Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.84 MB, 21 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">
Cây luồng mọc nhanh và phát triển tự nhiên, tập trung ở iền núi, như Thanh Hóa, Nghệ An, Hịa Bình. Lng có xơ sợi tốt, với chiều dài trung bình có thể đạt 1,9 – 2,5mm, nhưng khối lượng thể tích cao, khoảng 830 kg/, nhiều mấu mắt. Luồng có độ tuổi từ 2-3 năm có thành phần hóa học bao gồm: Khoảng 50% cellulose, 23-24% lignin và độ tro 5-7%.
Tre, Nứa là nguồn nguyên liệu lâu đời của ngành giấy Việt Nam, là các lồi cây mọc nhanh, có chu kỳ khai thác ngắn, chỉ khoảng 2-3 năm. Cũng như Luồng, Tre, Nứa thuộc loại than rỗng, có xơ sợi dài (Khoảng 2mm), phù hợp làm nguyên liệu cho sản xuất các loại giấy bao bì, cactong, giấy in, giấy viết, giấy vàng mã.
Tre, Nứa ở nước ta mọc rải rác từ Bắc đến Nam, trên các lập địa khác nhau, chủ yếu tập trung ở các vùng núi với địa hình khó khai thác. Tại vùng trung tâm Bắc Bộ, các tỉnh miền Bắc thuộc Khu Bốn cũ, Tre, Nứa phát triển tốt, sản lượng thu hoạch tương đối cao. Tuy nhiên, sản lượng Tre, Nứa phát triển tự nhiên tương đối thấp, chỉ khoảng 50-100 tấn/ha/năm, nhưng nếu đầu tư và thâm canh tốt, đồng thời áp dụng kỹ thuật chăm sóc phì hợp, sản lượng có thể tang vài lần, đạt 200-250 tấn/ha/năm.
Bột giấy sản xuất từ nguyên liệu Tre, Nứa có độ trắng không cao, thong thường chỉ đạt được 75 – 80%.
<small> Xơ sợi bã mía có độ dài trung bình khoảng 1,2mm, thành phần hóa học bao gồm khoảng 47-49% cellulose, 20-23% lignin, 2-3% các chất vô cơ. Bã mía xử lý và bảo quản tốt có thể sử dụng làm nguyên liệu sản xuất bột giấy hiệu suất bột cao.</small>
<small>Rơm rạ là nguyên liệu phù hợp để sản xuất bột giấy không tẩy trắng. Với hàm lượng cellulose khoảng 35-40%, hàm lượng lignin thấp ( khoảng 13-15%), chiều dài xơ sợi trung bình 1-1,5 mm, nhưng độ tro tương đối cao (13-15%), sử dụng rơm rạ cũng gặp những khó khan nhất định trong q trình sản xuất.</small>
Đại đa số thiết bị bóc vỏ hiện đại phù hợp với chiều dài gỗ trục khỏng 2-2,5m; Cắt khúc gỗ được thực hiện bằng phương pháp cưa, phay hoặc cắt. Khi cưa, gỗ được cắt đứt thành từng đoạn khác nhau. Thiết bị phổ biến nhất là các máy cưa đĩa nhiều lưỡi. Gỗ được đưa vào máy cưa bằng hệ thống bang tải xích. Cắt gỗ bằng dao cắt khơng thải ra mùn cưa. Thiết bị có
khả năng sử dụng tốt nhất là loại máy cắt dạng đè, tức là gỗ bị các dao cắt chuyển động đè tì lên một bệ tì của máy. Một trong những loại máy cắt dạng này là loại có dao phẳng dày khoảng 5mm, được mài sắc một bên, có thể cắt gọn than gỗ có đường kình tới 400mm trong vịng tích tắc 0.1- 0.2s.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Vỏ cây có độ dày tương đối khác nhau, chủ yếu phụ thuộc vào loài cây và tuổi của cây. Trung bình, vỏ cây chiếm 10-15%, thậm chí có lồi cây lên tới 18-20% khối lượng tồn than cây khơ. Các loại thiết bị bóc vỏ gỗ hiện nay sử dụng trong sản
xuất bột giấy, có thể chia thành ba dạng chủ yếu: -Thùng bóc vỏ -Máy bóc vỏ dạng rơto; -Máy tước vỏ dạng thùng và dạng tunnel.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Các chỉ tiêu chất lượng của dăm mảnh bao gồm: kích thước, thành phần kích cỡ, chất lượng bề mặt cắt. Kích thước dăm mảnh được đặc trưng bởi chiều dài, chiều rộng và chiều dày. Dăm mảnh u cầu phải có kích thước đồng đều, thường là: Chiều dài 15-25mm; chiều rộng 5-20mm; dày 3-5 mm,
lượng dăm mảnh hợp quy cách phải ≥ 90% Các loại máy có số dao ít (3-4 dao) hoạt động gián đoạn,
năng suất thấp và khó đáp ứng các tiêu chuẩn về sự đồng nhất kích thước của dăm nên ít được sử dụng. Các máy chặt mảnh hiện đại phổ biến có tới 10 – 16 dao
cắt, một số loại năng suất cao có thể có 25 dao chặt, chúng hoạt động theo nguyên lý lien tục, tức dao cắt lien tục tiếp xúc với gỗ, định vị được gỗ khi chặt mảnh và đảm bảo dăm mảnh sản xuất ra cho chất lượng tốt.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Cho dù sử dụng các loại máy chặt mảnh điện đại nhất, dăm mảnh thu được vẫn có thành phàn khơng đồng đều về kích cỡ, do sự khác biệt nhau về tính chất của nguyên liệu, sự di chuyển của gỗ khi chặt mảnh, kết cấu của máy chặt mảnh khơng hồn thiện hoặc các bộ phận của máy đã khấu hao mạnh,… Độ không đồng đều của dăm mảnh về kích thước có thể
do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn: -Chặt dăm mảnh gỗ vào mùa đông (gỗ lạnh) hay gỗ quá khô (độ khô > 70%) sẽ cho nhiều mảnh nhỏ và mùn vụn gỗ hơn; -Gỗ có nhiều cành nhánh sẽ cho mảnh quá cỡ nhiều hơn; -Gỗ nhỏ cũng cho mảnh nhỏ và mảnh quá cỡ nhiều, bởi
về nguyên tắc, gỗ nhỏ có tỷ lệ cành nhánh lớn. Để kiểm sốt kích cỡ dăm mảnh, người ta thường sử dụng phương pháp sang chọn và phân loại
dăm mảnh như sau: -Mảnh hợp cách (Có kích thước phù hợp tùy theo yêu cầu sản xuất của mỗi nhà nhà máy)
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Mảnh sau sàng chọn có thể được rửa bằng hệ thống rửa mảnh, để tách bỏ tạp chất cơ học lần cuối, đồng thời làm cho độ ẩm của mảnh đồng đều trước khi bảo quản, tồn trữ và cấp cho nấu. Ở nước ta, dăm mảnh nguyên liệu có thể được chế biến tại nhiều doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, rồi được cung cấp cho nhà máy sản xuất, vì vậy chất lượng theo tiêu chuẩn kỹ thuật hiện hành, chúng cần được sàng chọn lại, rửa và làm đều ẩm. Hệ thống rửa dăm mảnh hiện đại của Metso (Hình bên) bao gồm các thiết bị như khoang rửa(1) có cơ cấu bánh canh mảnh, cít tải vắt nước(2), băng tải mảnh(3), các thiết bị tách cặn và xử lý nước rửa, bể chứa nước cấp cho rửa mảnh Dăm mảnh sau sàng được cấp vào khoảng nữa, sau đó
được đưa sang vít tải để vắt nước, rồi qua bang tải chuyển đền bãi chứa. Nước rửa từ vít tải và bằng tairmanhr cùng với cặn dược thu họp tại bể lọc(4), rồi được đưa sang bể lắng(5), Sau đó được thu gom vào bể chứa (6), rồi phối trộn với nước mới để cấp cho rửa mảnh> Cặn được tách bằng thiết bị, rồi đưa đi xử lý