Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.73 MB, 288 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
GIÁO TRÌNH
<small>994-2022/CXBIPH/18-11/CAND</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN HÀ NỘI - 2022
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>Chủ biên</small> GS.TS. LÊ THỊ SƠN
Tập thể tác giả
GS.TS. LÊ THỊ SƠN
PGS.TS. DUONG TUYET MIEN
GS.TS. NGUYEN NGOC HOA TS. LY VAN QUYEN
PGS.TS. TRAN HUU TRANG
<small>Chuong I, Chuong III,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">LỜI GIỚI THIỆU
<small>Toi phạm học là ngành khoa học thực nghiệm nghiên cứu</small>
VỀ tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm và kiểm sốt tội phạm nhằm mục đích phịng ngừa tội phạm. Voi ý nghĩa
<small>quan trọng như vậy tội phạm học đã được xác định là một mônhọc trong chương trình dao tạo cứ nhan luật của Truong Đạihọc Luật Hà Nội.</small>
<small>Là học liệu quan trọng, giáo trình tội phạm học đã được</small>
Trường Đại học Luật Hà Nội t6 chức biên soạn lan dau năm 1998 và được sửa đổi, bố sung năm 2004. Trên cơ sở đánh giá những điểm chưa thong nhất, những điểm còn hạn chế của giáo trình này trong sự so sánh với các tài liệu vỀ tội phạm học của Việt Nam cũng như một số giáo trình cua các cơ sở đào tao
<small>nước ngoài hiện nay, Truong Đại học Luật Ha Nội chủ trương</small>
biên soạn mới giáo trình tội phạm học theo hướng chuẩn hoá một số khái niệm và tập trung vào nội dung thuộc phân đại cương của tội phạm học với mục dich trang bị cho người học kiến thức về phương pháp nghiên cứu của tội phạm học và khả năng vận dụng phương pháp này vào nghiên cứu thực nghiệm cụ thể.
Trong lan biên soạn này, tập thể tac giả là những nhà giáo có tâm huyết và kinh nghiệm đã tham khảo các giáo trình, tài
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">liệu hiện có của Trường về tội phạm học, tham khảo các quan điểm khác nhau của nhiều nhà khoa học, nhà giáo trong nước và nước ngoài được thể hiện trong các giáo trình, các sách tham khảo về tội phạm học cũng như đánh giá thực trạng vận dụng kiến thức tội phạm học khi thực hiện các đề tài nghiên cứu thực nghiệm VỀ tội phạm học của người học và lấy đó làm cơ sở cho
<small>việc biên soạn mới giáo trình tội phạm học này. Giáo trình đã</small>
được các nhà khoa học có uy tín thẩm định về nội dung, được hội đơng đánh giá nghiệm thu thông qua và Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội quyết định cho xuất bản, lưu hành.
Giáo trình được biên soạn mới này đã được xuất ban lan dau năm 2012 và tái bản năm lan. Trong lan thứ sau tải ban, giáo trình này được sửa đổi và bồ sung hai chương mới: Chương 8 “Dự báo tội phạm ” và Chương 9 “Kiểm soát xã hội và kiểm soát tội phạm ”.
<small>Trường Đại học Luật Hà Nội xin trán trọng giới thiệu giáo</small>
trình tội phạm học và rất mong nhận được sự góp ý phê bình của bạn đọc để giáo trình này ngày càng hoàn thiện hơn.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>CHƯƠNG I</small>
KHÁI NIỆM VÀ NHIỆM VỤ CỦA TỘI PHẠM HỌC
I. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM HỌC
Trong các sách viết về tội phạm học của nước ngoài cũng như trong nước tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về tội phạm học. Các định nghĩa được đưa ra đã phản ánh ở mức độ nhất định sự hình thành và quá trình phát triển của tội phạm học, <small>phản ánh quan niệm cá nhân hoặc quan niệm của một trường</small> phái về tội phạm học.
Theo một số tác giả nghiên cứu về tội phạm học ngày nay thì thuật ngữ tội phạm học xuất hiện vào cuối thé ki XIX. Những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ này được kể đến là Paul Topinard - thầy thuốc đồng thời là nhà nhân chủng học người Pháp và Rafaele Garofalo - luật gia người Ý. Paul Topinard lần đầu tiên dùng thuật ngữ này để phân biệt việc nghiên cứu các dạng cơ thé người phạm tội trong lĩnh vực nhân chủng học với các công việc khác về trắc nghiệm sinh hoc.” Rafaele
<small>(1).Xem: Frank Schmalleger (PH.D. Professor Emeritus, The University of NorthCarolina at Pembroke), Criminology Today, Prentice Hall 2002, tr. 14; Bernd-Dieter Meier (Professor an der Universitaet Hannover), Kriminologie, VerlagC.H. Beck Muenchen 2005, tr. 4; Ulrich Eisenberg (Professor an der Freier</small>
<small>7</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Garofalo đã làm cho thuật ngữ “Criminologia”t (tội phạm học) được phô biến rộng rãi thơng qua việc dùng nó đặt tên cho tác
nguồn từ sự kết hợp của chữ La tinh: Crimen là tội phạm và chữ Hy Lạp: Logos là học thuyết. Tội phạm học có nghĩa là học
thé được xem như là định nghĩa ban đầu và trực tiếp (từ nghĩa của từ) về tội phạm học.
Sau này, cùng với sự phát triển của tội phạm học, khái nệm tội phạm học cũng được phát triển và được phản ánh trong nhiều định nghĩa khác nhau bởi các nhà tội phạm học qua các thời kì. Trong các sách viết về tội phạm học có thể tìm thấy bốn loại định nghĩa khác nhau về tội phạm học. Các định nghĩa này khác nhau chủ yêu về quan điểm thé hiện trong định nghĩa: Coi tội phạm học chỉ là ngành hay lĩnh vực kiến thức, khoa học bình thường hay khoa học liên ngành hoặc về đối tượng và
<small>phạm vi nghiên cứu của tội phạm học.</small>
Một trong những nhà tội phạm học sớm nhất của Mỹ trong thế ki XX là Edwin H. Sutherland đã đưa ra định nghĩa tội phạm học (trong cuốn giáo trình tội phạm học của mình được
<small>Universitaet Berlin), Kriminologie, Verlag C.H. Beck Muenchen 2005, tr. 1.</small>
<small>Tuy trong các tài liệu này, các tac giả đều khang định Paul Topinard là ngườiđầu tiên sử dụng thuật ngữ tội phạm học nhưng về thời gian lại xác định khác</small>
<small>nhau. Theo Frank Schmalleger thời gian được xác định vào năm 1889 và theoBernd-Dieter Meier thời gian được xác định vào năm 1879.</small>
<small>(1).Bernd-Dieter Meier, Kriminologie, Sdd., tr. 4.</small>
<small>(2).Trong tiếng Anh là: “The study of crime”; Trong tiếng Đức là: “Lehre von</small>
<small>der Kriminalitaet”; Xem: Karl-Ludwig Kunz (Professor an der UniversitaetBern/Schweiz), Kriminologie, Haupt Verlag Bern-Stuttgart-Wien 2004, tr. 1.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">xuất bản lần đầu tiên vào năm 1924) như sau: “727 phạm học là lĩnh vực kiến thức vé vấn đề xã hội của tội pham” Theo do,
<small>tội phạm hoc chỉ được xem là ngành hoặc lĩnh vực nghiên cứu</small>
van đề xã hội của tội phạm, tức là nghiên cứu tội phạm và hành
<small>vi phạm tội như là hiện tượng xã hội.</small>
Định nghĩa khác về tội phạm học được đưa ra thể hiện quan điểm nhân mạnh đối tượng nghiên cứu là nguyên nhân của tội <small>phạm và vai trị của tội phạm học trong việc tìm ra nguyên nhâncủa tội phạm. Do là định nghĩa: “Tôi phạm hoc là sự nghiên</small> cứu về nguyên nhân của tội phạm”.
Cũng trong thế ki XX xuất hiện hàng loại định nghĩa khác về tội phạm học mà trong đó thể hiện quan điểm nhắn mạnh tính khoa học của tội phạm học như là đặc điểm riêng biệt. Tiêu biểu cho loại nay là định nghĩa: “Tôi phạm hoc là khoa học nghiên cứu về tội phạm”.° )
Loại định nghĩa thứ tu là định nghĩa về tội phạm học hiện đại. Sang thế kỉ XXI, trong các sách viết về tội phạm học có thể tìm thay nhiéu cach dinh nghia khac nhau về tội phạm học nhưng tất cả đều có nhiều điểm chung, thể hiện khơng dừng lại ở việc xác định chung chung rằng tội phạm học là khoa học nghiên cứu về tội phạm mà đã thể hiện quan niệm toàn diện và sâu sắc hơn về đối tượng và đặc tính khoa học của tội phạm học
<small>(1).Ewin H. Sutherland, Crimonology (Philadelphia: J.B. Lippincott, 1924), tr. 11;Xem: Frank Schmalleger, Criminology Today, Sdd., tr. 14.</small>
<small>(2).Gennaro F. Vito and Rolald M. Holmes, Criminology. Theory, Research, andPolicy (Belmont, CA: Wadsworth, 1994), tr. 3; Xem: Frank Schmalleger,Criminology Today, Sdd., tr. 14.</small>
<small>(3).Clement Bartolla and Simon Dinitz, [Introduction to Criminology: Orderand Disorder (New York: Harper and Row, 1989), tr. 548.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">hiện đại. Trong đó, quan niệm pho bién cho rang tội phạm hoc là khoa học thực nghiệm mang tính liên ngành nghiên cứu về tội phạm, nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm. Dưới đây là một số quan niệm tiêu biểu về tội phạm học hiện dai:
<small>Theo nhà tội phạm học người Mỹ - Frank Schmalleger:</small>
<small>“Tôi phạm học là khoa học mà bao quanh là chuyên môn liên</small>
ngành nghiên cứu về tội phạm và hành vi phạm tội, bao gồm cả những biểu hiện của nó, ngun nhân, các khía cạnh pháp lí và sự kiểm soᣰ.U Trong định nghĩa này, tác giả đã đặc biệt nhấn
cứu và đặc tính liên ngành của tội phạm học. Ong cho rang định nghĩa trên đã giữ đúng quan điểm thé hiện trong tác phẩm của Jack P. Gibbs - nhà tội phạm học xuất sắc trong thế ki XX: Mục dich của tội phạm hoc là cung cấp những trả lời khách
<small>quan trên cơ sở nghiên cứu cho 4 câu hỏi cơ bản sau: (1) Tạisao tỉ lệ tội phạm lại khác nhau?; (2) Tại sao các cá nhân phạmtội khác nhau?; (3) Tại sao lại có sự khác nhau trong phản ứng</small>
đối với tội phạm?; (4) Cái gì là những biện pháp hợp lí của kiểm sốt sự phạm toi? Cũng theo ơng, tội phạm học là khoa học mang tính liên ngành vì nó phải nhờ đến các ngành khoa học khác mà có được sự tiếp cận tong hợp dé hiểu được van dé của tội phạm trong xã hội đương thời và để đưa ra được các giải pháp đối với các vấn đề do tội phạm gây ra. Đó là các
<small>ngành khoa học như nhân chủng học, sinh học, xã hội học, tâm</small>
lí học, tâm thần học...”
<small>(1).Frank Schmalleger, Criminology Today, Sdd., tr. 15.(2).Xem: Frank Schmalleger, Criminology Today, Sdd., tr. 15.(3).Xem: Frank Schmalleger, Criminology Today, Sdd., tr. 15.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>Theo Bernd-Dieter Meier - Giáo sư người Đức thi tội phạmhọc là khoa học nghiên cứu tội phạm như hiện tượng xã hội,</small>
các nguyên nhân của hành vi phạm tội, các hậu quả của nó đối
<small>với nạn nhân và xã hội cũng như các biện pháp và cách thức màcác cơ quan nhà nước phản ứng trước sự xảy ra của các hành viphạm tội; Tội phạm học là khoa học thực nghiệm nghiên cứu</small>
một cách hệ thống các sự việc có thực đã xảy ra; Tội phạm học thực hiện việc nghiên cứu mang tính liên ngành băng cách tiếp thu và tiếp tục phát triển các phương pháp, quan điểm và lí luận của các ngành khoa học xã hội và nhân văn, dién hình là tâm lí hoc và xã hội hoc.”
<small>Cũng có quan niệm tương tự, Hans-Dieter Schwind - giáo</small>
sư người Đức khác cho rằng tội phạm học được hiểu là lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, dựa trên tất cả các khoa học thực <small>nghiệm mà những khoa học này có mục đích là xác định phạm</small> vi của tội phạm và tập hợp những kinh nghiệm về các hình thức thể hiện và nguyên nhân của tội phạm, về người phạm tội và nạn nhân của tội phạm cũng như về sự kiểm soát của các tác động xã hội bao gồm cả các khả năng xử lí đối với người phạm
Ngồi ra, quan niệm về tội phạm học hiện đại cũng có thể được tìm thấy trong tác phẩm xuất bản gần đây nhất (năm 2008) của giáo sư nổi tiếng khác người Đức, Hans Gưppinger.
<small>Theo ơng, tội phạm học là ngành khoa học thực nghiệm độc lập</small>
<small>(1).Xem: Bernd-Dieter Meier, Kriminologie, Sdd., tr. 2.</small>
<small>(2).Xem: Hans-Dieter Schwind (Professor an der Universitaet Osnabrueck undRuhr-Universitaet Bochum), Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Kriminalistik Verlag Heidelberg, 2007, tr. 8.</small>
<small>lãi</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>nghiên cứu các sự việc thuộc các lĩnh vực của con người và xã</small>
hội mà chúng liên quan đến sự hình thành tội phạm, việc phạm
<small>tội, hậu quả của tội phạm và việc ngăn chặn tội phạm cũng như</small>
việc xử lí những người phạm tội.“
Ở Việt Nam, trong các giáo trình hoặc sách về tội phạm
Trong giáo trình xuất bản từ năm 1995, GS.TS. Đỗ Ngọc Quang cho rằng: “7ội phạm học là ngành khoa học nghiên cứu những vấn dé liên quan đến tình trạng phạm tội và tội phạm...; nghiên cứu về nhân thân người phạm lội, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những biện pháp phòng ngừa tội phạm nhằm từng bước ngăn chặn, hạn chế tội phạm trong
Cuộc sống xã hội”.
Cùng với cách định nghĩa tương tự, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm cho rằng: “76i phạm hoc là ngành khoa học nghiên cứu tội phạm, tình hình tội phạm, các nguyên nhân và điều kiện
<small>phát sinh tội phạm, nghiên cứu cá nhân kẻ phạm toi và những</small>
biện pháp phòng ngừa, dau tranh chong tội phạm nhằm ngăn chặn, tiên tới loại trừ tội phạm ra khỏi đời sơng xã hoi?
<small>(1).Xem: Hans Gưppinger (Professor an der Universitaet Tuebingen), Kriminologie,Verlag C.H. Beck Muenchen, 2008, tr. 1 va tr. 2.</small>
<small>(2).Khoa Luat, Truong Dai hoc Tổng hợp Hà Nội, Giáo trình Tội phạm học,</small>
<small>1995, tr. 8.</small>
<small>(3).Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm,</small>
<small>Nxb. CAND, Hà Nội, 2001, tr. 12.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Như vậy, trong tất cả các định nghĩa khác nhau về tội phạm học, từ định nghĩa ban đầu đến định nghĩa trong thời gian gần đây đều khang định tội phạm là đối tượng nghiên cứu của tội
<small>phạm học. Tội phạm ở đây có nghĩa là những hành vi bi coi là</small>
tội phạm đã được thực hiện trên thực tế, vi vậy cũng có thể gọi là tội phạm hiện thực.) Tội phạm hiện thực được nghiên cứu từ góc độ xã hội học như một hiện tượng xã hội số lớn và được <small>xem như một bộ phận của thực tại xã hội. Nghiên cứu “mặt xã</small> hội” của tội phạm hiện thực là dé có thể đánh giá được trạng thái của bộ phận thực tại xã hội này mà tìm cách thay đổi theo
<small>hướng tích cực.</small>
Ngun nhân của tội phạm cũng đã được khăng định là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học trong hầu hết các định nghĩa về tội phạm học nêu trên. Lịch sử phát triển của tội phạm học cho thấy, nguyên nhân của tội phạm được nghiên cứu từ
phía xã hội và từ phía người phạm tội và từ mỗi phía lại được
nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, như từ phía người phạm tội được nghiên cứu từ góc độ sinh lí và tâm lí... Các kết quả nghiên cứu về nguyên nhân đều được nghiệm chứng trong thực tiễn và tạo cơ sở cho việc hình thành những hệ thống tri thức, quan điểm khác nhau về nguyên nhân của tội phạm hay còn được gọi là các học thuyết trong tội phạm học. Lịch sử hình thành va phát triển tội phạm học trên thé giới cũng có thể được
<small>(1).Theo Từ điển tiếng Việt, “hiện thực” là cái tồn tại trong thực tẾ, vì vậy, tộiphạm hiện thực là tội phạm ton tại trong thực tế. Xem: Viện Ngôn ngữ học,Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, 2004,</small>
<small>tr. 438; Xem: Can Ueda, Tôi phạm và tội phạm học ở Nhật Bản hiện đại</small>
<small>(dịch từ tiếng Nga), Nxb. CAND, Hà Nội, 1994, tr. 27.</small>
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">coi là lịch sử hình thành và phát triển các học thuyết về nguyên <small>nhân của tội phạm.</small>
Kiểm soát tội phạm cũng được coi là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học. Điều này được khăng định rất sớm trong lịch sử phát triển tội phạm hoc" cũng như thé hiện trong hau hết các định nghĩa về tội phạm học đã được đưa ra.
soát xã hội! - khái niệm của xã hội học và kiểm soát tội phạm được coi là bộ phận của kiểm soát xã hội. Kiểm soát tội phạm”)
<small>(1).Ngay ở đầu thế kỉ XX, nhà tội phạm học người Mỹ - Ewin H. Sutherland đã</small>
<small>khang định kiểm soát tội phạm là một trong 3 lĩnh vực cơ bản của tội phạm</small>
học, bao gồm: Xã hội học pháp luật; phân tích khoa học các ngun nhân
<small>của tội phạm; kiểm sốt tội phạm. Học thuyết về kiểm soát xã hội cũng đãđược hình thành. Xem: Sutherland, Principles of Criminology, tr. 1.</small>
<small>(2).Để hiểu rõ hơn về kiểm sốt xã hội có thé tham khảo đoạn giải thích sau:“Kiểm sốt xã hội là sự bố trí các chuẩn mực, các gid trị cùng những chếtài dé ép buộc việc thực hiện chúng. Sự kiểm sốt sẽ khn các hành vi cá</small>
<small>nhân, các nhóm vào khuôn mau đã được xã hội thừa nhận là đụng, cần phảilàm theo. Kiểm soát xã hội sẽ dùng các chế tài tiêu cực đầy các hành vi lệch</small>
<small>lạc vào khuôn phép hay vào một trật tu” (Trường Dai hoc Khoa học xã hội</small>
<small>và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, Xã hội học, Nxb. Đại học Quốc gia</small>
<small>Hà Nội, Hà Nội, 2007 tr. 194).</small>
<small>(3).Để làm rõ hơn quan điểm khang định kiểm soát tội phạm là đối tượng</small>
<small>nghiên cứu của tội phạm học và tại sao không phải là phòng ngừa tội phạm,cần thiết phải phân biệt rõ hơn về hai khái niệm này: Nội dung của kháiniệm kiểm soát tội phạm và nội dung của khái niệm phịng ngừa tội phạmcó thời gian được hiểu như nhau. Khái niệm ban đầu của phòng ngừa tộiphạm là dựa trên cơ sở của luật hình sự và bảo vệ pháp luật hình sự. Do đó,</small>
<small>phịng ngừa tội phạm được coi đơn thuần là nhiệm vụ của các cơ quan kiểmsốt tội phạm (như cảnh sát, kiểm sát, tồ án và cơ quan thi hành án hìnhsự). Kiểm sốt tội phạm cũng góp phần và hướng tới phịng ngừa tội phạm.Mãi tới những năm 90 ở một số nước, ví dụ như ở CHLB Đức, khái niệmphịng ngừa tội phạm mới được quan tâm, thảo luận rộng rãi và phát trién.</small>
<small>Lúc đó mới có sự phân biệt rõ ràng hai khái niệm này. Hai khái niệm này có</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">có thê được hiểu chung nhất là sự phản ứng xã hội đối với tội phạm nên còn được gọi là kiểm soát xã hội theo pháp luật hình su.) Xét về cấu trúc có hai yếu tố hợp thành kiểm sốt tội phạm, đó là pháp luật (chứa đựng các chuẩn pháp luật và các quy định thể hiện sự phản ứng xã hội đối với tội phạm - một loại lệch chuẩn pháp luật trong pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự...) và phản ứng tiêu cực băng các chế tài tiêu cực đối với việc thực hiện tội phạm (ví dụ ở Việt Nam là phản ứng của Nhà nước thông qua các hoạt động của các cơ quan tiễn hành tố tụng và thi hành án hình sự). Vì vậy, cũng có thể coi kiểm sốt tội phạm là q trình lựa chọn và thực hiện các phản ứng khác nhau đối với việc thực hiện tội phạm.”
Trong các định nghĩa đã nêu về tội phạm học, các tác giả đã có những cách thê hiện khác nhau đề cập một đối tượng nghiên của tội phạm học là kiểm soát tội phạm. Các nội dung được dé cap sau day đều thuộc nội dung của kiểm soát tội phạm: “... các khía cạnh pháp li và sự kiểm sốt ...”; “... các biện pháp và
<small>cách thức mà các cơ quan nhà nước phản ứng trước sự xay ranhiều điểm chung nhưng có một số điểm khác biệt. Khái niệm phịng ngừatội phạm rộng hơn khái niệm kiểm soát tội phạm. Kiểm soát tội phạm chỉ làmột phần của những hoạt động nhằm phòng ngừa tội phạm. Nếu như kháiniệm kiểm sốt tội phạm được đặc trưng bởi các hình thức phản ứng hậu tộiphạm (sau khi được thực hiện) đến người phạm tội thì khái niệm phịngngừa tội phạm được đặc trưng bởi các biện pháp tích cực (tiền tội phạm)hướng vào sự ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm. Kiểm soát tội phạm thuộcvan đề cơ bản của tội phạm học, còn phòng ngừa tội phạm lại đặt quan tâmhàng đầu vào sự vận dụng những kiến thức cơ bản của tội phạm học. Xem:</small>
<small>Bernd-Dieter Meier, Kriminologie, Sdd., tr. 271.</small>
<small>(1).Xem: Gueter Keiser, Kriminologie: Ein Lehrbuch, C.F Verlag, 1996, tr. 207.</small>
<small>(2).Xem thém: Lé Thi Son, “Về khái niệm kiểm soát xã hội và kiểm sốt tội phạm”,Tạp chí Luật học, số 8/2012, tr. 51.</small>
<small>Là</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">của các hành vi phạm ti... `”; “... Sự kiểm soát của các tác động xã hội bao gom cả các khả năng xử lí đối với người phạm tội và
<small>tác dụng của hình phat...”; “... việc ngăn chặn hành vi phạm tội</small>
cũng như việc xử lí những người phạm tội...”. “Biện pháp dau tranh phòng chống tội phạm” được đề cập nhiều trong các tài liệu ở Việt Nam như là đối tượng nghiên cứu của tội phạm học cũng có nội dung rất gần với kiểm sốt tội phạm vì chúng cũng bao gồm những biện pháp phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm hiện thực. Đó là những biện pháp đấu tranh chống tội phạm mang tính phịng ngừa, như biện pháp đấu tranh chống, phòng ngừa tội phạm bằng pháp luật hình sự và thơng qua các hoạt động phát hiện và xử lí tội phạm của các cơ quan tiễn hành tố tụng hình sự và cơ quan thi hành án (gọi chung là các cơ quan kiểm sốt tội phạm).
Những phân tích trên cho thấy đã có đủ cơ sở thực tiễn khoa học dé khang định tội phạm học có đối tượng nghiên cứu
<small>độc lập, đó là tội phạm hiện thực với ý nghĩa là hiện tượng xã</small>
hội số lớn và các hiện tượng, quá trình liên quan trực tiếp đến tội phạm hiện thực thuộc về nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm soát tội phạm thé hiện, thực hiện sự phản ứng xã hội đối với tội phạm hiện thực. Tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm sốt tội phạm hiện thực cũng có thé được coi như đối tượng nghiên cứu cụ thé hay bộ phận của tong thé đối tượng nghiên cứu của tội phạm học mà trước tiên thuộc về nó là hiện thực xã hội bao quanh các hiện tượng xã hội là tội phạm. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ
<small>với nhau.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Trong một số định nghĩa về tội phạm học đã nêu đã đề cập đến tính mục đích của tội phạm học. Tội phạm học nghiên cứu
<small>tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và</small>
kiểm soát tội phạm hiện thực là nhăm mục đích phịng ngừa tội phạm. Lịch sử hình thành và phát triển tội phạm học đã cho thấy, các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các đối tượng <small>nghiên cứu của tội phạm học luôn hướng tới và phục vụ chomục đích phịng ngừa tội phạm.</small>
Những viện dẫn và phân tích nêu trên cũng đã làm rõ những đặc điểm khoa học của tội phạm học. Tội phạm học không phải <small>là khoa học đơn ngành mà là khoa học liên ngành và là khoa học</small> thực nghiệm." Những tri thức khoa học hợp thành tội phạm học được đúc kết từ các kết quả nghiên cứu - là những kinh nghiệm từ quan sát, tìm hiểu về tội phạm trong thực tế như là hiện tượng xã hội, nguyên nhân của tội phạm và kiểm sốt tội phạm -khơng thé -khơng dựa vào các ngành khoa học thực nghiệm liên quan đến con người và xã hội, đặc biệt là tâm lí học và xã hội
thé xuất hiện mà khơng có các khoa học liên quan.”
Trên cơ sở kế thừa được quan niệm truyền thống mà vẫn phù hợp với sự phát triển của tội phạm học hiện đại và đảm
<small>(1).Được coi là những khoa học thực nghiệm hay khoa học kinh nghiệm là</small>
<small>những ngành khoa học mà trong đó những đối tượng và những sự việc củathế giới, ví dụ như các hành tinh, động vật, các phương thức hành vi của</small>
<small>con người được nghiên cứu qua thực nghiệm (thí nghiệm), quan sát lĩnh vực</small>
<small>hay thăm dò ý kiến. Xem: Phân biệt giữa các khoa học thực nghiệm và các</small>
<small>khoa học không thực nghiệm, Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Sdd., tr. 9.</small>
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">bảo sự thống nhất tương đối với các quan niệm khác nhau hiện nay về tội phạm học, có thê đưa ra định nghĩa về tội phạm học
<small>như sau:</small>
<small>Tội phạm học là khoa học liên ngành, thực nghiệm nghiên</small>
cửu vé tội phạm (hiện thực), nguyên nhán của tội phạm và kiểm soát tội phạm nhằm mục đích phịng ngừa tội phạm.
Tóm lại, định nghĩa nêu trên đã bao quát các đặc điểm cơ bản cua tội phạm học. Thir nhất là đặc điềm về đôi tượng nghiên cứu độc lập của tội phạm học, bao gồm tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và kiểm soát tội phạm hiện thực; 75 hai là đặc điểm về khoa học liên ngành của tội phạm học; 7# ba là đặc điểm về khoa học thực nghiệm hay cũng có thể gọi là đặc điểm về phương pháp nghiên cứu thực nghiệm của tội phạm học." Thi tu là đặc điểm về mục <small>đích phịng ngừa tội phạm của tội phạm học. Đây là những đặc</small> điểm dé phân biệt tội phạm học với các ngành khoa học khác, đặc biệt là các khoa học có liên quan đến tội phạm.
II NỘI DUNG CUA TOI PHAM HOC
<small>Tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực va</small>
kiểm soát tội phạm hiện thực đồng thời là những nội dung khái quát của tội phạm học. Mỗi nội dung này lại bao gồm các nội dung cụ thể liên quan. Khi nghiên cứu về tội phạm hiện thực đòi hỏi phải nghiên cứu cả về người phạm tội với ý nghĩa là chủ thể gây ra tội phạm, về nạn nhân của tội phạm và hậu quả
<small>gây ra cho nạn nhân của tội phạm, nghiên cứu tội phạm hiện(1).Đặc điểm này sẽ được trình bày rõ hơn trong Chương III của Giáo trình.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><small>thực ở các phạm vi khác nhau, nghiên cứu tội phạm hiện thực</small>
<small>nói chung hay nghiên cứu nhóm hoặc loại tội phạm hiện thực</small> cụ thé... Hoặc khi nghiên cứu về nguyên nhân của tội phạm
<small>hiện thực cũng đòi hỏi nghiên cứu cả người phạm tội và nạn</small>
nhân của tội phạm để tìm hiểu về nguyên nhân từ phía người phạm tội và những yếu tố có ảnh hưởng đến nguyên nhân của tội phạm từ phía nạn nhân của tội phạm... Nghiên cứu về kiểm soát tội phạm hiện thực bao gồm cả nghiên cứu về hiệu quả của <small>pháp luật hình sự, hiệu quả của hình phạt, hiệu quả của hoạt</small> động đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng... từ góc độ phịng ngừa tội phạm và nhằm mục đích phịng ngừa tội phạm. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực, kiểm soát tội phạm hiện thực và các van dé xung quanh, liên quan đến các đối tượng nghiên cứu như đã nêu, hệ thống lí luận và những kết luận chung về các vấn đề này được hình thành và pháp triển, trở thành các nội dung cơ bản của tội phạm học. Điều này lí giải tại sao trong các sách hoặc tài liệu viết về tội phạm học, bên cạnh những nội dung trực tiếp thuộc đối tượng nghiên cứu của tội phạm học cịn có nhiều nội dung cụ thể khác được nêu thuộc về nội dung của tội phạm học như
<small>nhân thân người phạm tội, nạn nhân của tội phạm, hình phạt</small>
học, phịng ngừa tội phạm... Như vậy, các đối tượng nghiên cứu <small>của tội phạm học đã quy định những nội dung của tội phạm</small> học, hay cũng có thể diễn đạt cách khác là những nội dung
<small>khoa học của tội phạm học được hình thành trên cơ sở nghiên</small>
cứu các đối tượng nghiên cứu của tội phạm học.
Các nội dung của tội phạm học cũng được phát triển cùng
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">với sự phát triển của tội phạm học. Từ những năm 90 của thế kỉ XX phòng ngừa tội phạm ngày càng được các nước trên thế giới quan tâm, được thể hiện từ trong chính sách hình sự đến trong hệ thống kiểm soát tội phạm đến trong nghiên cứu tội phạm học, do đó lí luận về phịng ngừa tội phạm ngày càng được phát triển và trở thành bộ phận quan trọng của tội phạm học. Cùng với phòng ngừa tội phạm là vấn đề lí luận về nạn nhân của tội phạm và về tác dụng, hiệu quả của hình phạt cũng được phát triển thành những bộ phận (chuyên sâu) quan trọng của tội phạm học va trong một số tài liệu còn được gọi là nạn nhân học và hình phạt học.
<small>Những nội dung của tội phạm học được phản ánh ngay</small>
trong các sách viết về tội phạm học. Có thể viện dẫn ra đây nội dung của tội phạm học được giới thiệu trong cuốn “Giáo trình mới về tội phạm học” của các tác giả người Nhật Bản -Miiaddzrava va Phuddzimoto. Cuốn Giáo trình này có các nội dung sau:
I. Nhập mơn về tội phạm học 1. Tội phạm và tội phạm an
<small>2. Thực hiện cơng tac tu pháp hình sự trên cơ sở khoa học</small>
<small>và qun con người</small>
<small>3. Phi hình sự hố và phi hình phạt hố</small>
<small>(1).Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Sdd., tr. 7.</small>
<small>(2).Xem: Can Ueda, T6i phạm va tội phạm hoc ở Nhật Ban hiện dai, Sảd.,</small>
<small>tr. 33, 34 và Xem: Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện dai va phịng</small>
<small>ngừa tơi phạm, Sảd., tr. 19.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">4. Các tội phạm khơng có nạn nhân và chưa thê hiện rõ tính
<small>tội phạm</small>
5. Chính sách hình sự về nạn nhân của tội phạm II. Các giả thuyết và học thuyết tội phạm học
1. Học thuyết tội phạm học truyền thông 2. Học thuyết “Sự buộc tội”
3. Học thuyết trung lập hoá
4. Học thuyết về “Tội phạm học mới”
5. Học thuyết về sử dụng các phương pháp sinh học mới
<small>II. Phân loại người phạm tội1. Người phạm tội là phụ nữ</small>
2. Sự tôn hại than kinh và tội phạm 3. Những người phạm tội truyền thống
<small>4. Những người phạm tội của nhóm tội phạm giới tính5. Những người phạm tội vi thành niên</small>
IV. Tiếp cận phân loại tội phạm 1. Thành phố và tội phạm
<small>2. Tham nhũng của các cán bộ chức vụ</small>
<small>3. Tội phạm lạm dụng ma túy</small>
<small>4. Các nhóm tội phạm và tội phạm</small>
5. Sự suy đơi văn hoá và tội phạm V. Cơ chế kiểm soát tội phạm
1. Kiểm soát xã hội và tội phạm
<small>2. Xã hội hiện đại và cảnh sát</small>
<small>BÀI</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">3. Các chức năng của viện kiểm sát và toà án
<small>4. Giáo dục cải tạo phạm nhân</small>
<small>5. Giáo dục người phạm tội không bị tách khỏi xã hội</small>
VI. Các khuynh hướng quốc tế trong phát triển tội phạm học Hoặc trong cuốn sách “Tội phạm học ngày nay” của tác giả người Mỹ - Frank Schmalleger xuất bản năm 2002, các nội dung sau đã được dé cập:?)
Phần I. Bức tranh tội phạm
<small>Chương |. Tội phạm học là gì?Chương 2. Các dạng của tội phạm</small>
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu và sự phát triển lí luận Phần II. Nguyên nhân tội phạm
Chương 4. Trường phái cô điển và cô điển mới
Chương 5. Những nguồn gốc thuộc về sinh học của hành vi
<small>phạm tội</small>
Chương 6. Những cơ sở về tâm lí và thần kinh của hành vi <small>phạm tội</small>
Chương 7. Những học thuyết xã hội 1: Cơ cấu xã hội
Chương 8. Những học thuyết xã hội 2: Quá trình xã hội và sự sự phát triển có tính chất xã hội
Chương 9. Những học thuyết xã hội 3: Xung đột xã hội Phan III. Tội phạm trong thé giới hiện dai
<small>Chương 10. Các tội xâm phạm con ngườiChương 11. Các tội xâm phạm sở hữu</small>
<small>(1).Xem: Frank Schmalleger, Criminology Today, Sdd., cuốn sách này được</small>
<small>dùng phơ biên trong các trường có đào luật ở Mỹ.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Chương 12. Tội phạm cô cồn trang và tội phạm có tơ chức Chương 13. Lạm dụng chất ma túy và tội phạm
<small>Chương 14. Công nghệ và tội phạm</small>
Phan IV. Phản ứng (kiểm sốt) đơi với hành vi phạm tội
<small>Chương 15. Tội phạm học và chính sách xã hộiChương 16. Những phương hướng trong tương lai</small>
Tiếp theo có thể viện dẫn những nội dung của tội phạm học
<small>được thê hiện trong cuôn sách về tội phạm học được dùng phôbiên trong các cơ sở đào tạo luật ở CHLB Đức. Đó là cn sách</small>
“Tội phạm hoc” của tác giả Bernd-Dieter Meier." Những nội
<small>dung sau đã được đê cập:</small>
1. Đối tượng và sự quan tâm nhận thức của tội phạm học 2. Sự phát triển và trạng thái hiện tại của tội phạm học 3. Các học thuyết tội phạm học
<small>4. Các phương pháp nghiên cứu tội phạm học</small>
5. Mức độ, cơ cau và diễn biến của tội phạm đã được thống kê 6. Nhân thân người phạm tội và nguyên nhân về tiểu sử xã hội 7. Những vấn đề của dự báo về tội phạm trong tương lai
<small>8. Nạn nhân của tội phạm và nạn nhân hoa</small>
9. Kiểm sốt tội phạm
<small>10. Phịng ngừa tội phạm</small>
11. Tội phạm về kinh tế
12. Tội phạm và truy cứu hình phạt ở châu Âu
<small>(1).Xem: Bernd-Dieter Meier, Kriminologie, Sdd.</small>
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Ở Việt Nam, một số giáo trình hoặc sách về tội phạm học?
<small>đã đê cập thông nhât đên các nội dung sau của tội phạm học:</small>
<small>1. Khái niệm và nhiệm vu của tội phạm học</small> . Lịch sử hình thành và phát triển tội phạm học
<small>. Phương pháp nghiên cứu tội phạm học. Tình hình tội phạm</small>
<small>. Nguyên nhân của tội phạm. Nhân thân người phạm tội. Dự báo tội phạm</small>
<small>. Phòng ngừa tội phạm</small>
Phần các vấn đề về lí luận chung hay cịn được gọi là phần
<small>- Khái niệm và nhiệm vụ của tội phạm học;</small>
<small>(1).Xem: Khoa Luật, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Giáo trinh tội phạm</small>
<small>học, Sdd.; Nguyên Xn m, Tơi phạm học hiện đại và phịng ngừa lộiphạm, Sdd.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">- Lịch sử hình thành và phát triển của tội phạm học; <small>- Phương pháp nghiên cứu của tội phạm học;</small>
<small>- Tình hình tội phạm;</small>
<small>- Nguyên nhân của tội phạm;- Nạn nhân của tội phạm;- Dự báo tội phạm;</small>
- Kiểm soát xã hội và kiểm sốt tội phạm; <small>- Phịng ngừa tội phạm.</small>
Phần các vấn đề cụ thể hay còn được gọi là phần tội phạm học cụ thé hay tội phạm học của các tội phạm hoặc nhóm tội phạm cụ thé, bao gồm các nội dung về tình hình hoặc phịng
<small>Nội dung của tội phạm học với tu cách là một khoa họcđương nhiên sẽ quy định nội dung của môn học - tội phạm học.</small>
Theo đó nội dung của mơn học tội phạm học cũng bao gồm hai phan: Tội phạm học đại cương và tội phạm học cụ thé.
Trong giáo trình “Tội phạm học” này các vấn đề chung của tội phạm học đại cương sẽ được đề cập.
II. NHIỆM VU CUA TOI PHAM HỌC
<small>Tội phạm học có hai nhiệm vụ co ban, đó là nhiệm vunghiên cứu thực nghiệm và nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng.</small>
Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm là nhiệm vụ đầu tiên quan
<small>trọng của tội phạm học với nghĩa là khoa học liên ngành, thực</small>
nghiệm. Các nhà tội phạm học theo đuổi nhiệm vụ này không
kết quả nghiên cứu thực nghiệm từ góc độ các ngành khoa học <small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">khác nhau về hiện thực xã hội của tội phạm, nguyên nhân của tội phạm và thực tiễn kiểm sốt tội phạm (ví dụ các kết quả
<small>nghiên cứu ngun nhân của tội phạm từ góc độ tâm lí học, tâm</small>
thần học, xã hội học) mà cịn phải phân tích và lí giải về nguyên nhân, các mối liên hệ và cơ cấu của các đối tượng nghiên cứu trên cơ sở gắn kết liên ngành các kết quả nghiên cứu thực <small>nghiệm. Qua đó, những tri thức thực nghiệm được tích lũy và</small> củng cố, tạo thành hệ thống tri thức, học thuyết khác nhau tồn tại trong lịch sử phát triển tội phạm học. Kho tàng tri thức thực nghiệm có được do thực hiện nhiệm vụ này ngày một phát triển và trở thành những kiến thức cơ bản hay nền tảng của tội phạm học. Do đó, nhiệm vụ này cũng có thể được gọi là nhiệm vụ <small>nghiên cứu cơ bản của tội phạm học.</small>
<small>Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng là nhiệm vụ thứ hai của tội</small>
phạm học nhưng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Nghiên cứu
<small>ứng dụng hướng tới việc đưa ra những định hướng, giải phápvận dụng những tri thức khoa học cơ bản của tội phạm học vào</small>
hoạt động thực tiễn nhằm phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ này
<small>được thực hiện trong các lĩnh vực mà tri thức thực nghiệm của</small>
tội phạm học cần được mở rộng, phát triển và vận dụng dé đưa ra những giải pháp hoặc kết luận có giá trị thực tiễn. Nhiệm vụ <small>nghiên cứu ứng dụng được thực hiện trước tiên phục vụ cho</small>
<small>công tác phịng ngừa tội phạm; dự báo tội phạm; hoặc thơng</small>
qua nghiên cứu về tác dụng và hiệu quả phòng ngừa của hình phạt; nghiên cứu về việc trở thành nạn nhân của tội phạm và
<small>bảo vệ nạn nhân của tội phạm... Những phạm vi hoặc lĩnh vựcnghiên cứu ứng dụng quan trọng của tội phạm học thường là</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>những phạm vi hoặc lĩnh vực mà các cơ quan tư pháp hình sự</small> có nhu cầu lớn nhất về những thông tin được khai thác từ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm dé có thé ban hành được các quyết định hợp lí và hiệu quả nhằm phòng ngừa tội phạm.“ Những kết quả đem lại do thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng của các nhà tội phạm học ngày càng được phát triển, mang lại lợi ích thiết thực cho cơng tác phịng ngừa tội phạm và nhờ đó tội phạm học ngày càng khăng định được vị thế của <small>mình trong xã hội.</small>
IV. TỘI PHẠM HỌC VÀ CÁC NGÀNH KHOA HỌC KHÁC CÓ LIÊN QUAN
1. Tội phạm học và các khoa học về tội phạm
tác với các khoa học trong nhóm các khoa học về tội phạm. Thuộc về khoa học về tội phạm là những khoa học nghiên cứu chủ yếu về tội phạm trong bat kì thé thức nao.” Theo đó, khoa học về tội phạm bao gồm khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự - được gọi là khoa học về tội phạm có tính pháp lí, tội phạm học và khoa học điều tra tội phạm - được gọi là khoa học về tội phạm khơng có tính pháp lí hay khoa học về tội
<small>phạm mang tính thực nghiệm.</small>
Tuy cùng nghiên cứu về tội phạm nhưng các khoa học về
<small>tội phạm nghiên cứu nó từ các góc độ khác nhau do đó có các</small>
đối tượng nghiên cứu chuyên sâu khác nhau.
<small>(1).Xem: Bernd-Dieter Meier, Kriminologie, Sdd., tr. 12.</small>
<small>(2).Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Sdd., tr. 6.</small>
<small>2</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><small>Khoa học luật hình sự nghiên cứu tội phạm và hình phạt,</small>
bao gồm các các vẫn đề cơ bản như đặc điểm chung của các hành vi bị coi là tội phạm, các dấu hiệu của từng tội phạm cụ thẻ, hệ thống hình phạt và hình phạt quy định cho từng tội phạm cụ thé cũng như kĩ thuật quy định tội phạm và hình phạt trong luật hình sự. Các kết quả nghiên cứu của khoa học luật hình sự phục
<small>vụ cho việc quy định của luật hình sự cũng như việc giải thích</small>
và nhận thức đúng các quy định của luật dé áp dụng."
Khoa học luật tố tụng hình sự nghiên cứu các thủ tục tố
<small>tụng hình sự mà trong đó luật hình sự được áp dụng cho từng</small>
trường hợp cụ thê dé xác định tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, bao gồm các vẫn đề cơ bản như thâm quyên, hoạt động và các quyết định của các cơ quan tiễn hành tố tụng; các biện pháp ngăn chặn; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng hình sự và trình tự tố tụng của các giai đoạn trong tơ tụng hình sự. Các kết quả nghiên cứu của khoa học luật tố tụng hình sự phục vụ cho việc quy định của pháp luật tố tụng hình sự, giải thích và nhận thức đúng các quy định của pháp luật để áp dụng.
Khoa học điều tra tội phạm là khoa học về đấu tranh chống tội phạm băng ngăn chặn và làm rõ tội phạm.” Cụ thể, khoa học điều tra tội phạm nghiên cứu về các công cụ và các phương pháp <small>ngăn chặn, phát hiện và làm rõ các hành vi phạm tội và người</small>
<small>(1).Xem: Nguyễn Ngọc Hoà, 76i phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. CAND,</small>
<small>Hà Nội 2008, tr. 8.</small>
<small>(2). Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Sdd., tr. 14.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">phạm tội. Các kết quả nghiên cứu của khoa học điều tra tội phạm phục vụ cho công tác đấu tranh chống tội phạm của cảnh sát.
Tội phạm học cũng là khoa học nghiên cứu về tội phạm nhưng lại nghiên cứu về tội phạm như hiện tượng xã hội số lớn, nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm mà hiện tượng này đã được luật hình sự quy định là tội phạm. Dong thời, tội phạm học cũng nghiên cứu hiệu quả thực tế của luật hình sự với ý nghĩa là cơng cụ kiểm sốt tội phạm, hiệu quả, tác động
<small>phịng ngừa riêng và phịng ngừa chung của hình phạt với nghĩa</small>
là những biện pháp phản ứng đối với tội phạm, hiệu quả hoạt động và xử lí vụ án của các cơ quan tiễn hành tố tụng theo quy định của luật tố tụng hình sự thực hiện phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm. Như vậy, tội phạm học không chỉ nghiên cứu “mặt xã hội” của luật hình sự mà cả của luật tố tụng hình sự
<small>hay nói một cách khác là tội phạm học nghiên cứu “mặt xã hội”</small>
của luật hình sự về nội dung và của luật hình sự về hình thức. Khi nghiên cứu các đối tượng của mình, tội phạm học
<small>khơng những phải dựa trên cơ sở các quy định của luật hình sự</small>
và luật tố tụng hình sự mà cịn phải dựa trên cơ sở giải thích pháp luật của khoa học luật hình sự và khoa học luật tố tụng hình sự. Ngược lại, những kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các đối tượng nghiên cứu của tội phạm học cũng cung cấp
những thông tin, những luận cứ thực tiễn và xã hội cho khoa
học luật hình sự và khoa học luật tố tụng hình sự để có thể khai
<small>thác, sử dụng trong nghiên cứu phục vụ cho việc hoàn thiện</small>
những quy định của luật hình sự và luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát tội phạm và phòng ngừa tội phạm.
<small>20)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm của lực lượng cảnh sát cũng thuộc về hệ thống kiểm soát tội phạm và do đó cũng thuộc
<small>cứu trong lĩnh vực này, tội phạm học phải dựa vào những tri</small>
thức khoa học của khoa học điều tra tội phạm và ngược lại, những kết quả nghiên cứu thực nghiệm của tội phạm học trong lĩnh vực này cũng sẽ được khoa học điều tra tội phạm khai thác và sử dụng phục vụ cho việc nâng cao hiệu quả đấu tranh chống <small>tội phạm của lực lượng cảnh sát.</small>
Bên cạnh đó cịn tồn tại “kênh” quan trọng thể hiện mối quan hệ giữa các khoa học về tội phạm hoặc nói cách khác là giữa tội phạm học với các khoa học khác về tội phạm. Đó là mối liên hệ của các khoa học về tội phạm với chính sách hình sự.
Chính sách hình sự có thé được hiểu theo nghĩa hep, “la chính sách về tội phạm va về tơ chức đấu tranh phịng, chống tội phạm”? hay là “chính sách của nhà nước đối với dau tranh phòng, chống tội phạm bằng biện pháp pháp luật hình sự nhằm đảm bao an ninh chính tri và trật tự an tồn xã hội”.”' Hoặc chính sách hình sự được hiểu theo nghĩa rộng, như chính sách hình sự là tồn bộ những nguyên tắc, những phương châm chỉ đạo và các biện pháp đấu tranh phòng và chống tội phạm”) hay chính sách hình sự được hiểu là tổng thê tất cả các biện pháp của nhà nước hướng đến việc ngăn ngừa và đấu tranh chống tội
<small>(1).Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1, Những vấn dé chung,</small>
<small>Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr. 184.</small>
<small>(2).Nguyễn Ngọc Hồ, Lê Thị Sơn, Tir điển pháp luật hình sự, Nxb. Tư pháp,</small>
<small>Hà Nội, 2006, tr. 43.</small>
<small>(3).Xem: Đào Trí Úc (chủ biên), 76¿ phạm học, Luật hình sự và luật tổ tụnghình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 106.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">phạm nham bảo vệ xã hội và từng người dân.” Theo nghĩa nay cũng có thê suy ra răng chính sách hình sự bao gồm chính sách kiêm sốt tội phạm và chính sách phịng ngừa tội phạm.
Dù chính sách hình sự được hiểu theo nghĩa rộng hay hẹp thì khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự hay khoa học điều tra tội phạm đều phải được qn triệt chính sách
<small>hình sự và phục vụ cho việc thực hiện chính sách hình sự.</small>
Chính sách hình sự của nhà nước trước hết phải được thể hiện và xuyên suốt các quy định của pháp luật hình sự và tố tung hình sự, các quy định về tơ chức và hoạt động của các cơ quan chức năng trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm cũng như phải được thực hiện trong hoạt động đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm của các cơ quan này. Các kết quả nghiên cứu của khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng luật hình sự và khoa học điều tra tội phạm là dé phuc vu cho viéc thé hiện và thực hiện đúng dan chính sách hình sự.
Cịn tội phạm học với các kết quả nghiên cứu của mình phải
<small>định nội dung của chính sách hình sự và việc thực hiện chính</small>
sách hình sự (đặc biệt là chính sách phịng ngừa tội phạm) cần phải có điều kiện là sự nhận thức khách quan về tội phạm hiện thực, nguyên nhân của tội phạm hiện thực và thực tế kiểm soát tội phạm hiện thực. Các kết quả nghiên cứu tội phạm học sẽ cung cấp những thông tin, những cơ sở thực tế và xã hội cho
<small>(1).Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Sdd., tr. 16.</small>
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>việc hoạch định và thực hiện chính sách hình sự, đặc biệt là</small>
chính sách phịng ngừa tội phạm dù ở cấp độ nào, ở cấp độ thứ nhất - phòng ngừa xa, ở cấp độ thứ hai - phòng ngừa các nguy cơ phạm tội và ở cấp độ thứ ba - phòng ngừa phạm tội lại ở <small>người phạm |ỘI.</small>
2. Tội phạm học và xã hội học, tâm lí học, tâm thần học Bên cạnh mối quan hệ với các khoa học về tội phạm, tội
với một số ngành khoa học về xã hội và con người có nghiên cứu ở phạm vi nhất định (khơng chủ yếu) về hiện tượng tội phạm, đặc biệt là xã hội học, tâm lí học và tâm thần học.
<small>Xã hội học là khoa học nghiên cứu quy luật của sự nảy sinh,</small> biến đổi và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội.” Dé nghiên cứu được điều này xã hội học phải bắt đầu với việc nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, quá trình và thiết chế xã hoi. Nếu diễn đạt một cách khái qt thì có thé coi xã hội học là khoa học nghiên cứu “mặt xã hội” của thực tại xã hội.) Xét về cơ cấu, xã hội học bao gồm xã hội học đại cương và xã hội
<small>học chuyên ngành. Trong khi xã hội học đại cương nghiên cứu</small>
các quy luật và đặc điểm chung nhất của các sự kiện, hiện tượng và quá trình xã hội thì xã hội học chuyên ngành gan lí <small>luận xã hội học đại cương vào việc nghiên cứu các sự kiện,</small>
<small>(1).Xem: Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia HàNội, Xã hội học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 11.(2).Xem: Xã hội học - Wikipedia tiếng Việt.</small>
<small>(3).Xem: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Xã hội học, Gidotrình Xã hội học trong quan li, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 22.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">hiện tượng và quá trình xã hội trong lĩnh vực cụ thể của đời sông xã hội.) Là một trong số những xã hội học chuyên ngành, xã hội học tội phạm nghiên cứu tội phạm như hiện tượng số lớn trong đời sống của xã hội và tìm hiểu về những nguyên nhân xã hội của tội phạm bằng phương pháp quan sát số lớn thống kê.)
Tâm lí học là khoa học nghiên cứu hành vi và các tiễn trình
tội phạm nghiên cứu cau trúc tâm lí của người phạm tội, tức là
của người phạm tội với hành vi phạm tội và cụ thể là trong cả <small>quá trình từ trước khi thực hiện, trong quá trình thực hiện và</small> đến sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
Tâm thần học là khoa học nghiên cứu về các bệnh tâm thần và cách điều trị. Là một bộ phận của tâm thần học, tâm thần học tội phạm nghiên cứu về các bệnh tâm thần như là nguyên nhân của tội phạm. )
Khi thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm về các đối tượng nghiên cứu của mình, bắt buộc tội phạm học phải dựa vào các ngành khoa học về xã hội và con người nêu trên bằng
<small>(1).Xem: Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia HàNội, Xã hội học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2007, tr. 24.</small>
<small>(2).Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Sdd., tr. 8.</small>
<small>(3).Xem: Robert S. Feldman (Giáo su tâm lí tai Đại hoc Massachusetts), Những</small>
<small>điều trong yếu trong tâm li học (bản dịch), Nxb. Thông kê, Hà Nội, 2003, tr. 28.</small>
<small>(4).Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Sdd., tr. 9.</small>
<small>(5).Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Sdd., tr. 7.</small>
<small>33</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">cách vận dụng, phát triển, liên kết các tri thức khoa học và các phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học này để phân tích, giải thích về hiện tượng xã hội là tội phạm, các nguyên nhân của tội phạm và kiểm soát tội phạm. Trong khi xã hội học, tâm lí học và tâm thần học chỉ có một bộ phận nghiên cứu từ một khía cạnh và ở phạm vi nhất định về hiện tượng tội phạm thì tội phạm học lại là khoa học nghiên cứu tổng thể và toàn diện về hiện tượng này. Nhắn mạnh mỗi quan hệ này đã có học giả cho rằng xã hội học tội phạm, tâm lí học tội phạm và tâm thần học tội phạm cũng là bộ phận của tội phạm học.t
CÂU HOI HƯỚNG DAN ON TẬP, ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN <small>1. Phân tích khái niệm tội phạm học.</small>
<small>2. Trình bày những nội dung cơ bản của tội phạm học.3. Nêu và phân tích những nhiệm vụ cơ bản của tội phạm học.</small>
4. Phân biệt tội phạm học với các khoa học khác về tội phạm.
<small>5. Phân biệt tội phạm học với các khoa học khác có liên quan.</small>
<small>(1).Xem: Hans-Dieter Schwind, Kriminologie: Eine praxisorientierte Einfuehrungmit Beispielen, Sdd., tr. 7.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35"><small>CHƯƠNG II</small>
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIEN CUA TOI PHAM HỌC
Qua trinh hinh thanh, phat triển của tội phạm học chính là q trình ra đời, phát triển các thuyết, các trường phái khác nhau giải thích về nguyên nhân của tội phạm. Mỗi thuyết, trường phái đó đều có con đường riêng (cách tiếp cận riêng) nghiên cứu về tội phạm nhưng cũng có thể có sự kế thừa ít nhiều quan niệm của người đi trước và tựu chung lại các thuyết, các trường phái đó đều cơ gắng giải thích ngun nhân của tội phạm và đưa ra <small>biện pháp phòng ngừa tương ứng.</small>
Việc nghiên cứu các thuyết, các trường phái ở các giai đoạn
<small>lịch sử khác nhau có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong nghiêncứu tội phạm học vì giúp đánh giá được những thành tựu, những</small>
hạn chế của các thuyết dé tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện việc giải thích về tội phạm cũng như xây dựng các biện pháp phịng
<small>ngừa tội phạm sát hợp.</small>
Có rất nhiều thuyết trong tội phạm học giải thích về nguyên nhân của tội phạm nhưng nhìn chung có thể chia thành bốn nhóm cơ bản với các cách tiếp cận khác nhau. Đó là:
a) Trường phái tội phạm học cơ điển với cách tiếp cận dựa trên nền tảng triết học “thời kì khai sáng”;
<small>35</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">b) Các thuyết sinh học với cách tiếp cận dựa trên nền tảng của lí thuyết sinh học;
c) Các thuyết tâm lí với cách tiếp cận dựa trên nên tang lí thuyết tâm lí;
d) Các thuyết xã hội học với cách tiếp cận dựa trên nền tảng của lí thuyết xã hội học.
Phải thừa nhận răng các thuyết khi lí giải về nguyên nhân của tội phạm đều có nhân tơ hợp lí nhất định, tuy nhiên, từng học
chế của học thuyết nào đó mà chúng ta phủ nhận sự đóng góp của học thuyết đó đối với sự phát triển của tội phạm học.
I. TRƯỜNG PHAI TOI PHAM HOC CO DIEN Thời gian: Từ năm 1700 đến năm 1880.
<small>Học giả tiêu biêu: Cesare Beccaria, Jeremy Bentham.1. Quan diém của Cesare Beccaria</small>
Cesare Beccaria (1738-1794) là chuyên gia về luật hình sự người Italia. Cuốn “Vé t6i phạm và hình phạt" (1764) của ơng là cơng trình đánh dấu bước ngoặt cho sự ra đời của trường phái tội phạm học cổ điền.
Là người có tư tưởng cấp tiến, ơng chịu ảnh hưởng sâu sắc triết lí của các học giả hàng đầu của triết học thời kì khai sáng <small>như Francis Bacon (1561-1626), Thomas Hobbes (1588-1679),</small>
<small>Jonh Locke (1632-1704), Jean - Jacques Rousseau (1712-1778),Baruch Spinoza (1632-1677), Thomas Paine (1737-1809). Giai</small>
thích về nguyên nhân của tội phạm, Cesare Beccaria cho rang
<small>nguyên nhân của tội phạm là tự do ý chí, sự lựa chọn của từng cá</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">nhân quyết định. Luận điểm này của ông là do chịu ảnh hưởng tư tưởng của triết học thời kì khai sáng, đó là “tự do ý chí và suy nghĩ lí trí được thừa nhận là có vai trị quyết định đến hành vi
<small>của con nøười”.</small>
Về phịng ngừa tội phạm, ơng đề cao vai trị của hình phạt trong phịng ngừa tội phạm. Để hình phạt có hiệu quả trong
<small>phịng ngừa tội phạm thì:</small>
+ Hình phạt phải tương xứng với mức độ nguy hiểm của tội phạm. Nếu hình phạt ngang bằng được áp dụng đối với hai tội <small>phạm đã gây thiệt hại cho xã hội ở những mức độ khác nhau thì</small> khơng có gì cản trở con người tiếp tục thực hiện những tội phạm nghiêm trọng hơn mỗi khi chúng đem lại nhiều lợi ích hơn;
+ Hình phạt cần phải căn cứ vào mức độ nguy hiểm của <small>hành vi phạm tội chứ không phải là con người phạm tội. Các tội</small> phạm chỉ có thê được đánh giá bởi những thiệt hại gây ra cho xã hội. Con người là chủ thể của tội phạm. Bởi vậy, mức độ nguy hiểm của tội phạm phụ thuộc vào mục đích của người phạm tội;
+ Hình phạt cần áp dụng nhanh chóng thì khi đó nó có giá trị phịng ngừa tốt nhất. Hình phạt kịp thời sẽ hiệu quả hơn bởi vì nếu khoảng thời gian giữa tội phạm và hình phạt càng ngắn thì sự kết hợp giữa hai ý tưởng về tội phạm và hình phạt càng <small>mạnh mẽ và dứt khoát hon;</small>
+ Mọi người cần được đối xử bình đăng. Hình phạt áp dụng đối với nhà q tộc cần phải khơng có sự khác biệt so với hình phạt đối với những thành viên thuộc tầng lớp dưới trong xã hội.
<small>37</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Bên cạnh đó, ơng cho rang, cách tốt nhất dé phịng ngừa tội
<small>phạm là luật phải được quy định đơn giản va rõ ràng, khen</small>
thưởng người có đạo đức tốt và cải thiện nền giáo dục. Đồng thời, cần phải cải thiện hệ thống tư pháp hình sự theo hướng hạn chế tính hà khắc và đây mạnh việc đối xử nhân đạo đối với tù nhân. Đồng thời, ông tỏ ra nghi ngờ về hiệu quả của hình <small>phạt tử hình trong phịng ngừa tội phạm.</small>
Ngày nay, các nhà tội phạm học vẫn coi tư tưởng của Cesare
Beccaria trong cuốn “Ƒ tội phạm và hình phạt" là tinh hoa trí
<small>tuệ của nhân loại.</small>
2. Quan điểm của Jeremy Bentham
Jeremy Bentham (1748 - 1832) là luật sư người Anh. Ông
<small>được coi là một trong những người sáng lập ra trường phái tội</small>
phạm học cơ điển. Với cơng trình “Loi giới thiệu tới các nguyên tắc của đạo đức và luật pháp” (1798), ông đã đưa ra thuật ngữ gan liền với tên tuổi của ơng - đó là “thuyết vị lợi” (utilitarianism
<small>or hedonistic calculus).</small>
“Thuyết vị lợi” của Jeremy Bentham là triết lí khá thực dụng về tội phạm cũng như hình phạt. Nội dung cốt lõi của “thuyết vị lợi” là: Người ta đều suy nghĩ, cân nhắc trước khi quyết định thực hiện hành vi của mình. Họ suy nghĩ xem có lợi hay khơng có lợi trước khi quyết định thực hiện hành vi phạm tội. Tất cả hành động của con người đều được tính tốn phù hợp với khả năng có thể đem lại lợi ích hoặc sự bất hạnh. Theo ơng, lợi ích và bat hạnh, phần thưởng và hình phạt là những nhân tố chi phối, quyết định chủ yếu đến sự lựa chọn hành vi của con người (trong đó có hành vi phạm tội). Ông cho rằng
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">mỗi cá nhân như là những “máy tính người”, họ cân nhắc tất cả các nhân tố nói trên vào phương trình để xem xét có nên thực hiện tội phạm nào đó khơng? Nếu có lợi thì con người ta mới phạm tội. Về thực chất, quan điểm này vẫn nhắn mạnh hành vi
nói chung trong đó có hành vi phạm tội được thực hiện vẫn do
sự lựa chọn của từng cá nhân quyết định. Và điều đó có nghĩa là nguyên nhân của tội phạm thực chất vẫn là tự do ý chí, sự lựa chọn của từng cá nhân. Đóng góp của ông lớn lao đến mức các nhà tội phạm học đã xếp ông đứng thứ hai, chỉ sau Cesare Beccaria trong trường phái tội phạm học cô điển.
Để giảm tội phạm trong xã hội, Jeremy Bentham cho răng phải phịng ngừa điều ác xảy ra. Đồng thời, ơng cho rằng tính tất u của hình phạt quan trọng hơn tính nghiêm khắc của nó trong phịng ngừa tội phạm. Ông nhấn mạnh: Hình phạt áp dụng đối với người phạm tội là để phòng ngừa tội phạm. Phòng ngừa là mục đích chủ yếu nhất của hình phạt. Cũng giéng như Cesare Beccaria, Jeremy Bentham cho rằng pháp luật là cần thiết. Pháp luật được đặt ra để mang lại hạnh phúc cho nhân dân và ông mong muốn hạnh phúc tối đa cho số lượng người đông nhất. Khi hình phạt mang lại bất hạnh cho người phạm tội, nó chỉ được chấp nhận nếu nó phịng ngừa được nhiều điều tôi tệ hơn là tạo ra sự bất hạnh đó. Nếu phịng ngừa là mục đích của hình phạt và nếu hình phạt trở nên quá tai hại bởi việc tạo ra nhiều thiệt hại hơn là tốt đẹp thì hình phạt cần phải được đặt
<small>ra cao hơn so với lợi ích mà người phạm tội có được khi thựchiện tội phạm.</small>
Jeremy Bentham đã có quan điểm khá thực dụng đối với
<small>39</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">việc phòng ngừa tội phạm. Ơng cho rằng mọi cơng dân nên xăm trồ họ, tên của mình vào cổ tay với mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho sự nhận dạng của cảnh sát. Ông cũng đưa ra y
<small>tưởng thành lập lực lượng cảnh sát được chun mơn hố cho</small>
việc phịng ngừa và kiểm sốt tội phạm. Đóng góp nổi bật của Jeremy Bentham đối với phòng ngừa tội phạm phải ké đến việc ông đưa ra ý tưởng xây dựng hệ thống các nhà tù theo kiểu “Panopticon House”. Theo thiết kế của Jeremy Bentham <small>thì đây là loại nhà tù xây tròn với những phòng giam bên</small>
<small>trong (ở giữa có chịi canh gác, nơi mà nhân viên giám sát tù</small>
nhân có thể quan sát được tồn cảnh các tù nhân trong các phịng giam). Ơng cho răng “Panopticon House” nên được xây dựng gần hoặc trong các thành phố để răn đe những người khác khi họ nhìn thấy những người tù đang thi hành án mà từ bỏ ý định phạm tội. Tuy nhiên, ý tưởng về xây dựng “Panopticon House” của ông không được giới cầm quyền thời kì đó ủng hộ, triển khai trong thực té.
Tư tưởng của trường phái tội phạm cô điển đã có ảnh hưởng vơ cùng rộng lớn đối với chính sách hình sự cũng như hệ thong các cơ quan tư pháp hình sự ở của các quốc gia ở châu Âu cũng như nước Mỹ. Vai trò của pháp luật đã được dé cao dan dan thay thé cho tính chun quyền độc đốn của Chính phủ. Ngun tắc hình phạt phải tương xứng với mức độ nguy hiểm của tội phạm đã được thừa nhận và dần dần đóng vai trị khơng thê thiếu trong
<small>(1).Xem: Ed. J.R. Dinwiddy, The Correspondence of Jeremy Bentham, vol. vii,Oxford, 1988, p. 373; Xem: Janet Semple, Bentham's Prison, Oxford, 1993;Xem: Frank Schmalleger, Criminology Today, Sdd., tr. 117 - 118 va Xem: ngay 01/3/2008.</small>
</div>