Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.97 MB, 26 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH</b>
<b>6. Nguyễn Ngọc Quỳnh Nga 22109110</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>BẢNG PHÂN CHIA CÔNG VIỆC</b>
<b>Ghi chú:</b>
Tỷ lệ %= 100% Trưởng nhóm:
(Email: )
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>MỞ ĐẦU TIỂU LUẬN1. Lý Do Chọn Đề Tài:</b>
Chọn đề tài nghiên cứu về văn hóa của người Tày ở Tỉnh Thái Nguyên là một quyết định chặt chẽ và có ý nghĩa sâu sắc. Điều này xuất phát từ sự nhận thức về giá trị độc đáo của văn hóa người Tày, một dân tộc giàu truyền thống và đang tồn tại trong một môi trường đa văn hóa đầy thách thức. Lý do quan trọng nhất là mong muốn hiểu rõ hơn về cách cộng đồng người Tày tại Thái Nguyên duy trì, thay đổi, và tương tác với văn hóa xung quanh.
Việc tìm hiểu về văn hóa của người Tày khơng chỉ mang lại kiến thức vững về truyền thống và lịch sử, mà cịn là chìa khóa để mở rộng tầm nhìn về đa dạng văn hóa tại Việt Nam. Những nghiên cứu này có thể làm sáng tỏ những giá trị cốt lõi, tín ngưỡng, và thực hành hàng ngày của cộng đồng này, từ đó đóng góp vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc trong bối cảnh thế giới ngày nay đang liên tục biến đổi.
Qua việc nghiên cứu về văn hóa người Tày, chúng ta có cơ hội đặt mình vào bối cảnh xã hội đa văn hóa và tìm hiểu về sự tương tác giữa các nền văn hóa khác nhau. Điều này khơng chỉ mang lại những hiểu biết sâu rộng mà còn đưa ra cơ hội xây dựng cầu nối văn hóa, thúc đẩy sự hiểu biết và tôn trọng giữa các cộng đồng. Vì vậy, việc chọn đề tài này khơng chỉ là một hành động nghiên cứu mà còn là sự cam kết đóng góp vào sự hiểu biết tồn cầu về văn hóa và nhân loại.
<b>2. Mục Tiêu Nghiên Cứu:</b>
Nắm bắt sự phong phú, độc đáo của văn hóa người Tày ở Thái Nguyên.
Hiểu rõ những giá trị văn hóa truyền thống và sự phát triển của nó trong bối cảnh đương đại.
Phân tích tác động của mơi trường và các yếu tố khác đối với văn hóa người Tày.
<b>3. Đối Tượng Nghiên Cứu:</b>
Cộng đồng người Tày tại Thái Nguyên. Những người giữ truyền thống văn hóa.
Những người ảnh hưởng đến sự phát triển và duy trì văn hóa Tày.
<b>4. Phạm Vi Nghiên Cứu:</b>
Nghiên cứu sẽ tập trung vào các diễn đàn văn hóa, lễ hội, truyền thống gia đình, và nghệ thuật truyền thống của người Tày.
Xác định các đặc điểm độc đáo về ngôn ngữ, phục trang, và lối sống.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">So sánh sự giữ gìn và biến đổi của văn hóa truyền thống trong thời kỳ đương đại.
<b>5. Phương Pháp Nghiên Cứu:</b>
Phương pháp quan sát: Theo dõi các sự kiện văn hóa, lễ hội, và các hoạt động hàng ngày của cộng đồng.
Phương pháp phân tích nội dung: Nghiên cứu tài liệu, truyền thuyết, và các hình thức văn bản khác để hiểu sâu về văn hóa người Tày.
<b>6. Kết cấu tiểu luận </b>
<b>Chương 1: Tìm Hiểu Chung về Người Tày ở Tỉnh Thái Nguyên</b>
Chương này tập trung vào việc cung cấp cái nhìn tổng quan về cộng đồng người Tày tại Thái Nguyên. Nghiên cứu đưa ra thông tin về lịch sử, địa lý, và các khía cạnh quan trọng của cuộc sống hàng ngày của người Tày. Chương cũng đặt ra các câu hỏi hướng dẫn để hỗ trợ việc tìm hiểu chi tiết hơn về nền văn hóa của họ.
<b>Chương 2: Văn Hóa Vật Chất và Văn Hóa Tinh Thần của Người Tày ở Thái Nguyên</b>
Chương này đi sâu vào phân tích về hai khía cạnh quan trọng của văn hóa người Tày: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Nghiên cứu đặt ra những điểm nổi bật về văn hóa vật chất như phục trang, nghệ thuật truyền thống, và đồ trang sức,... Đồng thời, chương cũng đề cập đến những giá trị, tín ngưỡng, và thực hành tinh thần của người Tày, giúp hiểu rõ hơn về ý thức và tâm huyết của cộng đồng này trong bối cảnh đương đại.
<b>Phần Kết Luận:</b>
Cuối cùng, phần kết luận tóm tắt những điểm quan trọng từ hai chương trước, nhấn mạnh vào những hiểu biết mới về văn hóa của người Tày ở Thái Nguyên. Kết luận cũng có thể đề cập đến những thách thức và triển vọng trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa này trong bối cảnh hiện đại, mở ra hướng cho các nghiên cứu và hoạch định tương lai.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>CHƯƠNG 1: TÌM HIỂU CHUNG VỀ NGƯỜI TÀY Ở TỈNH THÁI NGUYÊN1. Tìm hiểu chung về tỉnh thái nguyên</b>
<b>1.1 Lịch sử hình thành1.1.1 Thời tiền sử</b>
Thái Nguyên là nơi sinh sống của người Việt cổ từ xa xưa. Tại khu vực Hang Óc, xã Bình Long, người ta đã tìm thấy dấu vết của người tiền sử cách đây ít nhất 7.000 -8.000 năm, vỏ ốc bị chặt đuôi và xương động vật là tàn tích thức ăn của người cổ đại. Từ những năm 1980, cũng tại khu vực Võ Nhai, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích của người Việt cổ tại khu vực Mai Đá Ngườm, xã Thần Sa. Hang Phiêng Tung của Thần Sa, Hang Hà Sơn I, Mái vòm Hà Sơn II, Hang Tham Choong, Hang Na Ngun, Hang Đà Ranh cùng hàng chục nghìn hiện vật khác với các cơng cụ chạm khắc bằng đá cuội như: thanh, rìu, Mảnh tước, rìu tay, cơng cụ chặt hình núm cuội, cơng cụ chặt rìa, cơng cụ chặt 2 lưỡi, cơng cụ hình sừng bị... đặc biệt.
Các nhà khảo cổ vừa phát hiện ba bộ xương người cổ ở làng Mai Đá Ngườm. Mái đá Ngườm là địa điểm quan trọng nhất của di chỉ Thần Sa và có 4 lớp văn hóa khảo cổ, trong đó lớp thứ 4 tượng trưng cho thời kỳ đồ đá Trung Cổ.
<b>2.1.1 Thời kỳ các triều đại phong kiến</b>
Dưới triều Đinh, Tiền Lê vào TKX, đất nước được chia làm 10 đạo. Khi Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010, 10 đạo được đổi thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh như Thái Nguyên nằm trong các châu biên viễn.
Thời thuộc Minh (1407-1427), trấn Thái Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên, lệ thuộc vào ty Bố Chính. Năm 1426, phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa Chính ty, gồm 3 phủ nhỏ là: Thái Ngun, Phú Bình, Thơng Hóa.
Thời Lê Sơ, vào năm 1428 Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm 1466, Lê Thánh Tông chia lại 5 đạo thành 12 đạo Thừa Tuyên, Thái Nguyên là Thái Nguyên Thừa Tuyên. Năm 1467, Nhà Lê tiến hành điều tra địa hình, địa giới, hồn thành lập bản đồ quốc gia Đại Việt vào năm 1469. Cùng thời gian này, Thái Nguyên Thừa Tuyên được đổi thành Ninh Sóc Thừa Tuyên, gồm 3 phủ: Phú Bình, Thơng Hóa, Cao Bằng. Đến năm 1483, Ninh Sóc Thừa Tuyên đổi thành xứ Thái Nguyên. 1533 lại đổi xứ thành trấn Thái Nguyên. Năm 1677, phủ Cao Bằng tách khỏi trấn Thái Nguyên thành trấn Cao Bằng. Thủ phủ trấn Thái Nguyên lúc này đặt tại xã Bình Kỳ, huyện Thiên Phúc (Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay). Dưới thời Gia Long Nguyễn Ánh, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành. Năm 1813, sau khi huyện Thiên Phúc tách khỏi trấn Thái Nguyên nhập về Bắc Ninh. Thủ phủ chuyển về thành Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ (nay thuộc phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên). Năm 1831-1832, Minh Mạng chia cả nước làm 30 tỉnh và 1 phủ Thừa
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Thiên. Trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Đến năm 1836, tỉnh Thái Nguyên có 3 phủ, 9 huyện và 2 châu.
<b>2.1.2 Từ những năm 1890 đến 1965</b>
Thời Pháp thuộc, bắt đầu từ năm 1890, chính quyền thực dân đã tách huyện Bình Xuyên ra khỏi tỉnh Thái Nguyên, thành lập tỉnh Vĩnh An, thực thi quyền lực quân sự, chia Thái Nguyên thành các tiểu khu quân sự cho sĩ quan quân đội. Vì vậy, từ tháng 10 năm 1890 đến tháng 9 năm 1892, tỉnh Thái Nguyên bị giải thể và phân tán ra các vùng khác nhau dưới sự quản lý của chính quyền quân sự Pháp.
Theo sắc lệnh do Tồn quyền Đơng Dương ký từ ngày 10 đến ngày 15 tháng 10 năm 1892, các vùng phân tán (trừ vùng Bình Thuận) được trả về tỉnh Thái Nguyên và đặt dưới sự quản lý lãnh sự. Ngày 12 tháng 6 năm 1894, Tồn quyền Đơng Dương ban hành nghị định sáp nhập hai tỉnh Cẩm Hoa và Cao Lạc vào Qn đồn Cao Bình của Quân khu Quảng Bình thứ hai, đồng thời thành lập qn Thái Kinh. Sư đồn qn sự gồm có 13 chỉ huy. Trong số đó, qn đồn Thái Ngun có tổng cộng 5 phân đội. Ngày 11/4/1900, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định thành lập tỉnh Bắc Chấn trên cơ sở tồn bộ huyện Thơng Hà của Thái Ngun.
Ngày 1 tháng 7 năm 1956, Thái Nguyên là một trong sáu tỉnh của Khu tự trị Bắc Việt mới thành lập [18], thị trấn Thái Nguyên là thủ phủ của Khu tự trị Bắc Việt. Lúc này, huyện Phổ Yên được sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Phúc, huyện Phú Bình sáp nhập vào tỉnh Bắc Giang, nhưng một năm sau, hai huyện này được chuyển về tỉnh Thái Nguyên và thuộc Khu tự trị Bắc Việt. Khu tự trị Bắc Việt tồn tại cho đến khi giải thể vào cuối năm 1975. Ngày 19/10/1962, Ủy ban Chính phủ ban hành Quyết định số 114-CP về việc thành lập thành phố Thái Nguyên.
Ngày 21/4/1965, Ủy ban Thường vụ Quốc hội của chính phủ lâm thời ra Quyết định số 103-NQ-TVQH sáp nhập hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái.
<b>2.1.3 Từ năm 1997 tới nay</b>
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Sau khi tái lập, tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị hành chính gồm thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và 7 huyện: Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Phổ n, Phú Bình, Phú Lương, Võ Nhai.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, thành lập thành phố Sơng Cơng trên cơ sở tồn bộ diện tích và dân số của thị xã Sông Công, thành lập thị xã Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Phổ Yên.[22]
Ngày 10 tháng 4 năm 2022, thành lập thành phố Phổ Yên trên cơ sở tồn bộ diện tích và dân số của thị xã Phổ Yên.Tỉnh Thái Nguyên có 3 thành phố và 6 huyện như hiện nay.
<b>1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên1.2.1 Vị trí địa lý</b>
rung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Thái Nguyên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 75 km, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 200 km, cách biên giới Việt Nam - Trung Quốc khoảng 200 km, có vị trí địa lý:
Phía đơng giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Phía tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Tuyên Quang Phía nam giáp thủ đơ Hà Nội
Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn
Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế và giáo dục của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi phía bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sơng hình rẻ quạt mà thành phố Thái Ngun là đầu nút.
Với vị trí vơ cùng thuận lợi về giao thông, cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 km, cách biên giới Trung Quốc 200 km, cách trung tâm Hà Nội 75 km và cách cảng Hải Phòng 200 km. Thái Nguyên còn là đầu mối giao thông quan trọng với hệ thống đường bộ, đường sắt, sơng ngịi hình quạt nối liền các tỉnh, thành phố; Quốc lộ 3 nối Hà Nội với Bắc Kạn; Cao Bằng và cửa khẩu Việt Nam – Trung Quốc; Quốc lộ 1B đi Lạng Sơn; Quốc lộ 37 Bắc Ninh, Bắc Giang, Tuyên Quang; đường Hồ Chí Minh; thiết bị 5; hệ thống sông Đa Phúc – Hải Phòng; Đường sắt Thái Nguyên - Hà Nội - Kép, Lạng Sơn.
<b>1.2.2 Điều kiện tự nhiêna. Địa hình đất đai</b>
Địa hình tỉnh Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi thấp, thấp dần từ bắc xuống nam. Diện tích đồi núi trên 100 m so với mực nước biển chiếm 2/3 tổng diện tích tồn tỉnh, cịn lại có độ cao dưới 100 m so với mực nước biển.
Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên ở Thái Nguyên, độ cao trên 200 m, hình thành do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất và trầm tích xưa. Đất đồi chiếm 31,4% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên sa thạch, bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo.Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác động lớn của địa hình và khí hậu khắc nghiệt.
Dãy núi Thái Ngun khơng cao lắm, tồn bộ phần phía nam là của dãy núi Ngân Sơn và Bắc Sơn. Địa hình cao nhất là dãy núi Tam Đảo, đỉnh cao nhất 1.590 m; Sườn phía Đơng của dãy núi Tam Đảo phía Tây Nam tỉnh Thái Nguyên (bao gồm các thị trấn phía Tây huyện Đại Từ) có độ cao khoảng 1.000 m, sau đó giảm nhanh về phía thung lũng sơng Cơng và vùng hồ Núi Cốc.
Ở phía Đơng của tỉnh, vùng đất chỉ cao từ 500 đến 600 m, gồm chủ yếu là các khối đá vơi có cùng độ cao mặt đất.
Phía nam tỉnh, địa hình thấp hơn nhiều, có một số núi thấp nhô lên khỏi các vùng đồi thấp. Vùng trung du ở phía nam và vùng đồng bằng phù sa các con sông đều cao dưới 100m. Địa hình khơng phức tạp so với các tỉnh trung du và miền núi khác, đây là một lợi thế của Thái Nguyên.
<b>b. Khí hậu và thời tiết</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Khí hậu chia làm 4 mùa rõ rệt: Xuân – Hạ – Thu – Đơng; Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000 - 2.500 mm; Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ. Nhìn chung, khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho phát triển nơng, lâm nghiệp.
Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng do tác động từ địa hình nên khí hậu Thái Ngun về mùa đơng được chia thành 3 vùng rõ rệt:
Vùng lạnh nhất nằm ở phía bắc quận Võ Nhai.
Vùng lạnh vừa phải gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và Nam Võ Nhai. Vùng nóng gồm: Thái Nguyên, Sông Công, thị trấn Phổ Yên và các huyện Đồng Hỷ, Phú Bình, Đại Từ.
<b>c. Tài nguyên thiên nhiên</b>
Tài nguyên khống sản rất phong phú, có lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các ngành luyện kim, khai khống... Tỉnh Thái Ngun có trữ lượng than lớn thứ hai cả nước; Kim loại màu bao gồm thiếc, chì, kẽm, vonfram, vàng, đồng, niken, thủy ngân... Khoáng sản và vật liệu xây dựng cũng là nguồn nguyên liệu có tiềm năng rất lớn để sản xuất xi măng, các loại đá ốp lát và vật liệu xây dựng. Tỉnh Thái Nguyên khuyến khích các dự án đầu tư chế biến sâu khoáng sản. Về than, có 4 mỏ có trữ lượng hơn 100 triệu tấn. Quặng sắt có 47 mỏ và điểm khai thác với trữ lượng gần 100 triệu tấn. Titan có 18 mỏ với trữ lượng thăm dò khoảng 18 triệu tấn; Có 3 mỏ thiếc có trữ lượng trên 13 triệu tấn; Vonfram có trữ lượng hơn 110 triệu tấn... Về VLXD có 2 mỏ đất sét trữ lượng hơn 80 triệu tấn; đá vôi xây dựng trữ lượng 100 tỷ m3; mỏ đất sét cao lanh trữ lượng hơn 20 triệu m3…
<b>1.3 Các thành phần dân tộc trong huyện1.3.1 Mật độ dân số</b>
Theo điều tra dân số ngày 01/4/2019, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.286.751 người, trong đó có 629.197 nam và 657.554 nữ. Tổng dân số thành thị là 410.267 người (31,9%) và tổng dân số nông thôn là 876.484 người (68,1%). Cũng theo Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng dân số tự nhiên của Thái Nguyên năm 2019 là 1,36%. Tỷ trọng dân số sống ở thành thị của tỉnh đứng thứ 18 cả nước, đứng thứ nhất trong các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, cao thứ hai vùng thủ đô (chỉ sau thành phố Hà Nội). Tỷ lệ đơ thị hóa của Thái Ngun đến năm 2023 là 41,73%.
Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm giai đoạn 2009-2019 đạt 1,36%/năm , tốc độ tăng bình quân giai đoạn 10 năm qua cao hơn so với tốc độ tăng bình quân của 10 năm trước và cao hơn so với mức tăng của bình quân chung của cả nước.
Dân cư Thái Nguyên phân bố không đều, vùng cao và miền núi dân cư rất thưa thớt, trong khi vùng thành thị và đồng bằng dân cư đông đúc. Mật độ dân số thấp nhất là huyện Võ Nhai với 80 người/km2, cao nhất là thị trấn Thái Nguyên với mật độ 1.903 người/km2, thứ hai là thị trấn Phổ Yên với mật độ 760 người/km2, sau đó là thị trấn sơng Cơng. với mật độ 705,3 người/km2.
<b>1.3.2 Các dân tộc sinh sống</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Dân tộc tày có số lượng cư dân đứng hàng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm 10,15%). Họ có mặt ở tất cả các huyện, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất là ở huyện Định Hoá (41,1%), tiếp đến là các huyện: Phú Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%), Võ Nhai (12,5%). Theo điều tra dân số năm 2019, dân tộc Tày định cư tại Thái Nguyên có 150.404 người, chiếm 11,0% dân số toàn tỉnh và 15,0% tổng số người Tày tại Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>2. Tìm hiểu chung về người Tày ở tỉnh Thái Nguyên.2.1 Nguồn gốc và dân số hiện nay</b>
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên và là một trong những chủ nhân đầu tiên của nước Việt cổ.
Theo điều tra dân số năm 2019, người Tày ở Việt Nam có dân số 1.845.492 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 tại Việt Nam. Dân tộc Tày ở Thái Nguyên có khoảng 150.404 người, chiếm 11,0% dân số toàn tỉnh và 15,0% tổng số người Tày tại Việt Nam.
Một số nhóm người chính được chính phủ Việt Nam coi là dân tộc Tày: Người Ngạn là một nhóm cư dân của hai tỉnh Cao Bằng và Hà Giang, được xếp vào
nhóm dân tộc Tày nhưng có ngơn ngữ gần gũi với ngơn ngữ Giáy.
Người Pa Dí sống chủ yếu ở Mường Khương, tỉnh Lào Cai, với dân số khoảng 2.000 người. Họ được xếp vào nhóm dân tộc Tày, nhưng ngơn ngữ Pa Dí lại thuộc nhóm Thái Tây Nam. Người Thu Lào sống ở Mường Khương và Si Ma Cai của Lào Cai, họ nói tiếng Thu Lào gần với tiếng Tráng.
Người Phen là một nhánh của người Tày sống ở Bình Liêu, Quảng Ninh. Họ di cư từ huyện Phong Thành, Quảng Đông (nay thuộc khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc) đến Quảng Ninh và tự xưng là Phén nhằn (偏人 Phiên nhân, nghĩa là người từ bên kia biên giới), khác biệt với Thổ nhân, có nghĩa là người Tày bản địa.
Thổ hóa là các dân tộc Nùng, Dao, Việt được Tày hóa. Một số người Việt, trong đó có tu sĩ, quan lại đã di cư đến khu vực biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc để sinh sống, rồi nhiều thế hệ sau trở thành người Tày và ngày nay được chính phủ Việt Nam xếp vào danh sách người Tày, những người này thường sống ở các tỉnh lỵ, các quận trưởng hoặc các làng/thôn ở ngoại ô các trung tâm dân cư này. Họ thường sở hữu nhiều đất đai hơn và tương đối giàu có. giàu có hơn người Tày bản địa xung quanh.
<b>2.2 Tình hình kinh tế</b>
Người Tày là dân tộc nơng thơn có truyền thống làm nông ở vùng đất ngập nước. Từ lâu họ đã quen với phương pháp thâm canh, tưới tiêu quảng canh như đào mương, làm cọn, lấy nước để tưới ruộng. Ngồi lúa nước, người Tày cịn trồng lúa nương, hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp. Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng chăn nuôi thả rông vẫn rất phổ biến. Trọng tâm là nghề thủ cơng của gia đình. Nổi tiếng nhất là thổ cẩm, có nhiều hoa văn đẹp, độc đáo.
</div>