Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.7 KB, 6 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>10:37 28/11/2019</small>
<b>Giải thưởng truyền thông khoa học danh giá của Đức Hanns-Joachim-Friedrichs năm nay xướng tên một nhà hóa học và một nhà vật lý. Trong đó,điều đặc biệt, nhà hóa học được giải năm nay là TS. gốc Việt, Nguyễn Kim MaiThi, con gái của 2 cựu du học sinh người Việt tại Đức trong những năm 80 thếkỷ trước.</b>
▪ <b><small>Sinh viên Việt Nam tranh tài ngôi vị Đại sứ truyền thông khoa học FameLab toàn cầu 2015</small></b>
Cũng như người cộng sự cùng đạt giải năm nay, GS. Harald Lesch, TS. Mai Thi được vinh danh vì đã có nhiều đóng góp cho việc truyền bá các tri thức khoa học bằng ngôn ngữ dễ hiểu để cộng đồng có thể dễ dàng tiếp cận với các thơng tin chính xác, khoa học và hữu ích thơng qua các chương trình truyền hình và đặc biệt là kênh YouTube của cô.
Câu chuyện của TS. Mai Thi cho chúng ta về một khái niệm còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam, đó là “truyền thơng khoa học” (science communication). Gọi là mới mẻ nhưng không phải là ở Việt Nam chưa có người làm việc này, chỉ có điều là đại đa số mọi người chưa quen mà thôi.
<b>Những người tiên phong</b>
Theo người viết, người Việt đầu tiên “dấn thân” vào truyền thông khoa học một cách bài bản là GS. Nguyễn Lân Dũng, nhà sinh học công tác tại Đại học Quốc gia Hà Nội và là người làm biên tập viên chương trình Hỏi gì đáp nấy rất nổi tiếng trên VTV2 những năm 1990.
Bằng cách trả lời dí dỏm nhưng rất sâu sắc, dựa trên các bằng chứng là các kiến thức khoa học khá rộng của mình, GS. Nguyễn Lân Dũng, phải nói là đã truyền cảm hứng và tình u khoa học cho nhiều người trẻ sinh khoảng những năm 1970-1980, trong đó hẳn nhiên là có tác giả bài viết này.
<small>CAND</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>Giáo sư Nguyễn Lân Dũng là người truyền cảm hứng và tình yêu khoa học cho nhiều người trẻ.</small>
Người thứ hai là nhà báo Vũ Công Lập, người lần đầu trở nên nổi tiếng trước truyền thơng nhân các chương trình bình luận trước và sau trận đấu World Cup 2006. Với kiến thức uyên thâm về y học thể thao và khoa học thể thao, nhà báo Vũ Công Lập, đồng thời cũng là 1 tiến sĩ khoa học, chuyên ngành vật lý y học, đã cho khán giả những trải nghiệm cực kỳ thú vị về cách thức bình luận bóng đá mà trước đó hầu như chưa thấy ở các bình luận viên thể thao chuyên nghiệp.
Ờ bình diện tổ chức/đơn vị, Tạp chí Tia sáng thuộc Bộ Khoa học cơng nghệ cũng có thể xem là một trong những tờ báo chuyên biệt về truyền thông khoa học đầu tiên ở nước ta. Là một tạp chí thành lập khoảng những năm 1990, Tia sáng quy tụ các tay viết, bản thân là các nhà khoa học, chuyên gia, học giả, trong và ngoài nước như GS. Đặng Mộng Lân, GS. Hoàng Tụy, GS. Phạm Duy Hiển, GS. Trần Văn Thọ, GS. Phạm Xuân Yêm, PGS. Phạm Duy Nghĩa, nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng, nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh...
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><small>Nhà báo Vũ Công Lập đã cho khán giả những trải nghiệm cực kỳ thú vị về cách thức bình luận bóngđá.</small>
Những bài viết của các tác giả này có thể là các bài giới thiệu các cơng trình nghiên cứu mới của chính bản thân họ hoặc giới thiệu một vấn đề nghiên cứu mới nào đó trên thế giới. Người viết bài này đã từng rất ấn tượng khi đọc được thông báo tuyển dụng của tạp chí này, trong đó khơng u cầu ứng viên phải có bằng báo chí mà ưu tiên người có bằng tại các ngành khoa học, đồng thời có kinh nghiệm nghiên cứu là một lợi thế. Rõ ràng, để biên tập được bài của các nhà khoa học thì cũng sẽ phải cần những biên tập viên có kiến thức, kỹ năng khoa học trước tiên, rồi mới đến báo chí sau này.
<b>Nguồn gốc và động lực</b>
Vậy truyền thơng khoa học là gì? Tại sao nó quan trọng? Và trên thế giới người ta nhìn nhận về công việc này như thế nào? Phần tiếp theo xin được trả lời những câu hỏi trên:
Về mặt truyền thống, các nhà khoa học được xem là sống trong “tháp ngà” của mình, nói những câu chuyện, khái niệm, ngơn ngữ mà chỉ những người trong giới mới có khả năng hiểu được. Mặc dù vậy, cùng với sự vận động của xã hội, sức ép của xã hội lên các nhà khoa học, đặc biệt ở những nơi nhà khoa học chủ yếu làm việc tại khu vực công (tức là nhận lương từ tiền thuế của dân) về việc phải làm ra các sản phẩm nghiên cứu có tính thực tiễn cao ngày càng lớn.
Nhà khoa học, từ chỗ được nghiên cứu theo kiểu “blue sky” (trên trời xanh) hay “curiosity-driven” (theo trí tị mị) chuyển dần sang các nghiên cứu phải có “schedule” (kế hoạch), đồng thời địi hỏi tính ứng dụng ngày càng cao hơn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Trong bối cảnh đó, truyền thơng khoa học ra đời như một phương thức và phương tiện giúp nhà khoa học và xã hội trở nên hiểu nhau hơn; giúp cho những khái niệm phức tạp trở nên dễ hiểu và gần gũi hơn với công chúng. Trong bài viết nổi tiếng có tiêu đề Why do we should promote the public understanding of science? (Tại sao chúng ta nên khuyến khích hiểu biết cơng chúng về khoa học?”, hai tác giả Geoffery Thomas và John Durant đã đưa ra khái niệm “scientific literacy” (có kiến thức căn bản về khoa học) - khái niệm sau này được phát triển thành một trong những gói kiến thức/kỹ năng tiên quyết mà công dân thế kỷ 21 cần phải biết.
Khả năng tự đọc hiểu các vấn đề cốt lõi và nguyên tắc của khoa học, từ chỗ phải chờ người khác giải thích cho thì ngày nay, trở thành một yêu cầu tiên quyết của con người thế kỷ 21, bên cạnh các yêu cầu cơ bản khác như technology literacy (kiến thức căn bản về công nghệ), coding literacy (kiến thức căn bản về lập trình), financial literacy (kiến thức căn bản về tài chính).
<small>Tiến sĩ hóa học gốc Việt Nguyễn Thị Mai Thi (phải) đạt giải thưởng Hanns-Joachim-Friedrichs tạiĐức.</small>
Tất nhiên, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì việc tham gia của những người/tổ chức làm truyền thông khoa học một cách bài bản và chuyên nghiệp vẫn vơ cùng quan trọng. Đó trước tiên là các nhà báo chuyên về mảng khoa học, làm việc lâu với thế giới khoa học và trở nên hiểu biết khơng khác gì các học giả. Họ về cơ bản chỉ khác nhà khoa học là không thực hiện trực tiếp các nghiên cứu; còn khả năng đọc hiểu, diễn giải, phân tích các vấn đề khoa học thì sẽ khơng khác gì một nhà khoa học thực thụ.
Cũng rất nhiều trong số họ, vốn là nhà khoa học, sau chuyển nghề để thành nhà báo (TS. Mai Thi được nhắc đến đầu bài có thể xem là một người như vậy). Họ cũng có thể là các nhà khoa học khi họ giới thiệu về các thành quả, kết quả nghiên cứu của
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">mình hoặc thi thoảng xuất hiện trên báo chí để nói một vấn đề khoa học nào đó, như là một phần của của nhiệm vụ “phục vụ cộng đồng”, bên cạnh hai nhiệm vụ chính của họ tại trường đại học là “giảng dạy” và “nghiên cứu”.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của truyền thông và mạng xã hội, nhiều tạp chí khoa học, tổ chức khoa học hoặc hiệp hội nghề nghiệp của giới khoa học còn tự làm các ấn phẩm riêng hoặc các trang blog, mạng xã hội dành riêng cho việc phổ biến các tri thức khoa học thường thức. Một số ví dụ tiêu biểu có thể kể đến như trang ScienceMag (một phụ san của tạp chí danh tiếng Science), bản tin Global-is-Asian (một lối chơi chữ, vừa có nghĩa là tồn cầu hóa, vừa có nghĩa là “thế giới là châu Á) chuyên về khoa học chính sách của Trường Chính sách cơng Lý Quang Diệu
<b>Những sáng kiến mới</b>
Sau GS. Nguyễn Lân Dũng, tiến sĩ khoa học Vũ Công Lập và các thế hệ truyền thông khoa học, tạm gọi là đời đầu của Việt Nam, những người sinh khoảng những năm 1930-1950, thế hệ các nhà khoa học và nhà báo thuộc thế hệ trẻ hơn (sinh những năm 1970-1980) cũng như các đồng nghiệp trong ngành báo chí ngày càng ý thức hơn về vai trị của truyền thơng khoa học.
Ví dụ, PGS. Trần Xuân Bách, một nhà khoa học về lĩnh vực y tế - xã hội đồng thời là PGS trẻ nhất Việt Nam năm 2016 nhiều lần chia sẻ với người viết bài này về việc người Việt nói chung cần có thêm nhiều hiểu biết, nhận thức về các vấn đề y tế cơng cộng (như phịng bệnh, dinh dưỡng, sức khỏe cộng đồng...). Đây có lẽ chính là lý do anh tham gia một chương trình (cũng khá tốn thời gian), phát sóng trực tiếp hằng tuần trên VTV1 vào sáng Chủ nhật có tên gọi Sống mới với vai trò MC - biên tập viên nhằm thỏa mong ước kể trên của anh.
<small>Truyền thông khoa học ra đời như một phương thức và phương tiện giúp nhà khoa học và xã hội trởnên hiểu nhau hơn.</small> <sup>Bản quyền thuộc về Báo Công an Nhân dân</sup>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Hay một website có tên gọi đúng là truyền thông khoa học (science communication) của Mạng lưới các nhà nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn do TS. Vương Quân Hoàng (Đại học Phenikaa) khởi xướng từ 2017 cũng hướng đến mục tiêu phổ biến và cập nhật những vấn đề nóng nhất trong khoa học tới độc giả Việt Nam. Cách đây vài tuần, hẳn chúng ta còn nhớ về câu chuyện con cheo cheo (hay cịn gọi là hươu chuột) lại được tìm thấy ở Việt Nam.
hực tế, website truyền thông khoa học của TS. Vương Qn Hồng, chứ khơng phải bất kỳ tờ báo nào mới là kênh đầu tiên đưa tin về sự kiện này.
Hoặc, bản thân trang báo này trên ANTG Giữa tháng và Cuối tháng có tên là “trong mắt nhà khoa học” cũng có thể xem là nỗ lực của bản thân người viết và ban biên tập trong việc phổ biến, cập nhật về khoa học thế giới bằng ngơn ngữ dễ hiểu nhất có thể cho độc giả đại chúng.
<b>Phạm Hiệp</b>
</div>