Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tóm tắt: Business strategy, bank operation, and the role of intellectual capital development

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.71 KB, 31 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>LỮ HỮU CHÍ </b>

<b>CHIẾN LƯỢC KINH DOANH, HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN VỐN TRÍ TUỆ </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>CHƯƠNG 1 . GIỚI THIỆU </b>

<b>1.1. Động lực và bối cảnh nghiên cứu </b>

Có thể nói thế giới ngày nay đang phải đối mặt với những mối rủi ro ngày một gia tăng xuất phát từ “đa khủng hoảng” (poly-crisis) như sự gián đoạn của chuỗi cung ứng toàn cầu, giá năng lượng và tỷ lệ lạm phát tăng vọt, rủi ro địa chính trị (Lu và Luong, 2022; Phan và cộng sự, 2022b; Yusoff và cộng sự, 2019). Viễn cảnh này nhấn mạnh rằng các tổ chức ngày này phải tìm ra những phương cách hữu hiệu nhằm duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Trong bối cảnh này, việc khai thác các nguồn lực dựa trên tri thức có thể được coi là sự chuẩn bị cần thiết để mở ra những con đường mới cho các cơng ty hiện đại vì nó hỗ trợ các tổ chức đạt được lợi thế cạnh tranh và phát triển ổn định (Alvino và cộng sự, 2020; Suciu và Năsulea, 2019). Khẳng định này cũng đúng trong ngành ngân hàng, vốn thường phụ thuộc nhiều vào nguồn lực trí tuệ hơn là vốn vật chất để cung cấp các sản phẩm và dịch vụ phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của khách hàng và thành công trong lợi thế cạnh tranh (Adesina, 2019). Ở một mức độ nào đó, vốn trí tuệ (intellectual capital - IC) có thể là tín hiệu hữu hiệu để đánh giá mức độ hiệu quả hoạt động của ngân hàng so với các đối thủ (Meles và cộng sự, 2016; Stewert, 1999).

Khơng có gì đáng ngạc nhiên khi các học giả và cơ quan quản lý gần đây rất quan tâm đến việc triển khai IC trong hoạt động ngân hàng. Trong khi số lượng nghiên cứu trong lĩnh vực này tập trung chủ yếu vào mối tương quan giữa IC và năng suất của ngân hàng (ví dụ: Alhassan và Asare, 2016; Yalama, 2013; và những người khác) , IC và khả năng sinh lời (ví dụ: Le và Nguyen, 2020) ; Poh và cộng sự, 2018; và trong số những người khác), IC và rủi ro (ví dụ: Dalwai và cộng sự, 2021; Nguyen và cộng sự, 2021; và trong số những người khác), hoặc hiệu quả kỹ thuật, phân bổ và chi phí (ví dụ: Adesina, 2019; Lê và cộng sự, 2022) , khía cạnh trung gian tài chính trong hệ thống ngân hàng cũng như mối liên hệ giữa IC và một trong những khía cạnh quan trọng nhất trong hoạt động ngân hàng, đó là tổng thu nhập ngoài lãi, dường như vẫn là một vấn đề quan trọng chưa được khám phá. Với ý nghĩ đó, nghiên cứu này nhằm giải quyết vấn đề mấu chốt là việc triển khai IC có thúc đẩy trung gian tài chính và tổng thu nhập ngồi lãi trong hệ thống ngân hàng hay không. Theo nghĩa này, Việt Nam có thể là một trong những quốc gia lý tưởng để tìm ra câu trả lời rõ

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

ràng và lấp đầy khoảng trống quan trọng này trong các tài liệu vì những lý do sau.

Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã chứng kiến tốc độ nhanh chóng trong khu vực ASEAN và người ta hy vọng nước này sẽ là con hổ tiếp theo ở châu Á (Le, 2021; Le và Nguyen, 2020). Mặc dù vậy, do thị trường tài chính dường như vẫn chưa phát triển nên tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững chủ yếu dựa vào hoạt động hiệu quả của hệ thống ngân hàng, vốn cũng được coi là xương sống của nền kinh tế Việt Nam (ví dụ, Le và cộng sự, 2022; Le và Nguyen, 2020; Phan và cộng sự, 2022b). Số liệu thống kê do World Bank Data cho thấy các chỉ số kinh tế về tín dụng trong nước đối với khu vực tư nhân được các ngân hàng hỗ trợ đã tăng từ khoảng 65% lên hơn 116% trong giai đoạn 2006-2020. Sự leo thang đáng chú ý này có nghĩa là sự phát triển của ngành ngân hàng đóng một vai trị quan trọng trong việc đảm bảo và thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, phát triển hoạt động trung gian tài chính ngày càng trở thành một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo đủ nguồn lực kinh tế và duy trì nền kinh tế đang phát triển.

Ngoài ra, thị trường ngân hàng Việt Nam có thể trở nên cạnh tranh gay gắt do sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài, tiếp nối sau việc tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới vào năm 2007 (Huynh và Đang, 2021; Lê và Nguyen, 2020; Phan và cộng sự, 2022a). Do đó, các ngân hàng trong nước phải tìm ra những cách thức mới để thích ứng với những điều kiện thay đổi. Về vấn đề này, việc đào sâu hơn vào nguồn lực trí tuệ có thể là một chiến lược kinh doanh cơ bản để phát triển mạnh trong hoạt động kinh doanh của họ. Thật vậy, dường như đang chứng kiến sự phát triển ngày càng tăng từ mơ hình chiến lược truyền thống sang mơ hình dựa trên tri thức, vốn coi IC là động lực tạo ra giá trị bền vững và lợi thế cạnh tranh bền vững (Alvino và cộng sự, 2020; Khan và cộng sự, 2019; Marr và Roos, 2012). Trong trường hợp này, việc xây dựng chiến lược kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam cũng khơng phải là ngoại lệ, và do đó, các nhà quản lý, ra quyết định ở các ngân hàng trong nước không thể bỏ qua quan điểm IC trong cả việc xây dựng chiến lược kinh doanh và quản lý hoạt động kinh doanh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Về cụ thể, luận án được thực hiện nhằm trả lời các câu hỏi trực tiếp sau:

(i) Cơ sở lý thuyết nào ủng hộ mối quan hệ giữa hiệu quả IC và trung gian tài chính cũng như thu nhập ngồi lãi của các ngân hàng?

(ii) Liệu vốn trí tuệ có đóng vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng Việt Nam hay không?

(iii) Những thành phần vốn trí tuệ nào đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng Việt Nam?

(iv) Liệu vốn trí tuệ có giữ vai trò then chốt trong việc thúc đẩy hoạt động trung gian tài chính của các ngân hàng Việt Nam hay không?

(v) Thành phần vốn trí tuệ nào đóng vai trị chủ đạo trong việc thúc đẩy hoạt động trung gian tài chính của các ngân hàng Việt Nam?

<i>Về mục tiêu nghiên cứu của luận án, như đã đề cập ở trên, nghiên </i>

cứu sẽ nhấn mạnh vai trò của vốn trí tuệ trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là thu nhập ngoài lãi và hoạt động trung gian tài chính ở Việt Nam.

<i>Về phạm vi không gian của luận án, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu </i>

hoạt động kinh doanh của các ngân hàng trong nước ở Việt Nam.

<i>Về phạm vi thời gian của luận án, tác giả sẽ lựa chọn thời gian </i>

nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2020.

<b>1.4. Phương pháp luận án </b>

Cụ thể hơn, nghiên cứu sử dụng cơ sở dữ liệu của 26 ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2020. Ngoài ra, nhiều phương pháp hồi quy khác nhau sẽ được tiến hành bên cạnh việc kiểm soát các đặc điểm cụ thể của ngân hàng và các điều kiện vĩ mơ.

Để ước tính hiệu quả IC và các thành phần của nó, theo nhiều nghiên cứu hiện có (ví dụ: Adesina, 2019; Le và cộng sự, 2022; Nguyen và cộng sự, 2021; Ozkan và cộng sự, 2017; Poh và cộng sự, 2018 và các nghiên

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

cứu khác), nghiên cứu sử dụng mơ hình VAIC do Pulic đề xuất và phát triển (1998, 2000, 2004) .

<b>1.5. Những đóng góp chính của luận án </b>

Nghiên cứu này được kỳ vọng sẽ mang lại một số đóng góp chính như sau:

i) Về mặt lý thuyết, trước hết, theo tầm nhìn tốt nhất của tác giả, nghiên cứu này có thể được coi là nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên tìm hiểu về mối quan hệ giữa IC và hoạt động trung gian tài chính cũng như thu nhập ngồi lãi của ngân hàng, ít nhất là ở bối cảnh của Việt Nam và có lẽ cả các nước đang phát triển khác. Thật vậy, phần lớn các tài liệu liên quan đều nhấn mạnh mối liên hệ giữa IC và một số khía cạnh kinh doanh như năng suất, lợi nhuận, chấp nhận rủi ro hoặc hiệu quả kỹ thuật, phân bổ và chi phí (Adesina, 2019; Le và cộng sự, 2022; Le và Nguyen, 2020; Meles và cộng sự, 2016; và các nghiên cứu khác), nghiên cứu này tạo ra sự khác biệt so với các nghiên cứu hiện tại bằng cách đào sâu hơn về ảnh hưởng của IC trong việc tăng cường các hoạt động trung gian tài chính và thu nhập ngoài lãi trong lĩnh vực ngân hàng.

ii) Hơn nữa, hầu hết các nghiên cứu trong lĩnh vực này chủ yếu lấy bối cảnh của các nước công nghiệp phát triển để thực hiện, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc vốn được coi là những nền kinh tế có ảnh hưởng nhất trên toàn cầu (Alvino và cộng sự, 2020). Do đó, bằng cách tiến hành một cuộc điều tra tại Việt Nam, nơi được xem là một phần quan trọng của khu vực Đông Nam Á và toàn bộ khu vực châu Á, nghiên cứu sẽ mang lại cái nhìn sâu sắc hơn về động lực của IC trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh của các ngân hàng trong nước để không chỉ các nhà kinh tế mà còn cả những người ra quyết định ở các nền kinh tế đang phát triển tham khảo. iii) Ngoài ra, như nghiên cứu của Poh và cộng sự (2018) chỉ ra, các kết

quả khác nhau khi điều tra tác động của IC trong ngành ngân hàng có thể đến từ nhiều thước đo khác nhau về hiệu quả hoạt động ngân hàng và các giai đoạn. Bằng cách lựa chọn hoạt động trung gian tài chính và thu nhập ngồi lãi làm mục tiêu nghiên cứu chính trong khoảng thời gian từ 2006 đến 2020, tác giả sẽ tìm hiểu sâu hơn về tác động của IC đến các khía cạnh khác nhau của hoạt động kinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

doanh của ngân hàng, và do đó, tác giả bổ sung và làm sáng tỏ thêm đớii với những phát hiện trước đó như Le và cộng sự (2022); Le và Nguyen (2020); Nguyen và cộng sự. (2021); Poh và cộng sự. (2018) và những người khác.

iv) Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án còn đưa ra những bằng chứng hữu ích làm sáng tỏ một số lý thuyết quan trọng như lý thuyết vốn trí tuệ và lý thuyết dựa trên tri thức nhấn mạnh khía cạnh quan trọng của việc triển khai IC trong quản lý kinh doanh của doanh nghiệp hiện nay nhằm dẫn đầu thị trường trong bối cảnh sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nói cách khác, kết quả nghiên cứu sẽ góp phần mang lại sự hiểu biết sâu sắc về nhiều nghiên cứu lý thuyết khác nhau trong lĩnh vực IC như Dierickx & Cool (1989); Harris (2000); Khalique và cộng sự. (2013); Penrose & Penrose (2009) và những người khác.

v) Dưới một góc độ liên quan khác, luận án được thực hiện nhằm đáp lại lời kêu gọi của Alvino và cộng sự (2020); Suciu và Năsulea (2019); Vătămănescu và cộng sự (2019) khẳng định sự cấp thiết về việc tìm hiểu thêm tác động của IC đến các khía cạnh khác nhau trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp hiện đại. Bởi vì vai trị trung tâm của IC ngày càng được công nhận cả về mặt học thuật lẫn thực tiễn, việc kiểm tra thực nghiệm của nghiên cứu sẽ cung cấp bằng chứng thuyết phục ủng hộ khẳng định này.

vi) Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, vì việc triển khai IC có thể là chìa khóa mở ra những con đường mới cho các ngân hàng trong nước trong tương lai sắp tới, những phát hiện này sẽ mang lại ý nghĩa hữu ích cho các nhà quản lý, học giả và cơ quan quản lý ở Việt Nam và có lẽ ở các thị trường đang phát triển khác.

Chương 1. Giới thiệu nghiên cứu

Chương 2. Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu Chương 3. Phương pháp luận

Chương 4. Kết quả thực nghiệm và thảo luận Chương 5. Kết luận và hàm ý

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VĂN HỌC </b>

Nhìn chung, dựa trên những định nghĩa đã có trong tài liệu và khả năng hạn chế của tác giả, có thể kết luận rằng có những nỗ lực rất lớn trong việc xác định khái niệm IC, tuy nhiên có những khác biệt nhất định trong cách giải thích định nghĩa cũng như các thành phần của IC, tùy thuộc vào các ngành học khác nhau và các góc độ khác nhau, như tài chính kế tốn, kinh tế và chiến lược, tiếp thị và truyền thông, v.v. (Le và cộng sự, 2022; Le và Nguyen, 2020). Hơn nữa, việc đạt được sự đồng thuận hoàn toàn về cách giải thích của IC có xu hướng trở thành cuộc tranh luận khơng có hồi kết trong tài liệu hiện có (Bayraktaroglu và cộng sự, 2019; Nazir và cộng sự, 2021).

Tương tự, định nghĩa về các thành phần của IC và có lẽ tên của chúng vẫn có sự khác biệt nhất định, nhưng nhiều nghiên cứu hiện tại cho rằng IC bao gồm ba thành phần chính: vốn con người, vốn cấu trúc và vốn quan hệ (ví dụ: Andriessen và Tissen, 2000; Nielsen và cộng sự, 2006; G. Roos và Roos, 1997; Stewart và Ruckdeschel, 1998; Sveiby, 1997; và những người khác). Theo đó, vốn con người chủ yếu liên quan đến năng lực trí tuệ của các cá nhân trong tổ chức và nó có thể bị mất đi khi nhân viên rời bỏ công ty. Ngược lại với yếu tố này, vốn cơ cấu chủ yếu liên quan đến các chính sách, chiến lược, khía cạnh văn hóa do doanh nghiệp sở hữu. Trong khi đó, trái ngược với hai yếu tố đầu, vốn quan hệ hoàn toàn liên quan đến các yếu tố bên ngoài như nhiều bên liên quan.

Tóm lại, cùng với những thay đổi mạnh mẽ về điều kiện kinh doanh, việc xây dựng chiến lược của một tổ chức phải được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu thị trường và nhận thức của doanh nghiệp về vai trò then chốt của IC trong việc thúc đẩy tạo ra giá trị gia tăng ngày một tăng dần (Marr và Roos, 2012; Roos và cộng sự, 2001). Thật vậy, cách tiếp cận chiến lược kinh doanh đã phát triển từ mơ hình thơng thường sang mơ hình tài sản chiến lược, trong đó IC đã nổi lên như động cơ chính cho kết quả hoạt động, mục tiêu chiến lược và tạo ra giá trị gia tăng bền vững của hầu hết các công ty (Alvino và cộng sự, 2020). Vì vậy, các nhà lãnh đạo, quản

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

lý trong các ngân hàng không thể bỏ qua yếu tố then chốt này trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh của mình.

<b>2.3. Phương pháp đo lường hiệu quả vốn trí tuệ </b>

Theo Bayraktaroglu và cộng sự (2019) và Pew Tan và cộng sự (2008), các phương pháp đo lường IC hiện tại có thể được phân thành hai loại chính bao gồm tính tốn phi tài chính hoặc “định giá phi đơ la” và tính tốn tài chính hoặc “định giá bằng đơ la”. Cả hai cách tiếp cận này đều có cả ưu và nhược điểm một cách tự nhiên. Như tên của các loại này cho thấy, trong khi loại trước không ước tính khía cạnh kinh tế của IC thì loại sau đưa ra ước tính về giá trị kinh tế.

Trên thực tế, hơn 42 phương pháp đã được phát triển để ước tính tài sản vơ hình trong các tài liệu trước đó và con số này có thể sẽ cịn gia tăng (Nazir và cộng sự, 2021). Một số phương pháp tiêu biểu có thể bao gồm tỷ lệ Q của Tobin, chỉ số giá trị gia tăng kinh tế, chỉ số vốn trí tuệ, phương pháp giá trị tồn diện, mơ hình VAIC, mơ hình VAIC được điều chỉnh/sửa đổi/mở rộng và các phương pháp khác.

<b>2.4. Cơ sở lý luận về vốn trí tuệ </b>

Có một số lý thuyết tiềm năng có thể giải thích mối liên hệ giữa IC với trung gian tài chính và thu nhập ngoài lãi trong ngân hàng. Dựa trên giả định rằng kiến thức gắn liền với mỗi cá nhân được coi là một tài sản của tổ chức, lý thuyết vốn con người do Edvinsson và Malone (1997) và Stewert (1999) phát triển, gợi ý rằng bất kỳ công ty nào cũng nên khám phá nguồn lực vơ hình này để tạo ra và đạt được đòn bẩy cạnh tranh trên thị trường.

Mặt khác, lý thuyết hệ thống cho rằng mỗi cá nhân phải tương tác với các quy trình và hoạt động kinh doanh chung để đáp ứng các yêu cầu chung và nhất quán với mục tiêu của một tổ chức (Heylighen & Joslyn, 1992). Theo hướng này, IC sẽ trở thành một mơi trường thích hợp để đảm bảo các luồng thông tin liên tục trong tổ chức và tiếp xúc với khách hàng (Harris, 2000). Dựa vào cơ chế chia sẻ kiến thức này, các nhà quản lý có thể nâng cao, thậm chí điều chỉnh định hướng, điều hướng các kế hoạch kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu nhu cầu của khách hàng (Harris, 2000) .

Nói cách khác, mỗi kiến thức của mỗi thành viên trong công ty sẽ đóng vai trị là trung tâm kiến thức vì các cá nhân trở thành một phần then chốt trong vai trò chiến lược trong việc tạo ra giá trị gia tăng (Senge, 1991). Rõ ràng hơn, Harris mô tả rằng cách tiếp cận hệ thống coi vốn nhân

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

lực và hệ thống là hai thực thể được kết nối và tích hợp làm nền tảng cho việc nâng cao hiệu suất của một cơng ty. Tóm lại, việc triển khai IC có thể hỗ trợ các ngân hàng đạt được khả năng cạnh tranh cao hơn.

Dựa trên nhiều nghiên cứu trong các tài liệu hiện có đã được đề cập và phân tích cũng như với khả năng hạn chế của người viết, một số điểm chính có thể được tóm tắt như sau.

i) Trước hết, một thực tế không thể phủ nhận là vai trị của vốn trí tuệ nói riêng và nguồn lực trí tuệ nói chung đã trở thành chủ đề được các nhà lý luận, học giả, nhà nghiên cứu và thực hành trên toàn cầu quan tâm nhất trong những thập kỷ gần đây. Trong bối cảnh này, một lượng lớn các nghiên cứu đã đào sâu vào các quan điểm lý thuyết, khái niệm và thực nghiệm.

ii) Thứ hai, mặc dù nhiều bài báo đã tìm thấy và cơng nhận vai trị không thể thiếu của IC trong hoạt động và chiến lược kinh doanh trên thị trường ngày nay dưới cả góc độ lý thuyết và thực nghiệm, nhưng nhiều nghiên cứu hiện tại có xu hướng khơng ủng hộ quan điểm này. Đồng thời, tác động của các thành phần của IC đến hiệu quả hoạt động ngân hàng là tương đối hỗn hợp. Nguyên nhân một phần có thể xuất phát từ những khác biệt nhất định về đặc điểm riêng của hệ thống ngân hàng và của quốc gia cũng như khoảng thời gian được chọn để tiến hành kiểm tra thực nghiệm (Adesina, 2019; Poh và cộng sự, 2018).

iii) Thứ ba, như một số tài liệu tổng quan nghiên cứu đã chỉ ra (ví dụ, Alvino và cộng sự, 2020), các nghiên cứu thực nghiệm trong tài liệu hiện có dường như được tiến hành ở các nền kinh tế lớn so với các nền kinh tế khác. Ngồi ra, người ta cịn chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ số lượng nghiên cứu trong ngành ngân hàng những năm gần đây, có ý kiến cho rằng con số này dường như tương đối khan hiếm so với những ngành khác (Le và Nguyen, 2020).

iv) Thứ tư, từ góc độ lý thuyết và khái niệm, có rất nhiều nỗ lực khoa học nhằm đưa ra những giải thích chi tiết về cách thức qua đó IC có thể thúc đẩy hoạt động kinh doanh cũng như các thành phần cấu thành nên IC. Bên cạnh đó, một số lượng lớn các biện pháp đã được đề xuất và phát triển để cung cấp thước đo hiệu quả về hiệu quả IC

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

trong các công ty và ngân hàng. Theo nghĩa này, bất chấp những nhược điểm nhất định, mơ hình VAIC do Pulic (1998, 2000) đề xuất và phát triển dường như vẫn là một phương pháp được nhiều nghiên cứu áp dụng để xác định vai trò của hiệu quả của IC trong lĩnh vực ngân hàng.

v) Thứ năm, có thể dễ dàng nhận thấy rằng các ước tính hiện tại có xu hướng tập trung nhiều vào khía cạnh hiệu quả hoạt động tài chính của ngành ngân hàng, trong đó một số chỉ số tài chính được sử dụng thường xuyên bao gồm ROA, ROE, ROAA, Tobin's Q, EPS, v.v. . Mặt khác, các góc độ khác trong hoạt động kinh doanh ngân hàng cũng được đánh giá như mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng và hiệu quả kỹ thuật, phân bổ, chi phí. Vì vậy, có thể nói, hoạt động trung gian tài chính và thu nhập ngoài lãi của ngân hàng dường như vẫn còn ở trạng thái chưa được nghiên cứu.

Giả thuyết 1: IC (được đo bằng mơ hình VAIC) được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hoạt động trung gian tài chính của các ngân hàng Việt Nam.

Giả thuyết 2: IC (được đo bằng mơ hình VAIC) được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng Việt Nam.

Giả thuyết 3: HCE (một trong những thành phần của VAIC) được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hoạt động trung gian tài chính của các ngân hàng Việt Nam.

Giả thuyết 4: HCE (một trong những thành phần của VAIC) được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng Việt Nam.

Giả thuyết 5: SCE (một trong những thành phần của VAIC) được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hoạt động trung gian tài chính của các ngân hàng Việt Nam.

Giả thuyết 6: SCE (một trong những thành phần của VAIC) được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng Việt Nam.

Giả thuyết 7: CEE (một trong những thành phần của VAIC) được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao hoạt động trung gian tài chính của các ngân hàng Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Giả thuyết 8: CEE (một trong những thành phần của VAIC) được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao thu nhập ngoài lãi của các ngân hàng Việt Nam.

<b>CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU </b>

<b>3.1. Phương pháp đo lường VAIC 3.1.1. Tính tốn mơ hình VAIC </b>

Để tính tốn mơ hình VAIC, bước đầu cần thực hiện là tính tốn giá trị gia tăng (VA). Ở một mức độ nào đó, VA được coi là tín hiệu khách quan quan trọng nhất, phản ánh sự thành công của các công ty trong hoạt động kinh doanh và phản ánh năng lực trong việc tạo ra giá trị gia tăng (Pulic, 2004; Ulum et al., 2014). Nói một cách đơn giản, phép tính VA được cô đọng thành sự chênh lệch giữa các yếu tố đầu ra và yếu tố đầu vào. Theo Pulic (2000), đầu ra bao gồm tất cả thu nhập đến từ tất cả các sản phẩm và dịch vụ của một công ty được bán trên thị trường, trong khi đầu vào bao gồm tất cả các chi phí phát sinh trong hoạt động kinh doanh của một cơng ty ngoại trừ chi phí nhân sự. .

Nói tóm lại, việc tính tốn VA được mơ tả trong các phương trình sau.

Trong đó, 𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂<small>𝑖𝑖𝑖𝑖</small><sup>t</sup><i>ổng thu nhập của ngân hàng 'i' liên quan đến </i>

việc bán tất cả sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong khoảng thời gian

<i>'t' </i>. Trong khi đó 𝐼𝐼𝐼𝐼𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂𝑂<small>𝑖𝑖𝑖𝑖</small><sup>là t</sup>ất cả các chi phí liên quan đến hoạt động kinh doanh c<i>ủa ngân hàng “i” tại thời điểm “t” , ngoại trừ chi phí nhân cơng. </i>

Một cách rõ ràng, Pulic (2004) trình bày chi tiết phương trình nói trên như sau.

Theo đó, 𝑂𝑂𝑂𝑂<sub>𝑖𝑖𝑖𝑖</sub>th<i>ể hiện lợi nhuận hoạt động của ngân hàng 'i' trong </i>

kho<i>ảng thời gian 't' . 𝑂𝑂𝑃𝑃</i><sub>𝑖𝑖𝑖𝑖</sub>đề cập đến chi phí nhân sự (bao gồm tiền lương và các kho<i>ản tương tự khác) của ngân hàng 'i' trong khoảng thời gian 't' , </i>

và 𝑉𝑉<sub>𝑖𝑖𝑖𝑖</sub>là kh<i>ấu hao và khấu hao của ngân hàng 'i' trong khoảng thời gian 't' . </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Ở giai đoạn tiếp theo, Pulic gợi ý rằng VA có mối quan hệ chặt chẽ với vốn sử dụng của một tổ chức. Giả định cơ bản của Pulic là khi một công ty sử dụng 1 đơn vị vốn để tạo ra lợi nhuận cao hơn các đối tác, điều đó có nghĩa là cơng ty này có xu hướng khai thác vốn sử dụng hiệu quả hơn. Trong trường hợp này, có thể nói rằng việc sử dụng vốn tốt hơn sẽ trở thành một phần quan trọng trong vốn trí tuệ của một công ty.

Các nghiên cứu hiện tại thường gắn nhãn mối liên hệ này với hiệu quả sử dụng vốn (CEE), được coi là chỉ số phản ánh khả năng của một công ty trong việc tạo ra giá trị gia tăng bằng cách khai thác 1 đơn vị vốn vật chất của công ty (Bayraktaroglu và cộng sự, 2019; Pew Tan và cộng sự, 2008; Pulic, 1998; Ulum và cộng sự, 2014). Nói tóm lại, CEE chỉ ra cách thức mà một cơng ty có thể tạo ra giá trị gia tăng một cách hiệu quả bằng cách dựa vào vốn tài chính của mình. Việc tính tốn CEE thường được định nghĩa là tỷ lệ VA trên vốn sử dụng. Theo đó, vốn sử dụng của một tổ chức là giá trị sổ sách của tài sản rịng hay nói cách khác là giá trị vốn chủ sở hữu.

Phương trình sau đây cho thấy cách tính CEE.

Trong đó, 𝑃𝑃𝐶𝐶<small>𝑖𝑖𝑖𝑖</small><sup>là giá tr</sup><i>ị sổ sách vốn chủ sở hữu của ngân hàng “i” </i>

trong kho<i>ảng thời gian “t” , 𝑉𝑉𝑉𝑉</i><small>𝑖𝑖𝑖𝑖</small><sup>th</sup>ể hiện giá trị gia tăng của ngân hàng

<i>“i” tại thời điểm “t” và 𝑃𝑃𝐶𝐶𝐶𝐶</i><sub>𝑖𝑖𝑖𝑖</sub>là hi<i>ệu quả sử dụng vốn của ngân hàng “i” </i>

t<i>ại thời điểm “ t' . </i>

Ở một góc độ liên quan, cũng có mối liên hệ giữa VA và vốn nhân lực của một công ty. Theo nghĩa này, hiệu quả sử dụng vốn con người (HCE) sẽ phản ánh mức độ VA có thể được tạo ra từ 1 đơn vị tiền chi cho chi phí nhân viên (Pew Tan và cộng sự, 2008). Pulic (2000) gợi ý rằng HCE phản ánh việc trả lương cho nhân viên dựa trên khả năng, sự sáng tạo và động lực của họ.

Theo đó, việc tính tốn HCE được mơ tả trong phương trình sau.

Trong đó, 𝑉𝑉𝑉𝑉<sub>𝑖𝑖𝑖𝑖</sub>th<i>ể hiện giá trị gia tăng của ngân hàng “i” tại thời điểm “t”, và 𝐻𝐻𝑃𝑃</i><sub>𝑖𝑖𝑖𝑖</sub>th<i>ể hiện chi phí nhân sự của ngân hàng “i” tại thời điểm </i>

<i>“t” </i>. Trong khi đó, 𝐻𝐻𝑃𝑃𝐶𝐶<sub>𝑖𝑖𝑖𝑖</sub>phản ánh năng lực nguồn nhân lực của ngân hàng

<i>“i” trong thời kỳ “t”. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Mối liên hệ thứ ba và cuối cùng là mối quan hệ giữa hiệu quả vốn cơ cấu (SCE) và VA. Trong trường hợp này, chỉ báo SCE sẽ cho thấy vốn cơ cấu đóng góp như thế nào vào việc tạo ra giá trị gia tăng của một tổ chức. Nói cách khác, SCE sẽ giúp tính tốn lượng vốn cơ cấu cần thiết để tạo ra 1 đơn vị trong quá trình tạo ra giá trị gia tăng và phản ánh cách thức mà vốn cơ cấu thành công trong việc tạo ra giá trị của một tổ chức (Pew Tan và cộng sự, 2008; Ulum và cộng sự, 2014).

Pulic (2000) khẳng định rằng vốn cơ cấu khá khác với vốn con người được xem là thước đo độc lập và sự tham gia của vốn cơ cấu vào việc tạo ra giá trị dường như phụ thuộc vào nhau. Hơn nữa, Pulic cho rằng sự tham gia của cả vốn con người và vốn cơ cấu vào việc tạo ra giá trị có xu hướng đảo ngược, nghĩa là sự tham gia của vốn con người vào quá trình tạo ra giá trị càng nhiều thì sự tham gia của vốn cơ cấu vào khía cạnh này càng ít.

Từ quan điểm này, việc tính tốn vốn cơ cấu được định nghĩa là chênh lệch giữa VA và vốn nhân lực hoặc VA trừ vốn nhân lực. Đồng thời, Pulic ngụ ý rằng vốn con người và vốn cơ cấu được coi là “tỷ lệ nghịch đảo”, do đó SCE được mô tả là “tỷ lệ vốn cơ cấu trong giá trị được tạo ra”.

Phương trình 3.6 dưới đây minh họa cách tính SCE.

<b>3.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của mơ hình VAIC </b>

Nói tóm lại, những ưu điểm của phương pháp VAIC có thể được tóm tắt ở một số góc độ trọng tâm như sau. Đầu tiên, nó có thể được coi là một phép tính khá đơn giản. Thứ hai, việc xây dựng VAIC và các khía cạnh của nó được lấy từ dữ liệu tài chính hoặc dữ liệu định lượng được cơng bố bởi các cơng ty, do đó phương pháp này có thể khắc phục các vấn đề liên quan đến sự thiếu hụt thông tin cần thiết cũng như tính chất chủ quan và định tính của các biện pháp khác. Thứ ba, dựa trên phương pháp VAIC, các nhà nghiên cứu bên ngoài có thể so sánh với các chỉ số tài chính truyền thống

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

khác. Cuối cùng, phương pháp này được coi là một cơng cụ được tiêu chuẩn hóa và đo lường nhất quán so với các phương pháp khác.

Tuy nhiên, cũng như các thước đo khác, cần phải thừa nhận rằng mơ hình VAIC đương nhiên cũng có những nhược điểm nhất định bên cạnh những ưu điểm nêu trên. Hạn chế đầu tiên là phương pháp VAIC không nắm bắt được tất cả các khía cạnh về hiệu quả của IC trong một tổ chức (Adesina, 2019). Theo Ståhle và cộng sự. (2011), cách tiếp cận của Pulic dường như có xu hướng tập trung chủ yếu vào các khía cạnh về vốn nhân viên và hiệu quả sử dụng vốn tài chính của một cơng ty. Vì vậy, theo quan điểm của các tác giả này, mơ hình này không liên quan đến hiệu quả của IC. Ståhle và cộng sự (2011) cũng chỉ trích rằng việc hình thành cả vốn con người và vốn cơ cấu là khá “chồng chất và phụ thuộc”, hầu như xuất phát từ định nghĩa của chúng. Ngoài ra, quan điểm của Meles et al. (2016) cũng cho rằng việc tính tốn vốn cấu trúc hầu như sai lầm khi sử dụng “dịng tiền và các thực thể được vốn hóa”. Việc xem xét này hoàn toàn phù hợp với lập luận trước đây của Andriessen (2004), người chỉ trích rằng có một số nhầm lẫn về các khái niệm kế toán, đặc biệt là trong quan điểm về vốn con người và vốn quan hệ/xã hội.

Bất kể những chỉ trích về mặt lý thuyết và khái niệm ở trên, phương pháp VAIC vẫn nổi bật trong các tài liệu hiện có.

Để định lượng vai trị của hiệu quả IC trong cả hoạt động trung gian tài chính và thu nhập ngồi lãi của ngân hàng, nghiên cứu hiện tại sử dụng dữ liệu thứ cấp được thu thập từ hai nguồn chính và đáng tin cậy. Nguồn thứ nhất là thông tin tài chính được thu thập trực tiếp từ báo cáo tài chính được kiểm tốn bởi các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2006-2020. Nguồn thứ hai là dữ liệu vĩ mô được thu thập trực tiếp từ cơ sở dữ liệu do Ngân hàng Thế giới công bố trong cùng thời kỳ.

Cuối cùng, mẫu nghiên cứu trong nghiên cứu hiện tại đã thu thập được tổng cộng 26 ngân hàng thương mại Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2006 đến 2020, cho thấy có khoảng 380 quan sát ngân hàng hàng năm đã đạt được. Ở một mức độ nào đó, có thể nói rằng mẫu nghiên cứu có thể được coi là khá chấp nhận được và mang tính đại diện, đặc biệt khi so

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

sánh nó với các nghiên cứu khác ở các quốc gia khác nhau trong lĩnh vực này.

<b>3.2.2. Biến được sử dụng </b>

<i>Các biến giải thích chính </i>

Trong nghiên cứu này, VAIC và các thành phần chính của nó bao gồm CEE, HCE và SCE sẽ được coi là các biến giải thích được quan tâm trong tất cả các mơ hình hồi quy được thực hiện.

<i>Biến phụ thuộc </i>

Để giải quyết những mối quan tâm chính, nghiên cứu sử dụng hai biến đại diện chính làm biến phụ thuộc trong phân tích hồi quy. Về cơ bản, một trong những chức năng chính của ngân hàng là phân bổ nguồn lực tài chính, chuyển tiền gửi từ người gửi tiền sang người đi vay (Allen và Santomero, 1997). Nói cách khác, các ngân hàng được biết đến như những trung gian thiết yếu trong hệ thống tài chính, đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển tiền tiết kiệm của cá nhân và doanh nghiệp thành các khoản đầu tư thực sự. Để hiểu sâu hơn về vai trò của các trung gian này, dựa trên các mơ hình phân bổ nguồn lực, lý thuyết trung gian đã được phát triển. Lý thuyết này cho rằng có hai vấn đề quan trọng bao gồm chi phí giao dịch liên quan và thông tin bất cân xứng giải thích chức năng của ngân hàng. Theo đó, các ngân hàng có lợi thế cao hơn so với cá nhân trong việc giảm chi phí cố định và đa dạng hóa chi phí giao dịch (Shaw, 1960), trong khi các trung gian này có thể giải quyết tình trạng bất cân xứng thơng tin bằng cách đóng vai trị là “người giám sát được ủy quyền” và có năng lực đặc biệt khi quyết định các khoản đầu tư mới (Diamond, 1984). Do đó, trước tiên, xét về khía cạnh trung gian tài chính, tỷ lệ tổng dư nợ cho vay trên tổng tiền gửi (FI) đang được sử dụng làm biến phụ thuộc trong mơ hình phân tích. Mặc dù có một số tranh luận nhất định về việc đo lường trung gian tài chính, chỉ số này vẫn phổ biến và khá đơn giản trong tài liệu về ngân hàng và vẫn là một trong những thước đo phù hợp nhất cho nền kinh tế do ngân hàng dẫn dắt (Boďa và Zimková, 2021). Hơn nữa, có một số đánh giá cho thấy rằng ngun tắc của các chính sách an tồn vĩ mơ nên

<i>được xây dựng xung quanh “ chỉ số mô tả ” này (Satria và cộng sự, 2016; </i>

Van den End, 2016) .<small>1</small>

<small>1Trong các kết quả chưa được báo cáo, nghiên cứu cũng thực hiện phân tích hồi quy để đánh giá mối liên quan giữa hiệu quả IC và hai góc độ trung gian tài chính bao gồm tiền gửi và cho vay. Theo đó, kết quả một lần nữa khẳng định vai trò then chốt của IC trong việc thúc đẩy cả hai hoạt động trung gian này. </small>

</div>

×