước châu Á ít nhất 300 tỷ USD khoảng
20% GDP của các nước bị khủng hoảng và thiệt hại chung của nền kinh tế toàn cầu lên
đến 500 tỷ USD. Niềm tin của các nhà đầu tư từ khu vực này giảm mạnh, các dòng vốn
cũng sụt giảm theo. Ngoài ra, căng thẳng tình trạng bất ổn định về chính trị theo đó gia
tăng.
3.2 Tác động tích cực
Bất cứ vấn đề nào cũng tồn tại 2 mặt của nó cuộc khủng hoảng này cũng không
nằm ngoại lệ:
Cuộc khủng hoảng là điểm dừng để mở đầu một giai đoạn phát triển mới đầy
triển vọng trong đó nộ tại của cuộc khủng hoảng đã có những thay đổi mới
- Với chính sách tỷ giá linh hoạt của các nước sẽ làm giảm thiểu được lượng
ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài
- Nhờ vào quá trình trợ giúp của IMF, ADC và một số quốc gia khác giúp gia
tăng lượng tín dụng, tăng mối quan hệ giúp định hướng và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành
mạnh hóa hơn nền kinh tế quốc gia.
- Quá tình tự do hóa và toàn cầu hóa được đẩy mạnh.
3.3 Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến một số lĩnh vực kinh tế của Việt Nam


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997


GVHD: Trần Bá Trí Trang 15
3.3.1 Tác động chung đến nền kinh tế Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực diễn ra với nhiều biến động, sâu sắc
cả về phạm vi, mức độ và tính chất. Từ chỗ chỉ là cuộc khủng hoảng tiền tệ, kéo theo nó
là cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng, tiếp đến là cuộc khủng hoảng tài chính và dần
chuyển thành cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc ở một số quốc gia
Châu Á trong đó có Việt Nam.
Vậy cuộc khủng hoảng này có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế Việt
Nam?
Sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, ở VN đã có nhiều cuộc hội thảo khoa
học với các quy mô khác nhau, nhưng với cùng một chủ đề lớn là cùng tìm câu trả lời
về vấn đề này.Nhưng trong lúc tìm câu trả lời thì lại xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau
về vấn đề này.
Một số ý kiến cho rằng: VN không chịu ảnh hưởng nhiều của cuộc khủng hoảng
vì thị trường tài chính tiền tệ còn sơ khai, còn đóng cửa đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, đồng tiền VN chưa là đồng tiền chuyển đổi, chưa là đối tượng đầu tư quốc tế;
nguồn vốn nước ngoài đổ vào VN phần lớn là vốn vay dài hạn; chế độ quản lý tỷ giá
ngoại hối khá linh hoạt và được điều chỉnh kịp thời; việc vay nợ nước ngoài của các
doanh nghiệp tuy hiệu quả sử dụng còn thấp nhưng nhìn chung chúng ta vẫn có thể
kiểm soát được.
Nhưng cũng còn nhiều ý kiến lại cho rằng: cuộc khủng hoảng này đã tác động
làm lộ “chân tướng” là các điểm yếu của nền kinh tế với các dấu hiệu tiềm ẩn của mức
tăng trưởng giảm, biểu hiện của sự phát triển không ổn định, không vững chắc; tỷ lệ tiết
kiệm trong nước đạt thấp, trong đó tỷ lệ vốn đầu tư nước ngoài cao và sự thay đổi
nguồn vốn này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, cán cân vãng lai thâm hụt kéo
dài. Những điểm yếu này đòi hỏi phải có các toa thuốc hữu hiệu để phòng chữa vì nó
rất dể bùng nổ nếu như không kịp thời có biện pháp ứng phó chống lại các tác động của
cuộc khủng hoảng đối với toàn bộ nền kinh tế và một số lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế.
Từ đây ta có thể kết luận VN dù muốn dù không thì vẫn không thể tránh khỏi
những tác động trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và dài hạn, tốt và xấu của nó đến tấc cả

các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước. Minh chứng cho nhận định này như sau:
Trước hết, có hai điểm khác biệt chủ chốt ảnh hưởng đến mức độ và phương
thức tác động của khủng hoảng đối với VN


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 16
Thứ nhất, các thị trường tài chính VN vừa chưa phát triển vừa kém hoà nhập với
các thị trường khu vực và quốc tế
Thứ hai, cơ cấu các luồng vốn chảy vào VN có độ an toàn cao gơn do chủ yếu là
FDI và ODA.
Đồng thời, theo quan điểm của IMF nhận thấy có một số điểm tương đồng khá
rõ nét giữa VN với các nền kinh tế đang chịu khủng hoảng trong khu vực:
Thứ nhất, VN đang có thâm hụt cán cân vãng lai cao
Thứ hai, có sự duy trì ổn định kéo dài tỷ giá VND
Thứ ba, có các tín hiệu rõ ràng gia tăng sự căng thẳng trong hệ thống ngân hàng
VN
Thứ tư, có tín hiệu về sự suy giảm tình trạng tài chính của nhiều doanh nghiệp,
trong đó có sự vay nợ đáng kể bằng USD. Ngoài ra, còn có một số điểm dễ nhận
thấy khác nữa như độ trì trệ của thị trường bất động sản, sự lúng túng trong
chuyển dịch và cải thiện cơ cấu xuất khẩu, tình trạng thất nghiệp khá cao, tình
trạng hiệu quả đầu tư xã hội thấp và tình năng động của thị trường chưa cao, các
thiết chế thị trường chưa phát triển đầy đủ, tiêu dùng xa xỉ và dự trữ ngoại tệ
mỏng.
 Đây chính là những “ tiếp điểm” nhạy cảm truyền dẫn và cộng hưởng các tác động
tiêu cực của khủng hoảng khu vực đến nền kinh tế VN.
Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế, nền kinh tế các nước trong xu
thế mở cửa, hướng ngoại thì khủng hoảng kinh tế tại một nước, hay một khu vực sẽ có
những ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế thế giới nói chung, cũng như từng nền kinh

tế riêng biệt.
Xét từ nhiều góc độ khác nhau thì bản thân nội tại nền kinh tế nước ta cũng chứa
đựng những yếu tố mang tính nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tương tự như một số
nước trong khu vực, tuy nhiên mức độ và ở một số lĩnh vực có những điểm khác
nhau.Điều đó được rút ra từ việc phân tích, so sánh nền kinh tế của nước ta so với nền
kinh tế của các nước khác trong khu vực.
 Những điểm giống nhau:
Nền kinh tế chúng ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao một phần quan trọng là
do tốc độ tăng xuất khẩu cao 20-30%/năm, đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Mức tăng
trưởng GDP chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vốn FDI và ODA nên khi nguồn nay giảm


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 17
sút dễ gây những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế. Nhu cầu vốn nước
ngoài liên tục tăng lên trong khi tiết kiệm trong nước ở mức thấp, chỉ chiếm khoảng
17% GDP.
Cán cân thanh toán vãng lai bội chi kéo dài trong nhiều năm( từ năm 1992) ở
mức cao so với GDP. Thâm hụt cán cân vãng lai và cán cân thương mại gây sức ép đến
tỷ giá hối đoái và tăng dư nợ nước ngoài của Việt Nam.Riêng năm 1996 thâm hụt cán
cân vãng lai 2 tỷ đô la (chiếm khoảng 10% GDP) và năm 1997 mặc dù đã giảm nhưng
vẫn thâm hụt cao (khoảng 1,5 tỷ USD).
Theo số liệu ước tính của ngân hàng nhà nước, trong năm 1998 mức thâm hụt
cán cân vãng lai có khả năng tăng cao hơn năm 1997 (dự kiến 1,7 tỷ USD). Cán cân
thương mại cúng thâm hụt lớn cụ thể năm 1996 (4 tỷ USD), năm 1997 (2,3 tỷ USD),
năm 1998 (2,5 tỷ USD).
Bội chi ngân sách nhà nước kéo dài. Công cụ thuế chưa được phát huy hết hiệu
lực và hiệu quả đối với nền kinh tế, còn thất thu nhiều. Đặc biệt là việc bao cấp cho một
số doanh nghiệp nhà nước chưa được giải quyết triệt để, ngân sách thường xuyên bi bội

chi gây sức ép lớn đến nhu cầu vốn ngoại tệ từ bên ngoài và lượng dự trữ quốc gia còn
eo hẹp.
Chế độ tỷ giá ổn định kéo dài nhằm mục đích tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn
định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Luồn vốn nước ngoài đổ vào nhiều đã tạo nên sự
ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại tệ, tuy nhiên lại làm tăng tỷ giá thực của đồng VN
và ảnh hưởng xấu tới cán cân thanh toán quốc tế.
Mức nợ nước ngoài tăng nhanh là do bình thường hoá quan hệ với các tổ chức
quốc tế và tái hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế. Tuy mức nợ này góp phần dáp
ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhưng về lâu dài gánh nặng nợ này sẽ ảnh
hưởng không nhỏ đến cán cân thanh toán và nhuc ầu ngoại tệ để trả nợ đến hạn, nhất là
khi các khoản vay nước ngoài sử dụng không hiệu quả, thất thoát hay doanh nghiệp mất
khả năng trả nợ.
Cơ cấu vốn đầu tư có những dấu hiệu chưa hợp lý. Đầu tư tăng nhanh nhưng tập
trung vào một số lĩnh vực nhất định nên đã gây ra những hiện tượng dư thừa như một số
lĩnh vực sản xuất sát thép, xi măng, đường.
Hệ thống tài chính ngân hàng chưa phát triển phù hợp, còn non yếu trong quản lý
dặc biệt trong lĩnh vực thanh tra kiểm soát. Các ngân hàng còn lỏng lẻo trong quản lý


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 18
vốn, chất lượng tín dụng kém, thất thoát, nợ đọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn.Ngoài ra
trong hệ thống ngân hàng thương mại đã có nhiều hoạt đong tín dụng cho vay thế chấp
bất động sản. Hệ quả là khi thị trường bất động sản suy giảm (năm 1996) nhiều doanh
nghiêp làm ăn thua lổ mất khả năng thanh toán đã đẩy nhiều ngân hàng rơi vào tình
trạng thiếu vốn và tăng gánh nặng thanh toán ngoại tệ đối với các hợp đồng bảo lãnh.
 Những điểm khác nhau:
Thị trường tài chính tiền tệ của Việt Nam mới ở giai đoạn sơ khai, chưa phát
triển đầy đủ để có thể hoà nhập vào thị trường tài chính khu vực.

Thị trường chứng khoáng chưa hình thanh, các công cụ tài chính như cổ phiếu,
trái phiếu chưa phát triển. Ngoài ra việc đầu tư của nước ngoài vào giáy tờ có giá trong
nước vẫn còn bị kiểm soát chặt chẽ chưa được cho phưép nên khả năng đầu cơ gây bất
lợi cho tiền dồng Việt Nam được hạn chế. Vì vậy sức ép của việc chuyển vốn ngắn hạn
ra khỏi Việt Nam không có và không thể gây ra những cú sốc đột biến.
Nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam, chủ yếu dưới dạng đầu tư trực tiếp, thời hạn
dài theo các dự án sản xuất nên cac nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể lập tức
chuyển vốn ra.
Chế độ quản lý ngoại hối của Việt Nam tương đối chặt chẽ, kể cả các giao dịch
vãng lai và giao dịch vốn, góp phần tạo ra một “ rào chắn” trước những áp lực của
luồng ngoại tệ chảy ra ngoài hoặc những hoạt động đầu cơ.
Nợ nước ngoài chủ yếu là nợ trung và dài hạn, nợ ngắn hạn không nhiều nên sức
ép đột biến từ lĩnh vực này đối với cầu ngoại tệ không mạnh như một số nước Đông
Nam Á (có tỷ lệ nợ nước ngoài ngắn hạn rất cao). Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản
lý việc vay nợ nước ngoài tương đối chặt nên nhìn chung ta vẫn kiểm soát và dự báo
được nhu cầu trả nợ từng thời kì.
Chính sách tỷ giá từng bước linh hoạt trên cơ sở ổn định giá trị đối nội và đối
ngoại, tạo điều kiện cho đông Việt Nam được phản ánh tương đối sát thực với cung cầu
ngoại tệ tạo “neo giữ” góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng xuất
khẩu.
Cụ thể, năm 1986-1998 ta chủ động điều chỉnh tỷ giá để đạt mục tiêu nói trên: từ
năm 1986-1990, tỷ giá VND/USD đã tăng dần từ 80đ/USD lên tới 6.500đ/USD, năm
1991 lên tới 12.00đ/USD. Trước khi khủng hoảng kinh tế khu vực xảy ra ta có giải
pháp nâng dần tỷ giá chính thức( kể từ cuối năm 1996 đầu năm 1997 và mở rộng biên


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 19
độ giao dịch của ngân hàng thương mại từ 1 đến 5% so với tỷ giá chính thức tháng

2.1997 là 10% và tháng 8.1998 là 7%). Những giải pháp này đã kịp thời góp phần giảm
bớt sức ép đối với tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam.Trong khi đó, nhiều nước bị khủng
hoảng đã giữ tỷ giá cố định quá lâu, nên đã mất nhiêu dự trữ để can thiệp bảo vệ cho
mức tỷ giá đó trước khi phải thả nổi hoàn toàn. Ví dụ: Thái Lan giữ cố định mức tỷ giá
25 Baht ăn 1 USD trong suốt 13 năm và vừa qua bỏ ra hơn 6 tỷ USD để can thiệp.
Chính phủ Việt Nam đã sớm có những chỉ đạo kịp thời để ngăn chặn các nguy
cơ khủng hoảng có thể xảy ra xuất phát từ những nguyên nhân nội sinh của nền kinh tế,
đặc biệt là xử lý các vấn đề chính sách. Giải pháp xử lý nợ quá hạn (1994) và ngăn chặn
kịp thời tình trạng mở L/C thanh toán tràn lan (1996) thông qua khống chế mức mở L/C
ngắn hạn tối đa đã hạn chế được ảnh hưởng từ lĩnh vực này (tính đến cuối năm 1997 số
dư nợ L/C ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USD so với 1,4 tỷ USD vào tháng 6.1996).
Đồng thời chính phủ có các biện pháp xử lý các tài sản thế chấp, giải toả nguồn vốn cho
hệ thông ngân hàng. Ngoài ra xúc tiến xây dựng các quy chế, quy định đồng bộ đối với
ngân hàng góp phần hoàn thiện hệ thống ngân hàng, đặc biệt 2 Luật ngân hàng và luật
các tổ chức tín dụng.
Từ phân tích những đặc điểm giống nhau cũng như khác nhau giữa nền kinh tế
Việt Nam và một số nước Đông Nam Á , ta có thề thấy những ảnh hưởng cơ bản sau
đây của cuộc khủng hoảng nói trên đối với một số lĩnh vực cụ thể của Việt Nam.
3.3.2 Đối với lĩnh vực tài chính ngân hàng
3.3.2.1 Sức ép giảm gíá đồng Việt Nam trên thị trường hối đoái
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á ngay lập tức đã gây ra sức ép giảm
giá đồng Việt Nam do :
- Thị trường dự đoán về khả năng khủng hoảng của đồng Việt Nam, dẫn tới tình
trạng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ. Tâm lý đầu cơ thị trường đã đẩy tỷ giá trên thị trường tự
do tăng mạnh ( có thời điểm USD/ VND=14600)
- Bên cạnh đó, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại cũng luôn ở mức
trên giao dich cho phép.
3.3.2.2 Ảnh hưởng đến cơ cấu tiền tệ gửi tại ngân hàng
Cuộc khủng hoảng đã gián tiếp tác động tới cơ cấu tiền gởi giữa dồng Việt Nam
và ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng.Tiền gởi bằng đồng Việt Nam có xu hướng tăng

chậm , trong đó tiền gởi bằng ngoại tệ tăng khá nhanh kể cà tiền gởi tiết kiệm ngoại tệ


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 20
của dân chúng và tiền gởi ngoại tệ của các doanh nghiệp (tính đến ngày 30.11.1997 tiền
gởi tiết kiệm ngoại tệ là 526 triệu USD, tiền gời ngoại tệ của doanh nghiệp là 1720 triệu
USD). Nhiều doanh nghiệp giữ ngoại tệ trên tài khoản mà không bán cho ngân hàng để
tránh khả năng giảm gía đồng Việt Nam.
3.3.2.3 Tác động đến hoạt động giao dịch ngoại tệ
Giao dich trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ
nói chung bi giảm sút.Thực tế nửa cuối năm 1997, nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn
nhu cầu bán ngoại tệ, hoạt động của thị trường có lúc bị ngưng trệ và nhu cầu mua bán
chỉ nhằm mục đích phục vụ cho khách hàng chính của mình,không mang tính chất kinh
doanh.
3.3.2.4 Tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp
Khủng hoảng tiền tệ khu vực tác động tăng tỷ giá hối đoái đã gián tiếp làm tăng
thêm các khoản nợ nước ngoài.Đặc biệt là các khoản nợ đến hạn thanh toán. Nhiều
doanh nghiệp không mua được ngoại tệ hoặc phải mua với giá cao đã chịu lỗ rất lớn .
3.3.2.5 Gây sức ép đối với lãi suất đồng Việt Nam
Ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn đồng Việt Nam do lãi suất
thấp hơn và không chịu rủi ro tỷ giá. Nhu cầu vay vốn VND tăng đã gây mất cân đối về
tiền đồng trên thị trường tạo sức ép tăng lãi suất đồng nội tệ và sẽ ảnh hưởng không nhỏ
đến chính sách lãi suất thấp nhằm khuyến khích đầu tư kinh doanh sản xuất đối với nền
kinh tế.
3.3.2.6 Đối với lĩnh vực ngoại thương
Thị trường Châu Á chiếm 60% tổng kim ngạch xuất khẩu ( trong đó ASEAN
chiếm 20%) và 70% kim ngạch nhập khẩu ( trong đó ASEAN chiếm 28%).Trong đó
Singapo là thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam chiếm tới 2/3 kim ngạch

xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN và kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN, và kim
ngạch nhập khẩu từ ASEAN. Như vậy luồng hàng xuất nhập khẩu giữa Việt Nam-
ASEAN, chính xác hơn là giữa Việt Nam-Singapore sẽ ít chịu tác động tiêu cực của
khủng hoảng do kinh tế Singapore đang vững vàng nhất trong khối ASEAN.Tuy nhiên
cùng với thời gian và sự lan rộng của khủng hoảng, xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN và Châu Á nói riêng, ra thị trường thế giới nói chung sẽ chịu tổn thất về sự sụt
giảm khối lượng lẫn giá cả hàng xuất khẩu. Đó là vì sự thu hẹp sức mua của thị trường
xuất khẩu và vì sức ép tạo nên bởi sự phá giá của các đồng tiền khu vực với tốc độ cao


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 21
hơn VND, nên hàng xuất khẩu của ta bị đắt lên tương đối so với hàng của các nước
cạnh tranh. Mặt khác, tác động tiêu cực còn ở chỗ, trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam tỷ trọng của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tới trên
10% và có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao hơn mức tăng chung, sự đóng góp của các
doanh nghiệp này ở Việt Nam đã giảm ở các nhà đầu tư lớn cũng đang gặp khó khăn ở
chính quốc. Chứng minh rõ nét nhất cho nhận định này là xu hướng giảm sút liên tục
xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN từ 2.252 tr USD năm 1996 xuống còn 1.787 tr
USD năm 1997.
Về mặt nhập khẩu, tác động của khủng hoảng đã làm giảm hàng xuất từ
ASEAN,điều đó vừa có lợi vừa có hại cho nước ta. Một mặt hàng nguyên liệu,vật
tư,máy móc phục vụ sản xuất nhất là để xuất khẩu được nhập từ ASEAN đã rẻ hơn 10-
40%,giúp giảm chi phí đầu vào do đó giảm giá thành nâng cao sức cạnh tranh cho hàng
Việt Nam (tuy nhiên do điều chỉnh tỷ giá VND 1997 một số doanh nghiệp Việt Nam
kinh doanh hàng nhập khẩu như xăng dầu, thép, xi măng, phân bón ….đã bị thua
lỗ).Cơn lốc hàng rẻ sẽ tìm mọi cách tràn vào nước ta, kể cả qua con đường nhập
lậu,khiến các doanh nghiệp trong nước bị giảm thị phần,giảm sản xuất. Một khi lịch
trình cắt giảm thuế theo kế hoạch của AFTA được xúc tiến sẽ tạo ra tác động cùng

chiều làm tăng áp lực cạnh tranh tại thị trường Việt Nam.
3.3.2.7 Đối với lĩnh vực thu hút vốn và trả nợ nước ngoài
- Thứ nhất, sự mất ổn định chung môi trường đầu tư khu vực khiến các nhà đầu
tư trên thế giới e ngại,”gâm vốn” chờ đợi nghe ngóng tình hình hoặc chuyển vốn đầu tư
vào các khu vực khác an toàn hơn. Nên những đồng vốn đổ vào khu vực sẽ trở nên
khan hiếm hơn và mỗi nước càng khó tìm kiếm những đồng tiền rẻ và dễ dãi hơn vì bản
thân các nước này đang cố gắn cải thiện môi trường đầu tư, nâng cấp các chế độ ưu đãi
dầu tư của mình, cạnh tranh nhau để thu hút vốn nước ngoài. Trong điều kiện đó dòng
vốn nước ngoài dành cho Việt Nam cũng eo hẹp hơn.
- Thứ hai, trong số hơn 700 công ty từ 62 nước đã ký kết đầu tư vào Việt Nam
với 2137 dự án và tổng giá trị là 31,224tr USD (tính đến hết 12.1997), thì Nic ở Đông
Á, ASEAN và Nhật Bản luôn là những đối tác dẫn đầu,chiếm 68,9% dự án và 67,9%
tổng giá trị đầu tư đã kí kết. Hầu hết những nước này đang có những vấn đề căng thẳng
về tài chính do hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng về tài chính tiền tệ ở các nước
đó. Do đó chắc chắn nguồn vốn này sẽ giảm sút vì thiếu vốn, khó khăn về thị


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 22
trường,chính sách hạn chế tư bản đầu tư ra nước ngoài để dành vốn trong nước của
chính phủ các nước đó,cũng như do đồng bản tệ của họ sẽ giảm giá sẽ kích thích các
công ty của họ quan tâm hơn đến lợi ích mà thị trường trong nước sẽ mang lại.
- Thứ ba, cuộc khủng hoảng sẽ làm cho Việt Nam thêm khó khăn và châm trễ
trong vấn đề giải ngân vốn nước ngoài. Khoảng 62% số cam kết FDI mà chưa được giải
ngân là từ khu vực Châu Á, trong đó 50% các vốn cam kết mà chưa được giải ngân lại
lệ thuộc vào các dự án bất động sản (khách sạn, du lịch, nhà cao tầng, xây dựng các khu
đô thị mới và xây dựng) .Đây là sự “nhị trùng” không may mắn cho chúng ta vì lẽ về cả
những khó khăn về tài chính lẫn sự trì trệ thị trường bất động sản sẽ khiến cho các chủ
đầu tư thêm lý do chính đáng để trì hoãn, ngừng thực hiện, giảm tiến độ, thậm chí từ bỏ

ý định thực hiện các cam kết dầu tư của họ đã ký kết. Thực tiễn gần đây đang chứng tỏ
xu hướng này, nhất là ở khu vực phía Nam.
- Thứ tư, cuộc khủng một mặt thúc đẩy các nước ASEAN tìm đến nhau, tăng
cường các nổ lực hợp tác để cùng tìm lối thoát vượt qua khủng hoảng. Do đó, nhu cầu
tăng về trao đổi thương mại và đầu tư lẫn nhau, tăng sức hấp dẫn chung của khu vực đối
với đầu tư nước ngoài trở thành tự nhiên và được khuyến khích như một lợi ích chung,
lợi ích khu vực. Mặt khác, cuộc khủng hoảng ít nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, lại đẩy
các nước này ra xa nhau với do những khó khăn tài chính giống nhau và sự cạnh tranh
trong vấn đề tăng xuất khẩu, tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, sự e ngại về tự do hóa
quá nhanh sẽ làm lan truyền nhanh hơn những tác động tiêu cực của khủng
hoảng…Lịch sử cũng cho thấy, lợi ích kinh tế từng kéo các đối tác lại với nhau, gắn kết
họ lại,song lợi ích kinh tế cũng có thể đẩy họ ra xa nhau hơn mức có thể. Thành thử vấn
đề đặt ra cho các nước ASEAN trong cuộc khủng hoảng này là xử lý các lợi ích “hướng
tâm” và các lợi ích “ly tâm” như thế nào cho thỏa đáng nhất đế không làm tổn hại sau
bao năm xây đắp. Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của thực tiễn đó.
- Thứ năm, sự giảm giá bản tệ do khủng hoảng một mặt làm giảm giá trị các
khoản vay hay viện trợ bằng chính đồng bản tệ đó cho Việt Nam (chẳng hạn bằng đồng
yên đối với các khoản ODA mà Nhật Bản dành cho Việt Nam); mặt khác lại làm tăng
chi phí dịch vụ nợ nếu đồng tiền phải thanh toán là ngoại tệ đang lên giá so với đồng
bản tệ ấy (chẳng hạn làm tăng chi phí dịch vụ nợ bằng USD nếu tính theo giá VND đã
bị giảm giá 15% so với năm trước).


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 23
- Cuối cùng, thứ sáu, do khủng hoảng, giá trị tài sản, nhất là cổ phiếu và bất động
sản ở khu vực đang có xu hướng sụt giảm, làm tăng sự hấp dẫn “mời gọi” các nhà đầu
tư mạo hiểm có tính đầu cơ nước ngoài đổ tiền vào mua vét, “tích trữ” chờ giá lên.
Chính vì vậy, ở mức độ nhất định sẽ có sự gia tăng dòng đầu tư nước ngoài nhằm tham

gia quá trình mua lại, sáp nhập công ty và bất động sản khu vực. Đây là tín hiệu và cơ
hội tốt cho triển vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của khu vực, trong đó có Việt
Nam.
3.3.2.8 Đối với lĩnh vực ngân sách và đầu tư trong nước
Vốn trong nước sẽ thừa nhiều, lại vừa thiếu nhiều.tựa như tình trạng lúc đó của
hệ thống tín dụng Việt Nam: các doanh nghiệp thiếu vốn trong khi các ngân hàng thừa
vốn không dám cho vay, vì nỗi ám ảnh của nợ khó đòi có xu hướng gia tăng phố biến,
còn hệ thống luật pháp nhà nước thì đôi khi bất lực hoặc kém triệt để trong việc giải
quyêt vấn đề này.
Thu ngân sách giảm sút do tình trạng suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế chung
của đất nước, của toàn khu vực và toàn cầu, mặc dù có thể tồn tại những hy vọng nào
đó về khả năng tăng nguồn thu từ thuế xuất-nhập khẩu nhờ hệ quả của sự phá giá các
bản tệ khu vục và VND, song hy vọng này sẽ bị bù trừ cho sự e ngại khác là việc giảm
giá hàng xuất khẩu do sức ép khủng hoảng sẽ làm mất đi những khoảng thu ngân sách
lại có khuynh hướng gia tăng, do sự tăng chi phí dich vụ nợ nước ngoài, do các khoản
chi đột xuất, hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước mất khả năng thanh toán, tăng các chi
phí nhập nguyên liệu từ bên ngoài…Ngoài ra, cũng cần phải tính đến những chi phí để
hạn chế những hệ quả tiêu cực về mặt xã hội dưới tác động của khủng hoảng và cải
cách doanh nghiệp nhà nước, tức các khoảng chi hỗ trợ giải quyết việc làm cho lượng
người thất nghiệp gia tăng (do thu hẹp sản xuất, cổ phần hóa, do giảm thị trường xuất
khẩu lao động sang các nước khu vực…)


Chuyên đế nhóm Tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997

GVHD: Trần Bá Trí Trang 24

CHƯƠNG 4
BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TỪ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÌNH TIỀN
TỆ CHÂU Á NĂM 1997

Trên cơ sở phân tích khủng hoảng kinh tế-tài chính ở bốn nước Thái Lan,
Indonesia, Malaysia và Hàn Quốc, chúng ta có thể rút ra 3 bài học đối với Việt Nam.
Bài học 1: Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế quốc
gia là cơ sở quan trọng nhất bảo đảm cho phát triển bền vững và phải trở thành một mục
tiêu và chỉ tiêu của quản lý kinh tế đất nước, quản lý ngành và mỗi doanh nghiệp.
Để khắc phục sự thiếu ý chú ý đúng mức đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và
phát triển, cần đưa vào hệ thống chỉ tiêu kinh tế phải báo hằng năm của mỗi địa
phương, mỗi ngành và cả nước các chỉ tiêu như tỉ suất lợi nhuận và tỉ suất giá trị gia
tăng trên vốn riêng của doanh nghiệp theo các ngành, theo thành phần kinh tế và theo
các địa phương trên cả nước, đồng thời theo dõi chặt chẽ sự biến động của chỉ số ICOR
với mỗi địa phương và cả nước.
Bài học 2: Để các doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển bền vững thì lãi suất
vốn vay để đầu tư phải tương đương với hoặc nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh
nghiệp.
Như vậy, để phát triển bền vững lãi suất tín dụng phải chủ yếu hình thành trên cơ
sở quan hệ cung cầu, chứ không phải dựa vào ý chí nhà nước. Nếu lãi suất tín dụng nhỏ
hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp có tính cạnh
tranh cao, thì doanh nghiệp có thể sẽ càng phát triển nhanh và hiệu quả kinh doanh cao,
nếu càng vay được nhiều vốn.
So sánh tốc độ tăng trưởng GDP và lãi suất tiền gửi ở một số nước cho ta ví dụ
minh họa sau.

×