Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Nghiên Cứu Đặc Điểm Lâm Sàng Và Các Yếu Tố Liên Quan Đến Tái Phát Ở Bệnh Nhân Tâm Thần Phân Liệt Từ 45 Tuổi Trở Lên Điều Trị Nội Trú Tại Bệnh Viện Tâm Thần Nghệ An (Full Text).Docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.67 KB, 104 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC</b>

<b>NGUYỄN CẢNH HÙNG</b>

<b>NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊNQUAN ĐẾN TÁI PHÁT Ở BỆNH NHÂN </b>

<b>TÂM THẦN PHÂN LIỆT TỪ 45 TUỔI TRỞ LÊN </b>

<b>ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN TÂM THẦN NGHỆ AN</b>

<b>LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II</b>

<b>HUẾ - 2020</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

AG : Ảo giác

BN TTPL : Bệnh nhân tâm thần phân liệt CLT : Chống loạn thần

CPTTT : Chậm phát triển tâm thần

DSM-IV : Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders 4th Edition (Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần

phiên bản lần thứ 4)

DSM – V : Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders 5th Edition (Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần

phiên bản lần thứ 5)

EE : Expressed Emotion (Biểu hiện cảm xúc)

ICD-10 : The International Classification of Disorders 10th edition (Bảng phân loại hệ thống bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi)

RLKS : Rối loạn khí sắc RLTT : Rối loạn tâm thần

TDKMM : Tác dụng không mong muốn TTPL : Tâm thần phân liệt

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>ĐẶT VẤN ĐỀ...1</b>

<b>Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU...3</b>

1.1. Khái niệm, lịch sử nghiên cứu tâm thần phân liệt...3

1.2. Các giả thuyết về bệnh nguyên, bệnh sinh...4

1.3. Các triệu chứng lâm sàng...7

1.4. Tâm thần phân liệt giai đoạn từ 45 tuổi trở lên...13

<b>Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...26</b>

2.1. Đối tượng nghiên cứu...26

2.2. Phương pháp nghiên cứu...26

2.3. Phương pháp xử lý số liệu...36

2.4. Đạo đức trong nghiên cứu...36

<b>Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU...38</b>

3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu...38

3.2. Đặc điểm về lâm sàng TTPL giai đoạn từ 45 tuổi...41

3.3. Các yếu tố liên quan đến tái phát giai đoạn từ 45 tuổi...51

<b>Chương 4: BÀN LUẬN...57</b>

4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu...57

4.2. Đặc điểm về lâm sàng TTPL giai đoạn từ 45 tuổi...60

4.3. Các yếu tố liên quan đến tái phát giai đoạn từ 45 tuổi...68

<b>KẾT LUẬN...75</b>

<b>KIẾN NGHỊ...77TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>

<b>PHỤ LỤC</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Bảng 3.1. Đặc điểm lứa tuổi của nhóm bệnh nhân nghiên cứu...38</b>

<b>Bảng 3.2. Đặc điểm nghề nghiệp của nhóm đối tượng nghiên cứu...39</b>

<b>Bảng 3.3. Đặc điểm về tình trạng hơn nhân của đối tượng nghiên cứu...40</b>

<b>Bảng 3.4. Tiền sử gia đình có rối loạn tâm thần...40</b>

<b>Bảng 3.5. Tiền sử sử dụng chất...41</b>

<b>Bảng 3.6. Sự phân bố các thể bệnh giai đoạn hiện tại trên nhóm bệnh nhân</b> nghiên cứu...42

<b>Bảng 3.7. Tỉ lệ bệnh nhân có hoang tưởng...43</b>

<b>Bảng 3.8. Các loại hoang tưởng trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu ...43</b>

<b>Bảng 3.9. Đặc điểm rối loạn hình thức tư duy trên nhóm bệnh nhân ...44</b>

<b>Bảng 3.10. Các loại rối loạn tri giác thường gặp trên nhóm BNNC ...45</b>

<b>Bảng 3.11. Đặc điểm ảo thanh ...46</b>

<b>Bảng 3.12. Đặc điểm rối loạn tri giác trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu47Bảng 3.13. Sự kết hợp hoang tưởng, ảo giác nhóm BNNC ...48</b>

<b>Bảng 3.14. Đặc điểm rối loạn cảm xúc trên nhóm BN nghiên cứu ...48</b>

<b>Bảng 3.15. Đặc điểm RLHĐ có ý chí trên nhóm BNNC khi mới nhập viện ...49</b>

<b>Bảng 3.16. Đặc điểm RLHĐ bản năng trên nhóm BNNC khi mới nhập viện ...49</b>

<b>Bảng 3.17. Kết quả đánh giá thang PANSS trên bệnh nhân...50</b>

<b>Bảng 3.18. Kết quả đánh giá thang PANSS thời điểm vào viện theo thời gian</b> diễn biến bệnh...50

<b>Bảng 3.19. Số lần tái phát bệnh trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu...51</b>

<b>Bảng 3.20. Liên quan giữa tuổi, giới và tái phát TTPL ở nhóm nghiên cứu. .51Bảng 3.21. Liên quan tiền sử gia đình và tái phát TTPL ở nhóm nghiên cứu 52Bảng 3.22. Liên quan tiền sử sử dụng chất ở nhóm nghiên cứu...52</b>

<b>Bảng 3.23. So sánh thời gian ổn định của số bệnh nhân sử dụng và không sử độc chất. .53Bảng 3.24. Liên quan bệnh cơ thể đồng diễn trên bệnh nhân TTPL...53</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

nghiên cứu...54

<b>Bảng 3.27. Liên quan thể bệnh TTPL thời điểm khởi phát và số lần tái phát</b>

TTPL ở nhóm nghiên cứu...54

<b>Bảng 3.28. Liên quan tuân thủ điều trị và tái phát TTPL ở nhóm nghiên cứu...55Bảng 3.29. Liên quan số lượng tác dụng phụ và tái phát TTPL ở nhóm nghiên cứu..55Bảng 3.30. Liên quan mức độ dung nạp gia đình và tái phát TTPL...56</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>Biểu đồ 3.1. Đặc điểm giới tính của nhóm bệnh nhân nghiên cứu...38Biểu đồ 3.2. Đặc điểm tuổi khởi phát bệnh của nhóm bệnh nhân NC...41Biểu đồ 3.3. Số lượng hoang tưởng trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu...44</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>ĐẶT VẤN ĐỀ</b>

Tâm thần phân liệt (TTPL) là bệnh loạn thần nặng khá phổ biến ở nước ta cũng như trên thế giới. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, tỷ lệ hiện mắc tâm thần phân liệt ở các khu vực khác nhau trên thế giới khoảng 0,6 - 1% dân số và mỗi năm cứ 10.000 người dân từ 12 đến 60 tuổi thì có một người mắc tâm thần phân liệt. Theo Trần Viết Nghị và cộng sự tại Việt Nam tỷ lệ hiện mắc tâm thần phân liệt chiếm khoảng 0,3 - 1% dân số. Tuy nhiên tỷ lệ mắc này rất khác nhau ở mỗi nước tùy vào các nghiên cứu của các tác giả khác nhau [1], [7], [11], [18], [20], [22],[58].

Tâm thần phân liệt thường khởi phát tuổi trẻ, biểu hiện lâm sàng rất đa dạng và phức tạp, nguyên nhân gây bệnh chưa rõ ràng. Bệnh thường tiến triển mạn tính và thường có những đợt tái phát bất cứ giai đoạn nào của cuộc đời người bệnh. Trên thế giới đặc điểm tâm thần phân liệt ở giai đoạn trên 45 tuổi cũng đã có những nghiên cứu đề cập. Bệnh cảnh lâm sàng trong từng giai đoạn bệnh có những nét đặc trưng riêng. Giai đoạn trên 45 tuổi do ảnh hưởng các yếu tố tuổi tác, sự thoái hoá chung của một số cơ quan (đặc biệt là não bộ), sự suy giảm chuyển hoá, chức năng nội tiết và một số bệnh lý cơ thể kèm theo (đặc biệt là bệnh nhân nữ), đã hình thành những nét đặc điểm lâm sàng riêng. Các nhân tố tâm - sinh lý cũng như các nhân tố gia đình và các quan hệ xã hội của người bệnh ở giai đoạn trên 45 tuổi làm thúc đẩy tái phát bệnh cũng có những nét khác biệt.

Tâm thần phân liệt tiến triển, tái phát ở giai đoạn trên 45 tuổi do có các yếu tố về tuổi tác động vào sẽ có những đặc điểm riêng biệt khơng giống với các giai đoạn trước 45 tuổi [6], [10]. Tái phát bệnh tâm thần phân liệt gây ra hậu quả nghiêm trọng cho bản thân người bệnh và những người xung quanh, tái phát làm người bệnh giảm, mất khả năng học tập và lao động, giảm khả

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

năng tham gia các hoạt động xã hội, giảm sút nghiêm trọng chất lượng cuộc sống và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Sự tái phát bệnh cũng làm cho người bệnh đáp ứng điều trị kém hơn, có tiên lượng xấu hơn sau mỗi lần tái phát. Nặng nề nhất là bệnh nhân tái phát nhiều lần kèm theo có các triệu chứng trầm cảm có thể xuất hiện ý tưởng hoặc hành vi tự sát. Người chăm sóc và gia đình bệnh nhân cũng phải chịu gánh nặng kinh tế nặng nề. Chi phí điều trị cũng tăng lên, bao gồm các chi phí trực tiếp liên quan điều trị y tế và các chi phí gián tiếp do phải chăm sóc bệnh nhân tại thời gian nằm điều trị tại viện, chăm sóc bệnh nhân tại nhà. Do đó xã hội và ngành y tế phải chịu gánh nặng lớn, phải đối phó với số lượng bệnh nhân cao hơn phải nhập viện có thể dẫn đến tình trạng q tải và chăm sóc người bệnh kém.

Ở Việt Nam đã có các nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng cũng như nghiên cứu về các yếu tố liên quan đến tái phát bệnh tâm thần phân liệt nhưng chưa có nghiên cứu có hệ thống nào trên bệnh nhân tâm thần phân liệt lứa tuổi từ 45 tuổi trở lên. Để góp phần tìm hiểu sâu hơn đặc điểm lâm sàng tâm thần phân liệt ở giai đoạn trên 45 tuổi và các yếu tố thúc đẩy tái phát giúp cho chẩn đoán và điều trị phù hợp, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người

<b>bệnh, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và các yếutố liên quan đến tái phát ở bệnh nhân tâm thần phân liệt từ 45 tuổi trởlên điều trị nội trú tại Bệnh viện tâm thần Nghệ An”, nhằm các mục tiêu</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>Chương 1</b>

<b>TỔNG QUAN TÀI LIỆU</b>

<b>1.1. KHÁI NIỆM, LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU TÂM THẦN PHÂN LIỆT</b>

Thuật ngữ “schizophrenia” được gọi là “tâm thần phân liệt” bắt nguồn từ chữ Hy Lạp: “schizo” có nghĩa là chia tách, phân rời và “phrenia” có nghĩa là tâm thần. Tâm thần phân liệt là một rối loạn hay chính xác hơn là một nhóm bệnh có bệnh sinh khác nhau. Bệnh tương đối phổ biến, nguyên nhân chưa rõ ràng, tiến triển và tiên lượng rất khác nhau và thường hay mắc ở lứa tuổi trẻ, thậm chí khởi phát từ rất sớm [4],[7],[34].

Tâm thần phân liệt được nhà tâm thần học người Đức Griesinger mô tả lần đầu tiên vào thế kỷ XVII với tên gọi “Sa sút tiên phát” (Primary dementia). Nhà tâm thần học người Pháp Morel B.A. dùng thuật ngữ “Sa sút sớm” (Demence précoce) để chỉ những bệnh nhân mắc bệnh ở tuổi trẻ và tiến triển đến sa sút tâm thần. Năm 1871 Hecker E. mô tả một thể bệnh gọi là “Thanh xuân” (Hebephrenia). Năm 1874 Kalbaum K.L. gọi là “Căng trương lực” (Catatonia). Năm 1882, nhà tâm thần học Nga Candinxki đưa ra khái niệm bệnh tâm thần tư duy (ideophrenia), được mô tả là một bệnh độc lập, mà triệu chứng học dựa trên những nét cơ bản phù hợp với tâm thần phân liệt hiện nay [11].

Năm 1898 Kraepelin E, nhà tâm thần học người Đức đã thống nhất các thể bệnh độc lập của các tác giả dưới tên gọi: Bệnh sa sút sớm (Demence précoce). Đến năm 1911 Bleuler D.E, nhà tâm thần học người Thụy Sỹ dựa trên cơ sở phân tích sa sút sớm về bệnh học tâm thần, đã đi đến kết luận: rối loạn chủ yếu nhất trong đó là sự chia cắt, phân liệt, khơng thống nhất về các hoạt động tâm thần và đề xuất tên gọi mới là “tâm thần phân liệt-schizophrenia”. Tên tâm thần phân liệt được chấp nhận và sử dụng cho đến ngày nay [1].

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Theo Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD-10), các triệu chứng dương tính đặc trưng của bệnh là các rối loạn về tư duy như các hoang tưởng, rối loạn tri giác như các ảo thanh và các hiện tượng tâm thần tự động... là những triệu chứng quyết định chẩn đốn; các triệu chứng âm tính như vơ cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các đáp ứng cảm xúc cùn mịn hay khơng thích hợp... cũng đóng vai trò trong việc xác định bệnh [18].

Cùng với bảng phân loại bệnh quốc tế, theo sổ tay thống kê chẩn đoán các rối loạn tâm thần của Hội Tâm thần học Hoa Kỳ (DSM). Hệ thống phân loại này khá chi tiết và có nhiều điểm khác biệt so với bảng phân loại bệnh quốc tế. Theo DSM - IV (1994) và DSM V, TTPL được xếp vào mục 295, còn bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 (ICD - 10) TTPL được xếp vào mục F.20 từ mã 0 đến 8, trong đó các tiêu chuẩn chẩn đốn đã có nhiều điểm tương đồng với nhau như: thống nhất với nhau về thời gian tồn tại các triệu chứng để chẩn đoán, các tiêu chuẩn loại trừ và đề cao giá trị của các triệu chứng dương tính như hoang tưởng, ảo giác... trong chẩn đoán bệnh [22].

Tâm thần phân liệt là một bệnh loạn thần nặng, có khuynh hướng tiến triển mạn tính, căn nguyên hiện nay chưa được rõ ràng. Những biểu hiện của bệnh gồm các triệu chứng rối loạn về tư duy, nhận thức, cảm xúc, tri giác ... gây khó khăn trong việc giao tiếp với mọi người xung quanh. Nếu khơng được điều trị sớm và tích cực, bệnh sẽ làm biến đổi nhân cách người bệnh một cách sâu sắc, làm cho người bệnh khó khăn trong học tập, giảm khả năng lao động nghề nghiệp và khả năng tự lập trong cuộc sống [16], [45].

<b>1.2. CÁC GIẢ THUYẾT VỀ BỆNH NGUYÊN, BỆNH SINH1.2.1. Giả thuyết về di truyền học</b>

Các cơng trình nghiên cứu về miễn dịch và di truyền học cho thấy TTPL là một bệnh có bản chất sinh học. Người ta cho rằng yếu tố di truyền trong TTPL không phải theo mẫu di truyền cổ điển của Mendel mà là đa gen, mỗi

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

gen gây ra một hậu quả [27]. Mặc dù có sự tiến bộ đáng kể trong các nghiên cứu GWAS, nhưng phần lớn khả năng di truyền của tâm thần phân liệt vẫn chưa được giải thích. Sự ra đời của giải trình tự bộ gen có khả năng dẫn đến kết quả có giá trị hơn [41].

Theo Kullmann: nếu cha hoặc mẹ một người mắc bệnh tâm thần phân liệt thì 16,4% số con mắc bệnh này; khi cả hai cha mẹ cùng mắc bệnh thì tỷ lệ đó tăng tới 68,1%. 14,3% các anh chị em ruột của người mắc bệnh tâm thần phân liệt bị mắc bệnh này. Nếu một đứa trẻ sinh đôi cùng trứng mắc bệnh TTPL thì 86,2% trẻ kia cũng mắc bệnh, ở những đứa trẻ sinh đôi khác trứng tỷ lệ này giảm xuống 16,4%. Tỷ lệ TTPL ở cộng đồng là 1%, thì nguy cơ bị bệnh ở những người họ hàng cùng huyết thống mức độ I (bố mẹ, ông bà, anh chị em ruột) của bệnh nhân TTPL là từ 3 đến 7% [65] [80].

<b>1.2.2. Giả thuyết về các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển trong thời kỳthai sản</b>

Các yếu tố nguy cơ trong kỳ mang thai: mẹ trong thời kỳ mang thai bị nhiễm vi rút, thiếu dinh dưỡng. Suy thai là một trong những nguyên nhân gây ra các bệnh như liệt hoặc chậm phát triển tâm thần. Con của những người bị tiền sản giật có nguy cơ bị TTPL cao hơn nhiều so với người bình thường. Cân nặng của trẻ sơ sinh thấp cũng có liên quan tới sự gia tăng nguy cơ bị TTPL. Yếu tố nguy cơ chu sinh và các biến chứng trong khi sinh có thể làm tăng xác suất mắc bệnh [68]. Những đứa trẻ có sự phát triển tâm thần vận động chậm hơn so với những trẻ khác, hoặc có nhân cách khép kín và thu rút thường có tiên lượng xấu [42].

<b>1.2.3. Giả thuyết về yếu tố môi trường* Mơi trường gia đình:</b>

Nhiều tác giả cho rằng tác động qua lại trong mơi trường gia đình là một yếu tố bệnh sinh quan trọng của tâm thần phân liệt. Gia đình có những bà mẹ

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

mất sự nhạy cảm, lạnh lùng, ích kỷ hoặc phản ứng quá mức... thì các con cũng bị ảnh hưởng, mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình xa cách, khơng gắn kết đóng vai trị quan trọng trong bệnh sinh của bệnh TTPL [1], [40].

<b>* Môi trường văn hố:</b>

Mơi trường văn hố trong việc phát sinh TTPL đã được nghiên cứu và giải thích khác nhau giữa khu vực thành thị và nơng thơn, có ý kiến cho rằng bệnh nhân sinh ở thành phố có nguy cơ dễ mắc TTPL cao hơn ở nông thôn 2 lần. Tuy nhiên, các tác giả cho rằng điều kiện kinh tế làm ảnh hưởng đến yếu tố dinh dưỡng, vệ sinh và chăm sóc sức khoẻ cho mọi người là chính chứ khơng phải là sự khác biệt về văn hoá [1], [40].

<b>1.2.4. Các giả thuyết về sinh hóa não và dẫn truyền thần kinh trunng ương</b>

Giả thuyết dopamine: Chất dẫn truyền thần kinh dopamine được coi là có vai trị quan trọng trong bệnh tâm thần phân liệt. Các nghiên cứu lâm sàng đã xác nhận rằng các bất thường dopamine cũng xuất hiện trước khi khởi phát rối loạn tâm thần ở bệnh tâm thần phân liệt và do đó khơng phải là hậu quả

<b>của các đợt loạn thần hoặc tiếp xúc với thuốc chống loạn thần [62]. Người ta</b>

nhận thấy có sự rối loạn hoạt động của hệ thống dopaminergic (DA) ở trong não của các bệnh nhân TTPL bao gồm: sự giải phóng quá nhiều dopamin ở màng trước sinap, tăng tiếp nhận dopamin ở màng sau sinap. Các tác giả cũng thấy các thuốc giảm hoạt tính thụ thể dopamin như các thuốc an thần kinh đều làm giảm triệu chứng của bệnh [49].

- Giả thuyết về hệ serotonin: Hệ tiết serotonin (5HT) trung ương có chức năng kiểm sốt sự tổng hợp DA ở thân tế bào và sự giải phóng DA ở trước synap của các nơron của hệ DA. Trong TTPL người ta nhận thấy sự mất cân bằng giữa hệ tiết dopamin và serotonin trung ương có vai trị quyết định đến các triệu chứng của TTPL.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

- Một số giả thuyết về các chất dẫn truyền thần kinh khác như vai trò của glutamate. Người ta thấy nồng độ glutamate giảm trong dịch não tuỷ của bệnh nhân TTPL. Thêm vào đó, các chất đối kháng thụ thể glutamate có thể gây ra các triệu chứng loạn thần giống TTPL. Một số nghiên cứu còn cho thấy những bất thường ở hệ thống GABA có liên quan đến phát sinh TTPL. Các thụ thể serotonin (5-hydroxytryptamine) 2A (5-HT <small>2A</small> ) và các thụ thể metabotropic glutamate loại 2 (mGlu2) có thể tập hợp thành một phức hợp đánh giá chức năng và điều chỉnh chức năng của nhau. Phức hợp đo lường này liên quan đến cơ chế hoạt động của các chất gây ảo giác cũng như các chất chống loạn thần, và vai trị của nó đã được chứng minh trong cả hệ thống in vitro và in vivo [78].

<b>1.2.5. Giả thuyết về những bất thường của cấu trúc và chức năng não</b>

Những nghiên cứu về hình ảnh đại thể của não cho thấy ở BN TTPL có sự giãn rộng các não thất bên, não thất ba, giảm thể tích vỏ não (chủ yếu là chất xám), giảm thể tích của các thùy thái dương (bao gồm hồi hải mã) và đồi thị. Người ta cũng nhận thấy sự giảm lưu lượng máu vào thùy trán có liên quan tới các triệu chứng âm tính và rối loạn chức năng vùng thái dương [26], [44], [63].

<b>1.3. CÁC TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG1.3.1. Nhóm triệu chứng âm tính</b>

Theo quan điểm của Bleuler.P.E., triệu chứng âm tính là nền tảng của q trình phân liệt. Đó là các triệu chứng thể hiện sự tiêu hao mất mát các hoạt động tâm thần, mất tính tồn vẹn, tính thống nhất của hoạt động tâm thần [44]. Những triệu chứng âm tính thường gặp là:

- Các rối loạn cảm xúc:

+ Cảm xúc cùn mòn, cảm xúc khơng thích hợp: đặc trưng bởi nét mặt lờ đờ, bất động, vô cảm, trạng thái cảm xúc khơng tương ứng với kích thích.

+ Các biểu hiện khác: giảm, mất ham muốn và thích thích thú; giảm, mất sự rung động; bàng quan với xung quanh, mất khả năng bày tỏ cảm xúc của mình...

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

- Các rối loạn tư duy:

+ Ngôn ngữ nghèo nàn: cứng nhắc, giảm vốn từ, lượng từ khi giao tiếp, giảm sút các ý tưởng diễn đạt, nội dung sơ sài, đơn điệu, đôi khi vô nghĩa.

+ Tư duy chậm chạp, tư duy ngắt quãng: dòng suy nghĩ của bệnh nhân bị cắt đứt.

- Rối loạn hoạt động có ý chí:

+ Thiếu ý chí, thụ động, thiếu sáng tạo; Giảm khả năng duy trì và kiểm sốt hoạt động có ý chí, năng suất học tập cơng tác giảm dần; giảm, mất hoạt động chăm sóc bản thân.

Theo Trần Như Minh Hằng (2018) các triệu chứng âm tính thể hiện sự suy giảm các chức năng tâm thần bình thường, các triệu chứng âm tính thực sự hay âm tính tiên phát là triệu chứng của rối loạn thường diễn biến mạn tính, sâu sắc và bền vững, ít đáp ứng thuốc chống loạn thần. Đây là các triệu chứng góp phần làm tiên lượng TTPL nặng nề. Cần phân biệt triệu chứng âm tính thực sự với các triệu chứng âm tính thứ phát là các triệu chứng do tác dụng phụ của các thuốc chống loạn thần, do trầm cảm hoặc do hậu quả của các triệu chứng dương tính. Những triệu chứng âm tính thứ phát không kéo dài và sẽ hết khi giải quyết các ngun nhân. Những triệu chứng âm tính thứ phát khơng có giá trị trong chẩn đốn TTPL [20]. Vai trị của các triệu chứng âm tính trong tiêu chuẩn chẩn đốn bệnh tâm thần địi hỏi phải được thẩm định liên tục do tỷ lệ xuất hiện cao của trong tâm thần phân liệt và cần có cách tiếp cận theo chiều khía cạnh cốt lõi của bệnh [37].

<b>1.3.2. Nhóm triệu chứng dương tính</b>

- Các triệu chứng dương tính thể hiện những biến đổi bệnh lý phong phú. Các triệu chứng này có thể xuất hiện riêng lẻ nhưng cũng có thể kết hợp với nhau thành những hội chứng (hội chứng về cảm xúc, hội chứng paranoia, hội chứng paranoid, hội chứng căng trương lực...). Các triệu chứng dương tính hay gặp:

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

- Rối loạn hình thức tư duy: tư duy dồn dập, trong đầu BN xuất hiện dồn dập đủ mọi ý nghĩ ngoài ý muốn của BN.

- Rối loạn nội dung tư duy:

Hoang tưởng là triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân TTPL. Đặc trưng hoang tưởng của bệnh TTPL mang tính chất bị động, bị chi phối, hoang tưởng bị hại, hoang tưởng liên hệ, hoang tưởng ghen tuông, hoang tưởng tự cao, hoang tưởng phát minh, hoang tưởng được yêu, hoang tưởng kỳ quái cũng thường gặp.

- Các rối loạn cảm giác, tri giác: Ảo thanh: người bệnh nghe thấy âm thanh phát ra từ các bộ phận trên cơ thể, ảo thanh độc thoại như bệnh nhân nghe thấy giọng nói của chính mình trị chuyện trong đầu, ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân. Đây là những ảo thanh khá điển hình trong bệnh TTPL. Ngoài ra gặp ảo thị; ảo giác vị giác và ảo giác xúc giác hiếm gặp.

- Các rối loạn hoạt động:

+ Rối loạn hoạt động ở bệnh nhân TTPL rất đa dạng và phong phú. Có thể có những hành vi thơ bạo, hung hãn, đi lại khơng mục đích..., các rối loạn này có thể là do hoang tưởng, ảo giác chi phối.

+ Kích động: là những động tác si dại, lố bịch, vô nghĩa, không phù hợp như đùa cợt thơ bạo, nhảy nhót, gào thét, đập phá, đánh người...

+ Kích động căng trương lực: với những động tác dị thường, vô nghĩa như rung đùi, lắc người nhịp nhàng, mắt nhìn trừng trừng, định hình, giữ nguyên dáng, có khi là những xung động bất thường xen lẫn bất động.

- Các rối loạn hoạt động bản năng: rối loạn giấc ngủ, rối loạn ăn uống, rối loạn bản năng tình dục; những xung động bản năng như: xung động đi lang thang, xung động trộm cắp, xung động đốt nhà, xung động giết người.

<b>1.3.3. Chẩn đoán tâm thần phân liệt</b>

Hiện nay TTPL thường được chẩn đoán theo tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới hoặc Hội Tâm thần học Mỹ. Về cơ bản tiêu chuẩn chẩn đoán của

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hai tổ chức này là giống nhau, nhưng có điểm khác biệt về thời gian kéo dài của các triệu chứng loạn thần. Ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán TTPL của Tổ chức Y tế Thế giới [18].

Theo Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD-10) chẩn đốn TTPL phải dựa vào 9 nhóm triệu chứng lâm sàng sau và thời gian tồn tại các triệu chứng này ít nhất là một tháng:

(a) Tư duy vang thành tiếng, tư duy bị áp đặt hay bị đánh cắp và tư duy bị phát thanh.

(b) Các hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối hay bị động, có liên quan rõ rệt với vận động thân thể hay các chi hoặc có liên quan với những ý nghĩ, hành vi hay cảm giác đặc biệt, tri giác hoang tưởng.

(c) Các ảo thanh bình luận thường xuyên về hành vi của bệnh nhân hay thảo luận với nhau về bệnh nhân hoặc các loại ảo thanh khác xuất phát từ một bộ phận nào đó của thân thể.

(d) Các loại hoang tưởng dai dẳng khác khơng thích hợp về mặt văn hóa và hồn tồn khơng thể có được như tính đồng nhất về tơn giáo hay chính trị hoặc những khả năng và quyền lực siêu nhân (thí dụ: có khả năng điều khiển thời tiết, hoặc đang tiếp xúc với những người của thế giới khác).

(e) Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào, có khi kèm theo hoang tưởng thống qua hay chưa hồn chỉnh, khơng có nội dung cảm xúc rõ ràng hoặc kèm theo ý tưởng quá dai dẳng hoặc xuất hiện hàng ngày trong nhiều tuần hay nhiều tháng.

(f) Tư duy gián đoạn hay thêm từ khi nói, đưa đến tư duy khơng liên quan, lời nói khơng thích hợp hay ngơn ngữ bịa đặt.

(g) Tác phong căng trương lực như kích động, giữ nguyên dáng hay uốn sáp, phủ định, không nói, sững sờ.

(h) Các triệu chứng âm tính như vơ cảm rõ rệt, ngôn ngữ nghèo nàn, các

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

đáp ứng cảm xúc cùn mịn hay khơng thích hợp thường đưa đến cách ly xã hội hay giảm sút hiệu suất lao động xã hội, phải rõ ràng là các triệu chứng trên không do trầm cảm hay do thuốc an thần kinh gây ra.

(i) Biến đổi thường xun và có ý nghĩa về chất lượng tồn diện của tập tính cá nhân biểu hiện như là mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác, thái độ mê mải suy nghĩ về bản thân và cách ly xã hội.

Khơng chẩn đốn TTPL nếu có triệu chứng trầm cảm hay hưng cảm mở rộng, tổn thương thực thể, động kinh hay trạng thái nhiễm độc chất ma tuý.

- <b>Các nguyên tắc hướng dẫn chỉ đạo chẩn đoán:</b>

Yêu cầu của một chẩn đoán bệnh nhân tâm thần phân liệt là ít nhất phải có một triệu chứng rất rõ (nếu ít rõ thường phải hai triệu chứng hay nhiều hơn nữa) thuộc vào các nhóm các triệu chứng liệt kê từ (a) đến (d) ở trên hoặc có ít nhất là hai trong các nhóm triệu chứng liệt kê từ (e) đến (h). Các triệu chứng ở trên phải tồn tại rõ ràng trong phần lớn khoảng thời gian một tháng hay lâu hơn.

<b>1.3.4. Tiến triển và tiên lượng của tâm thần phân liệt</b>

<i><b>1.3.4.1. Tiến triển của tâm thần phân liệt</b></i>

Bệnh nhân TTPL nếu không được phát hiện sớm và điều trị hợp lý, bệnh tiến triển mạn tính với sự mất mát tăng dần, có những giai đoạn cấp có các triệu chứng dương tính rầm rộ. Trong q trình tiến triển, các triệu chứng dương tính nghèo dần đi, các triệu chứng âm tính ngày càng sâu sắc hơn. Mặt khác, nếu được điều trị sớm bằng các thuốc chống loạn thần thì TTPL tiến triển tốt ít dẫn đến sa sút tâm thần; 20% bệnh nhân khỏi bệnh, 25% bệnh nhân tiến triển mạn tính và 25% bệnh nhân có sa sút tâm thần. Sự suy giảm trí nhớ, suy giảm về mặt nhận thức, nhận thức xã hội là một trở ngại đáng kể trong phục hồi chức năng tâm thần [47].

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Theo ICD-10, để đánh giá tiến triển TTPL cần theo dõi tối thiểu là một năm sau khởi phát bệnh. Mỗi thể bệnh có có thể có 7 kiểu tiến triển [18]:

1- Tiến triển liên tục

2- Từng giai đoạn thiếu sót tăng dần 3- Từng giai đoạn thiếu sót ổn định 4- Từng giai đoạn thiếu sót thuyên giảm 5- Thun giảm khơng hồn tồn

6- Thun giảm hồn toàn

7- Thời kỳ theo dõi dưới một năm

<i><b>1.3.4.2. Các yếu tố tiêm lượng bệnh tâm thần phân liệt</b></i>

<b>Các yếu tố tiên lượng tốt:</b>

- Khởi phát muộn.

- Có nhân tố thúc đẩy rõ rệt (sang chấn tâm lý, nhiễm khuẩn…). - Khởi phát cấp diễn.

- Trước khi mắc bệnh, có nhân cách thích ứng, hồ hợp với mơi trường xung quanh. Thể paranoid hoặc có rối loạn cảm xúc, có nhiều triệu chứng dương tính.

- Ít có yếu tố di truyền.

- Tiến triển không liên tục, được điều trị sớm. <b>Các yếu tố tiên lượng xấu:</b>

- Khởi phát sớm, khởi phát âm ỉ, khơng có nhân tố thúc đẩy. - Trước khi mắc bệnh có tính cách cơ độc, khép kín.

- Khơng có nhân tố thúc đẩy.

- Tiền sử gia đình có bệnh tâm thần phân liệt. - Có triệu chứng âm tính chiếm ưu thế.

- Bệnh tiến triển liên tục

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>1.4. TÂM THẦN PHÂN LIỆT GIAI ĐOẠN TỪ 45 TUỔI TRỞ LÊN1.4.1. Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân TTPL từ 45 tuổi trở lên</b>

<i><b>1.4.1.1. Rối loạn về tri giác</b></i>

Ảo giác là tri giác như có thật về một sự vật, hiện tượng khơng có thật trong hiện thực khách quan.

Trong TTPL ảo giác là triệu chứng thường gặp, trong đó hay gặp nhất là ảo thanh, chiếm khoảng 60-80% bệnh nhân TTPL [17], [79]. Ảo thanh trong TTPL thường là ảo thanh giả, vị trí xuất phát của ảo thanh thường từ trong đầu của BN, mang tính chất bình phẩm thường là với những nội dung gây khó chịu hoặc ra lệnh bắt buộc BN phải tuân theo. Ảo thị, ảo khứu, ảo vị … ít gặp hơn. Ảo thị thường tồn tại nhất thời. Ảo khứu và ảo vị khi xuất hiện thường đi kèm với nhau [13], [75].

<i><b>1.4.1.2. Rối loạn về tư duy</b></i>

Đây là một trong những triệu chứng cốt lõi trong TTPL - Các hoang tưởng

Ở giai đoạn trên 45 tuổi một số nghiên cứu thấy rằng bệnh nhân TTPL khởi phát bệnh trước tuổi khởi phát trung bình cường độ các HT không mạnh, thường mờ nhạt. Theo Castle D.I và Murray R.M (1993) ở nhóm bệnh nhân này các HT đặc trưng của TTPL như bị chi phối, theo dõi … ít gặp và các HT thường gặp là các HT bị hại, liên hệ [30]. Ở một số nghiên cứu khác trên BN khởi phát bệnh sau tuổi khởi phát trung bình và tái phát sau 45 tuổi lại thấy rằng HT có tính chất hệ thống chiếm tỉ lệ cao, cường độ khá mạnh, các HT thường gặp là HT bị bắt bớ, bị hại, ngồi ra cịn có thể gặp: các HT cơ thể, ghen tng và kì quái [75].

- Các rối loạn hình thức tư duy

Ở các bệnh nhân TTPL tái phát trên 45 tuổi các rối loạn hình thức tư duy thường gặp hơn các hoang tưởng. Các rối loạn hình thức tư duy như tư duy

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

không logic, ngôn ngữ rời rạc không liên quan... thường gặp ở mức độ rối loạn nhẹ và khơng rõ ràng. Các rối loạn hình thức tư duy âm tính thường gặp hơn như tư duy nghèo nàn, tư duy chậm chạp, tư duy ngắt quãng [35].

<i><b>1.4.1.3. Rối loạn về cảm xúc</b></i>

Bệnh nhân TTPL có biến đổi về cảm xúc. Cảm xúc suy giảm biểu hiện bằng sự thờ ơ, vô cảm, nặng hơn là cảm xúc thờ ơ hoặc cùn mòn là biểu hiện thường gặp. Ngồi ra cịn có thể bệnh nhân mất khoái cảm, mất niềm vui, cảm giác trống rỗng hoặc khô lạnh. Cảm xúc khác thường như phản ứng cảm xúc với biểu hiện ra ngồi với cảm xúc kì dị. Ngoài ra các triệu chứng như hưng cảm hoặc trầm cảm cũng không phải là hiếm gặp [56]. Những bất thường trong hệ thống thể vân và vỏ não trước trán có thể liên quan đến sự thiếu hụt trong quá trình điều chỉnh cảm xúc ở bệnh tâm thần phân liệt [39].

<i><b>1.4.1.4. Rối loạn hoạt động</b></i>

<i>Rối loạn hoạt động có ý chí: là biểu hiện chủ yếu trong giai đoạn mạn</i>

tính của bệnh, đó là sự mất khả năng duy trì, kiểm sốt các hoạt động có mục đích dẫn đến thụ động, thiếu sáng tạo. Kém chăm sóc bản thân và hoạt động xã hội: ăn mặc thường nhếch nhác, ít tự vệ sinh thân thể, nhiều bệnh nhân ăn mặc kỳ dị không phù hợp với xung quanh. Cách ly xã hội: giảm sút hoạt động xã hội dẫn tới cách ly dần với môi trường xung quanh, bệnh nhân dần mất đi sự đồng cảm và giao tiếp với người thân, những người xung quanh và mất dần các hứng thú công việc dẫn đến bệnh nhân ngày càng xa lánh mọi người, thu dần vào thế giới tự kỷ bên trong của mình.

<i>Rối loạn hoạt động bản năng: tuy không phải là đặc hiệu của bệnh nhưng</i>

bao giờ cũng gặp đó là rối loạn giấc ngủ, từ chối ăn uống, rối loạn chức năng tình dục: ở giai đoạn mạn tính có thể có tình trạng bệnh nhân ngủ nhiều. Rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân TTPL được nghiên cứu cho thấy có liên quan đến thay đổi hoạt động sóng điện não trong các giai đoạn bệnh [59]. Đa số bệnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

nhân giảm khả năng tình dục, nhưng cũng có thể gặp giải tỏa bản năng tình dục [50].

<i><b>1.4.1.5. Các triệu chứng âm tính và dương tính</b></i>

Bệnh nhân TTPL tái phát trên 45 tuổi đều có các triệu chứng dương tính và âm tính. Song theo tuổi tác, các triệu chứng âm tính nặng dần lên và các triệu chứng dương tính như HT, AG... mờ nhạt dần đi, các triệu chứng thiếu sót, là các triệu chứng đặc trưng của bệnh ở giai đoạn này và ông cũng thấy các triệu chứng này ở bệnh nhân TTPL trên 45 tuổi cao hơn gấp 2,5 lần so với bệnh nhân TTPL dưới 45 tuổi [43].

<i><b>1.4.1.6. Tiến triển và tiên lượng</b></i>

Tâm thần phân liệt là một bệnh có khuynh hướng tái phát và tiến triển mạn tính. Sự tiến bộ của hóa dược tâm thần và các biện pháp điều trị phối hợp cũng đã làm cho tiến triển cũng như hậu quả của bệnh trạng giai đoạn này ngày càng đỡ nặng nề hơn [25]. Nghiên cứu của Girard C và Simard M cũng cho thấy các bệnh nhân khởi phát bệnh muộn sau tuổi 40 tái phát trên 45 tuổi thì hậu quả bệnh đỡ nặng nề [43].

<b>1.4.2. Điều trị TTPL giai đoạn trên 45 tuổi</b>

<i><b>1.4.2.1. Điều trị hóa dược trị liệu</b></i>

Thuốc chống loạn thần được sử dụng rộng rãi để điều trị các triệu chứng loạn thần trong tâm thần phân liệt. Để đạt được hiệu quả tối ưu và không ngừng nâng cao chất lượng điều trị cần phải luôn chú ý tới các yếu tố có tính ngun tắc trong hóa dược trị liệu.

- Điều trị sớm

- Ưu tiên đơn trị liệu, lựa chọn thuốc thích hợp. - Khơng rập khn, linh hoạt.

- Phù hợp với từng cá thể người bệnh. - Giảm tối thiểu những TDKMM của thuốc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Phải điều trị đủ thời gian cần thiết (tối thiểu từ 12 – 14 tháng) phù hợp với từng người bệnh, thể bệnh, giai đoạn bệnh, có theo dõi đánh giá khoa học chặt chẽ, toàn diện.

Thuốc chống loạn thần (CLT) cổ điển như nhóm butyrophenon, phenothiazin... điều trị tốt các triệu chứng dương tính nhưng ít có hiệu quả trên các triệu chứng âm tính và có nhiều TDKMM [33]. Một số nghiên cứu cho thấy các bệnh nhân TTPL trên 45 tuổi rất nhạy cảm với các tác dụng phụ của thuốc vì thế cần thận trọng và nên bắt đầu bằng liều điều trị thấp [29], [74].

Bệnh nhân trên 45 tuổi có xu hướng xuất hiện nhiều bệnh lý cơ thể đồng diễn, tiêu biểu như các bệnh lý về tim mạch, nội tiết, hô hấp… Các bệnh lý này ảnh hưởng đến các chỉ định dùng thuốc cho bệnh nhân, cũng như xuất hiện thêm nhiều chống chỉ định khi sử dụng các loại thuốc an thần kinh khác nhau. Bệnh nhân cũng cần điều chỉnh liều thuốc chống loạn thần trong trường hợp có nhiều bệnh lý cơ thể liên quan đến việc thay đổi chuyển hóa của thuốc trong cơ thể.

<i><b>1.4.2.2. Liệu pháp tái thích ứng xã hội</b></i>

Đây là liệu pháp quan trọng để phục hồi các chức năng tâm lý, xã hội nhằm mục đích sớm đưa người bệnh trở lại với cộng đồng, cũng là biện pháp quan trọng trong chiến lược điều trị duy trì nhằm giữ mức ổn định bệnh lâu dài, phòng tránh tái phát và sự suy giảm trí tuệ do bệnh gây ra đặc biệt ở giai đoạn tuổi trên 45 tuổi, bệnh mạn tính đa số bệnh nhân vào tuổi về hưu. Đặc biệt các chương trình can thiệp thay đổi nhận thức xã hội với bệnh nhân TTPL có thể góp phần cải thiện quan hệ xã hội và sự công nhận của bệnh nhân trong xã hội [67].

<i><b>1.4.2.3. Liệu pháp tâm lý</b></i>

Liệu pháp tâm lý rất cần thiết để thiết lập mối quan hệ tốt giữa thầy thuốc với bệnh nhân nhằm nâng đỡ họ vượt qua giai đoạn khủng hoảng về

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

mặt tâm lý, giải tỏa được các căng thẳng nội tâm. Cần giải thích cho các thành viên trong gia đình bệnh nhân có nhận thức đầy đủ về TTPL, từ đó có thái độ đúng với bệnh nhân, chấp nhận sống chung, yêu thương, không xa lánh, hất hủi họ. Giúp đỡ gia đình bệnh nhân trong cơn cấp tính, kết hợp nâng đỡ cộng đồng, phát hiện sớm các triệu chứng tái phát để can thiệp. Đào tạo kỹ năng xã hội, liệu pháp nhận thức hành vi kết hợp trị liệu hành vi với cả đào tạo kỹ năng xã hội và đào tạo giải quyết vấn đề là biện pháp can thiệp có lợi cho người cao tuổi bị rối loạn tâm thần [57], [71].

<b>1.5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TÁI PHÁT TÂM THẦN PHÂN LIỆT1.5.1. Một số khái niệm</b>

Tái phát là sự trở lại của bệnh TTPL sau một giai đoạn ổn định ở các mức độ khác nhau và nó có thể quyết định sự tái nhập viện hoặc sự can thiệp trong cơn.

Theo Alimov Kh. A. (1996): Thuyên giảm và tái phát thực chất là hai giai đoạn khác nhau trong quá trình tiến triển của bệnh TTPL. Tái phát không phải là một giai đoạn bắt buộc phải có trong tiến triển của bệnh bởi vì bệnh TTPL có thể dừng lại ở bất kỳ giai đoạn nào, nhưng trong thực tế tái phát bệnh TTPL lại rất thường gặp. Tái phát bao giờ cũng xuất hiện trên nền một giai đoạn thuyên giảm và ổn định nhất định cho nên bất kỳ một nghiên cứu nào về tái phát cũng không thể tách rời với nghiên cứu quá trình thuyên giảm và ổn định bệnh. Với những bệnh nhân có kiểu tiến triển liên tục thì khơng thể xác định được đâu là cơn tát phát vì bệnh khơng có giai đoạn thun giảm rõ ràng. Tình trạng xấu đi của người bệnh có dạng tiến triển liên tục được xem như sự nặng lên (hay cơn kịch phát) của bệnh TTPL.

Trong y văn có khái niệm “tái phát trong cơn” nghĩa là sự quay trở lại các triệu chứng của một giai đoạn bệnh đang có. Sự quay trở lại các triệu chứng loạn thần sau khi đã bắt đầu đáp ứng với điều trị có thể giải thích được bởi liều thuốc khơng đầy đủ, bởi tiến triển tự nhiên của bệnh TTPL không phụ thuộc vào thuốc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Theo Chabannes j. (1998) khái niệm về ổn định bệnh được các nhà tâm thần học xác định dựa trên hai tiêu chuẩn là điều trị có kết quả và khơng cịn triệu chứng dương tính. Tuy nhiên trong số 43% bệnh nhân nghiên cứu được coi là ổn định vẫn còn các triệu chứng dương tính ở các mức độ khác nhau. Triệu chứng âm tính thường gặp ở 65% bệnh nhân. Mặc dù khái niệm “ổn định” vẫn cịn khó xác định nhưng các nhà tâm lý học vẫn thống nhất là: điều trị có kết quả và sự giảm bớt các triệu chứng dương tính. Thậm chí ở các bệnh nhân được gọi là ổn định sự tăng về cường độ các triệu chứng vẫn có thể có.

Về thuyên giảm: Thuyên giảm là một trạng thái lâm sàng phức tạp bao gồm: Các rối loạn loạn thần di chứng, các thiếu sót phân liệt, các đặc điểm nhân cách trức lúc mắc bệnh còn giữ lại được. Tỷ trọng mỗi thành phần trên và sự kết hợp các thành phần có quyết định tính chất đa dạng về lâm sàng và các trạng thái thuyên giảm trong TTPL. Không phải mỗi khi trạng thái của người bệnh khả quan lên đều là thuyên giảm. Muốn được xem như là thuyên giảm thì tình trạng khả quan này phải tốt và bền vững [36].

Theo Yu- Tao Xiang và cộng sự (2011) nghiên cứu trên 404 BN TTPL ổn định về mặt lâm sàng sau một giai đoạn cấp tính được chia thành 2 nhóm. Một nhóm tối ưu liều thuốc ban đầu cho đến hết thời gian nghiên cứu. Nhóm còn lại tối ưu liều thuốc ban đầu trong 4 tuần hoặc 26 tuần sau đó giảm liều 50%. Kết quả, tỷ lệ tái phát trong nghiên cứu là 14,6%, hầu hết nằm trong nhóm giảm liều và những BN khơng tn thủ điều trị [82].

<b>1.5.2. Tình hình nghiên cứu tái phát TTPL ở trên thế giới và Việt Nam</b>

<i><b>1.5.2.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam.</b></i>

Trong nước chưa có nhiều nghiên cứu về tái phát TTPL, có một số nghiên cứu về các thể của TTPL cũng chỉ ra rằng tỷ lệ tái phát của bệnh TTPL là rất cao.

Theo Nguyễn Thị Duyên (1999) thì tỷ lệ tái phát ở bệnh nhân TTPL thể paranoid có bố, mẹ đẻ, anh chị em ruột mắc bệnh là 48,3%. Tái phát ở những

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

bệnh nhân có sự dung nạp của gia đình kém chiếm 27%. Những bệnh nhân duy trì thuốc đều có số cơn tái phát ít hơn hẳn so với những bện nhân duy trì thuốc khơng đều (69% bệnh nhân có một cơn tái phát) [8]. Theo Nguyễn Văn Siêm (1996) khi nghiên cứu về các yếu tố thúc đẩy tái phát TTPL, nhận thấy bệnh nhân TTPL tái phát nhiều cơn thường chủ yếu do uống thuốc duy trì khơng đều đặn [11]. Nghiên cứu Tôn Thất Hưng và cộng sự nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan ở 111 bệnh nhân TTPL thể paranoid tại BV Tâm Thần Huế năm 2011 cho thấy tỷ lệ BN có gia đình mắc TTPL là 18,9%. Tỷ lệ BN khơng uống thuốc chiếm 26,6%. Tỷ lệ BN được quản lý theo Dự án Quốc gia bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng chiếm 46,8% [19]. Nghiên cứu của Phạm Văn Diên (2013), nghiên cứu đặc điểm lâm sàng bệnh nhân TTPL trên 45 tuổi và các yếu tố liên quan đến tái phát TTPL tại tỉnh Vĩnh Long cũng đưa ra yếu tố sang chấn tâm lý, lạm dụng chất và khả năng duy trì thuốc là những yếu tố liên quan đến tái phát TTPL [15].

<i><b>1.5.2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới</b></i>

Các nghiên cứu cho thấy bệnh nhân tái nhập viện dù được điều trị liên tục trong hai năm sau lần điều trị đầu tiên bệnh nhân TTPL là khoảng 40-60%. Theo Hui nghiên cứu 93 BN TTPL đã được điều trị trong vòng 5 năm sau cơn bệnh đầu tiên nhận thấy 70% số này tái phát [52].

Theo W.H.O (1992) 30% - 40% BN TTPL tái phát sau 1 năm kể từ khi ra viện. Hầu hết các tác giả đều nhận thấy tái phát xuất hiện nhiều nhất là trong năm đầu sau lần ra viện đầu tiên. M.I. Herz và S. Lamberti (2009) tỷ lệ tái phát 1 năm chiếm 40%, sau 2 năm chiếm 50% [51]. Chi phí y tế phải chi trả do hiện tượng tái phát bệnh TTPL là rất lớn. Các nghiên cứu từ Hoa Kỳ báo cáo chi phí tái phát vượt quá 6033 $ - 32,753$ trong khoảng thời gian 12-15 tháng. Các nghiên cứu ở Châu Âu báo cáo chi phí vượt quá $ 8665 $-18,676 $ trong thời gian từ 6-12 tháng [73].

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Các kết quả nghiên cứu trên đều cho thấy tái phát là hiện tượng thường gặp ở tất cả các giai đoạn trong bệnh TTPL.

<b>1.5.3. Đặc điểm lâm sàng cơn tái phát</b>

Khoảng 30-40% BN tái phát trong vòng một năm kể từ khi bắt đầu điều trị.

<i><b>1.5.3.1. Những dấu hiệu sớm báo trước tái phát</b></i>

- Thay đổi cảm xúc:

+ Trầm cảm và thiếu quan tâm thích thú + Sợ hãi, lo âu, căng thẳng

+ Dễ bị kích thích, nóng nảy và gây hấn - Thay đổi hành vi tác phong

+ Giảm ăn uống + Cách ly xã hội + Rối loạn giấc ngủ - Thay đổi nhận thức

- Rối loạn trí nhớ hoặc rối loạn sự chú ý - Bối rối, lúng túng trước 1 hoặc 2 vấn đề - Mất kiềm chế quá trình tâm thần

- Các triệu chứng loạn thần sớm: +Ảo thanh

+ Nói một mình

+ Nghi ngờ hoặc ý nghĩ kỳ qi + Cảm giác bị kiểm tra

Theo Nguyễn Thị Duyên (1999), tần suất sau xuất hiện các dấu hiệu báo trước cơn tái phát: Mất ngủ là dấu hiệu thường gặp nhất 100%, đó là biểu hiện nghi ngờ 70%, cảm xúc giận giữ hằn học 50%, hành vi không thích hợp là 47%, thờ ơ 3%, giảm chú ý 6%, thu mình 3% [8]

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Theo Tơn Thất Hưng (2011), triệu chứng khởi phát: Rối loạn giấc ngủ: 93,7%, Ảo thanh bình phẩm: 45%, hoang tưởng bị truy hại: 69,4%, Cảm xúc khơng ổn định: 68%, kích động: 64,9%, giảm khả năng hoạt động xã hội:

Theo ICD 10, khởi phát sớm là một trong những tiên lượng xấu. Tâm thần phân liệt khởi phát sớm, đặc biệt là tuổi vị thành niên dễ tái phát, tiến triển mạn tính, suy giảm trầm trọng các mối quan hệ và sống phụ thuộc [18]. Eaton và cộng sự năm 1998 thực hiện nghiên cứu trên 90 bệnh nhân tâm thần phân liệt ở Ấn Độ cho thấy tuổi khởi phát trên 25 làm tăng nguy cơ tái phát [38]. Ở nghiên cứu này, chúng tơi cũng sẽ phân tích mối liên quan giữa bệnh nhân có khởi phát trước và sau 25 tuổi với khả năng tái phát TTPL.

<i><b>1.6.1.2. Nhận thức của bệnh nhân về bệnh TTPL</b></i>

Sự hiểu biết của BN về TTPL là yếu tố rất quan trọng, nó quyết định thái độ của BN trong việc phịng ngừa các yếu tố dẫn đến tái phát.

Theo Nguyễn Văn Tuấn và cs (2013) nghiên cứu về thực trạng kiến thức về chăm sóc, điều trị của BN TTPL. Đối tượng nghiên cứu gồm 126 BN TTPL điều trị tại trung tâm y tế huyện Lương Sơn tỉnh Hịa Bình. Kết quả: 80,2% BN hiểu biết đúng về biểu hiện bệnh và phương pháp điều trị bệnh, 89,7%BN có kiến thức đúng về phương pháp điều trị, 82,5% biết biện pháp phòng tái phát bệnh TTPL. Tuy nhiên kiên thức dúng về một số dấu hiệu tái phát chiếm 14%-27%. Thời gian tái khám đúng hẹn, duy trì chế độ sinh hoạt hợp lý chiếm 28,6%- 49,2% [12].

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i><b>1.6.1.3. Quá trình điều trị trước khi nhập viện</b></i>

Một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tái phát TTPL đó là BN khơng điều trị duy trì hoặc điều trị không đúng theo phác đồ điều trị của bác sỹ chuyên khoa.

Theo Nguyễn Thị Duyên (1999), lý do BN không uống thuốc là: cho rằng không cần uống thuốc do ngủ được 27%, cho rằng không nên uống thuốc do có độc 60%, khơng nên uống thuốc do bệnh không thể chữa khỏi 13% [8].

Nguyễn Văn Dũng (2016) nghiên cứu 63 BN TTPL tái phát trên 45 tuổi cho thấy tỷ lệ điều trị ngoại trú không đều chiếm 77,8%. Lý do khơng điều trị, cho rằng mình đã khỏi bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất 36,5% [9].

<i><b>1.6.1.4. Thời gian bị bệnh (từ khi khởi bệnh đến thời điểm hiện tại)</b></i>

Tâm thần phân liệt là bệnh tâm thần nặng, tiến triển mạn tính. Thời gian bị bệnh càng dài khả năng hồi phục càng thấp bởi sự xuất hiện các triệu chứng âm tính. Tuy nhiên yếu tố này ít ảnh hưởng đến sự tái phát của TTPL, nó thể hiện kết quả điều trị của đối tượng nghiên cứu. Theo nghiên cứu của Larry (2016) cho thấy những bệnh nhân có thời gian mắc bệnh > 10 năm có nguy cơ tái phát gấp 4,4 lần so với bệnh nhân diễn biến bệnh ≤5 năm [66].

<b>1.6.2. Yếu tố bên ngoài</b>

<i><b>1.6.2.1. Yếu tố di truyền</b></i>

Cơ chế bệnh nguyên bệnh sinh của TTPL chưa rõ ràng, tuy nhiên giả thuyết về đi truyền được nhiều tác giả đề cập đến. Người ta cho rằng yếu tố di truyền trong TTPL là đa nhân tố.

Một số nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc TTPL cao hơn từ 8-10 lần so với quần thể cư dân chung nếu trong gia đình có bố, mẹ, hoặc anh chị em ruột bị TTPL. Nghiên cứu các cặp sinh đôi cùng chứng cho thấy số cịn lại có nguy cơ mắc 50 - 65%.

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Theo nghiên cứu của Kullmann, nếu bố hoặc mẹ mắc TTPL thì 16,4% số con mắc bệnh này, khi cả hai bố mẹ cùng mắc bệnh thì tỷ lệ đó tăng lên 68,1%, 14,3% các anh chị em ruột của người mắc TTPL bị mắc bệnh này. Nếu một đứa trẻ sinh đôi cùng chứng mắc TTPL thì 86,2% trẻ kia cũng mắc bệnh. Những đứa trẻ sinh đôi khác chứng tỷ lệ này giảm xuống 16,4% [65].

Nguyễn Thị Duyên (1999) tỷ lệ BN có bố, mẹ, anh chị em ruột mắc TTPL là 48%, Tỷ lệ BN có cơ, chú, bác, anh chị em họ mắc TTPL là 26,7% [8].

<i><b>1.6.2.2. Sang chấn tâm lý</b></i>

Các sang chấn tâm lý như: ly thân, ly hôn, các mất mát về tình cảm, danh dự, hoặc bị xúc phạm, sỉ nhục…trong cuộc sống hàng ngày cũng góp phần làm cho bệnh TTPL tái phát. Khả năng mất thích ứng với các sang chấn tâm lý, xung đột gia đình tuy khơng đóng vai trị quyết định nhưng thúc đẩy bệnh tái phát [76].

<i><b>1.6.2.3. Lạm dụng chất và bệnh lý cơ thể.</b></i>

- Lạm dụng chất là yếu tố liên quan thúc đẩy tái phát bệnh TTPL. Trong nhiều nghiên cứu, tỷ lệ BN TTPL tái phát do lạm dụng chất khá cao. Nghiên cứu của Kazadi N J B (2008) cho thấy 47,4% BN có lạm dụng chất [60].

- Những bệnh nhiễm trùng thường gặp nhất trước cơn tái phát TTPL là cúm, viêm họng, bệnh đường hô hấp, kịch phát viêm khớp, thương hàn... Các tác giả thấy rằng nhiễm trùng là nhân tố có khả năng gây nên tái phát TTPL.

<i><b>1.6.2.4. Yếu tố nghề nghiệp</b></i>

Nhiều nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ BN không nghề trong quần thể nghiên cứu khá cao. Khơng có việc làm cũng là hậu quả của bệnh TTPL, do sự giảm sút thế năng các hoạt động tâm thần dẫn đến sự hao hụt các kỹ năng nghề nghiệp trước khi mắc bệnh của BN. Do vậy, liệu pháp lao động nhằm phục hồi chức năng nghề nghiệp cho BN là liệu pháp điều trị tốt nhất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<i><b>1.6.2.5. Yếu tố bảo vệ</b></i>

<i>- Sự quan tâm của xã hội đối với BN TTPL</i>

Hiện nay, kiến thức về TTPL được phổ cập, đa số người dân đã có cái nhìn tích cực hơn đối với bệnh nhân TTPL, khơng cịn xa lánh, kỳ thị.

Năm 1999 chính phủ đã đưa Dự án bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng vào thực hiện. Theo Tôn thất Hưng (2011) tỷ lệ BN được điều trị là 77,4%, trong đó tỷ lệ BN được quản lý là 46,8% [19].

<i>- Mức độ dung nạp của gia đình</i>

Vấn đề này đang được quan tâm và đánh giá cao. Môi trường tâm lý tao nên bởi những người thân sống cùng BN có ảnh hưởng rất quan trọng đến tiến triển và hậu quả của bệnh.

Các tác giả chia làm 2 loại: loại người nhà có xúc cảm bộc lộ cao là những người coi BN như kẻ ăn không ngồi rồi, thường xuyên kêu ca, ngắt lời BN, biểu lộ sự khó chịu, sử dụng ngơn ngữ riêng biệt với BN, hắt hủi, làm căng thẳng với BN, bỏ mặc BN. Loại thứ 2 là người có xúc cảm bộc lộ thấp: chấp nhận BN như một quá trình bệnh lý, hiểu những khả năng hạn chế của BN, lắng nghe, đồng tình với BN, sử dụng ngơn ngữ dễ hiểu, đối xử công bằng, động viên, che chở, chấp nhận BN, đưa ra cách giải quyết vấn đề một cách tích cực, khơng làm nặng thêm các mâu thuẫn tiềm tàng, quan tâm đối với BN

Leff (1982) chọn những BN có xúc cảm bộc lộ cao ở người thân và chia thành 2 nhóm: nhóm được điều trị là nhóm mà những người thân của họ đươc giáo dục về bệnh TTPL và điều chỉnh lại xúc cảm bộc lộ cịn nhóm kia thì khơng. Cả 2 nhóm đều được dùng thuốc. Kết quả, tỷ lệ tái phát thấp hơn rõ rệt ở nhóm được điều trị kết hợp với điều chỉnh xúc cảm so với nhóm không điều chỉnh bộc lộ ở người thân sau 2 năm theo dõi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<b>1.6.3. Phòng ngừa tái phát</b>

Thực tế đã chứng minh điều trị duy trì đóng vai trò chủ chốt trong việc ngăn chặn tái phát ở các BN TTPL. Ngoài việc điều trị bằng thuốc thì có 3 yếu tố được đánh giá là quan trọng đó là ảnh hưởng của gia đình, của nền văn hóa và các sự kiện cuộc sống.

Theo G. Ali G và A. Essali (2011) nhận thấy điều trị bằng thuốc có hiệu quả trong việc trì hỗn hơn là ngăn chặn tự phát và làm cho khoảng cách giữa các cơn tái phát được kéo dài ít nhất là 2 lần [25]. Các BN được điều trị bằng CLT mới tỷ lệ tái phát bệnh thấp hơn [23]. Ngoài việc dùng thuốc duy trì người ta cịn thấy cần phải quan tâm đến cuộc sống bệnh nhân TTPL một cách thỏa đáng, tránh các sự kiện khơng có lợi trong cuộc sống, stress, gắng sức... sử dụng các liệu pháp tâm lý thích hợp nhằm cải thiện đời sống tâm

+ BN tiếp nhận được ý nghĩa của cuộc sống từ mọi người xung quanh. + Mọi người xung quanh là rất quan trọng để trợ giúp BN kiểm soát các triệu chứng hoặc những dấu hiệu tái phát sớm của họ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<b>Chương 2</b>

<b>ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b>

<b>2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU</b>

Nghiên cứu của chúng tôi bao gồm 102 bệnh nhân tâm thần phân liệt đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán của ICD-10 tái phát từ 45 tuổi trở lên điều trị nội trú tại Bệnh viện tâm thần Nghệ An.

<b>2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân</b>

Bệnh nhân đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt theo tiêu chuẩn ICD - 10 (1992) mục F.20 hiện tái phát từ 45 tuổi trở lên điều trị nội trú tại Bệnh viện tâm thần Nghệ An từ tháng 4 năm 2019 đến tháng 4 năm 2020.

<b>2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ</b>

- Rối loạn phân liệt cảm xúc, các rối loạn khí sắc có loạn thần. - Rối loạn loạn thần thực tổn giống tâm thần phân liệt.

- Bệnh nhân đang mắc các bệnh lý cơ thể gây rối loạn tâm thần - Các rối loạn loạn thần liên quan đến sử dụng chất gây nghiện. - Tâm thần phân liệt trên 45 tuổi khởi phát lần đầu.

<b>2.1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu</b>

- Đề tài được tiến hành tại tại Bệnh viện tâm thần Nghệ An.

- Thời gian nghiên cứu từ tháng 4 năm 2019 đến tháng 4 năm 2020.

<b>2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU2.2.1. Thiết kế nghiên cứu</b>

Áp dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp phỏng vấn hồi cứu phân tích thơng tin theo chiều dọc q trình bệnh lý từ tiền sử đến hiện tại của từng trường hợp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<b>2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu</b>

Đề tài nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu mô tả lâm sàng trên quần thể bệnh nhân nội trú nên chúng tôi áp dụng cách chọn mẫu thuận tiện đối với tất cả các bệnh nhân có chẩn đoán đúng theo tiêu chuẩn đã chọn trong thời gian nghiên cứu đều được đưa vào mẫu nghiên cứu. Thực tế số lượng mẫu thu được là 102 bệnh nhân.

<b>2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu</b>

<i><b>2.2.3.1. Cơ sở thu thập thông tin</b></i>

- Nguồn thông tin

+ Khám trực tiếp từ bệnh nhân.

+ Phỏng vấn thông qua người thân sống cùng với bệnh nhân, đồng nghiệp, tham khảo hồ sơ, bệnh án, tài liệu chuyên môn từ tuyến trước và các bệnh nhân từ những đợt nằm viện trước.

- Lập bệnh án nghiên cứu theo mẫu thiết kế chuyên biệt, đáp ứng các mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Thu thập ghi chép, đầy đủ, nhất quán các thông tin cần thiết cho nghiên cứu ở tất cả các bệnh nhân nghiên cứu.

- Tìm hiểu tiền sử quá trình phát triển cơ thể và tâm thần, nhân cách tiền bệnh lý các triệu chứng khởi phát, các đợt tái phát của bệnh, các yếu tố liên quan đến tái phát, quá trình điều trị, quá trình thuyên giảm...

- Sử dụng thang PANSS để khảo sát triệu chứng âm tính – dương tính trên bệnh nhân.

<i><b>2.2.3.2. Phương pháp tiến hành</b></i>

<i>- Tiến hành phỏng vấn trực tiếp từng đối tượng nghiên cứu, người nhà để</i>

tìm hiểu về các triệu chứng tâm thần như các rối loạn về tư duy, tri giác, cảm xúc và hành vi...

- Khám lâm sàng chung: nhằm phát hiện và loại trừ các yếu tố thực thể kèm theo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<i>- Khám tình trạng tâm thần từng đối tượng nghiên cứu xác định các triệu</i>

chứng rối loạn tâm thần hiện tại.

- Chú ý đặc điểm các triệu chứng như + Thời gian bắt đầu xuất hiện.

+ Thái độ của bệnh nhân đối với triệu chứng. + Ảnh hưởng của triệu chứng đối với bệnh nhân. + Sự đáp ứng điều trị.

<i>+ Theo dõi hàng ngày, kết hợp với theo dõi và điều trị của bác sĩ tại</i>

các khoa. Các thông tin trong nội dung nghiên cứu được ghi chép đầy đủ trong bệnh án nghiên cứu.

+ Cận lâm sàng

Đánh giá bệnh nhân qua thang PANSS.

Các xét nghiệm cần thiết để loại trừ các bệnh lý thực tổn.

<i>+ Phỏng vấn gia đình BN, khai thác tài liệu chun mơn của khoa</i>

phịng sở tại và từ tuyến trước về các đợt tái phát, tìm hiểu đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến tái phát như yếu tố về gia đình, sang chấn tâm lý, các yếu tố về can thiệp y tế, tính đáp ứng điều trị, thời gian thuyên giảm bệnh.

<b>2.2.4. Công cụ nghiên cứu</b>

- Bảng câu hỏi phỏng vấn được thiết kế phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, tất cả bệnh nhân đều đươc làm hồ sơ bệnh án theo mẫu nghiên cứu thống nhất.

- Sử dụng thang PANSS phần các triệu chứng âm tính, triệu chứng dương tính để đánh giá sự thay đổi của các triệu chứng lâm sàng qua các thời sau nhập viện và trước khi ra viện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

+ Thang dương tính bao gồm 7 mục như sau: P1: Các hoang tưởng

P2: Rối loạn hình thức tư duy: tư duy rườm rà, tư duy phi logic, tư duy ngắt quãng, lịm dần, liên tưởng rời rạc...

P3: Hành vi ảo giác

P4: Phấn khích/kích động: tăng hoạt động, tăng cảnh giác với những kích thích và đáp ứng, cảm xúc không ổn định quá mức. Đánh giá thông qua các biểu hiện của hành vi trong quá trình thăm khám cũng như hỏi người nhà.

P5: Tính tự cao

P6: Đa nghi/ ý tưởng bị hại

P7: Tính thù địch: Thể hiện qua ngôn ngữ hoặc cử chỉ không lời biểu hiện sự giận dữ, dùng lời mỉa mai, châm biếm, bạo hành bằng ngơn ngữ, N5: Khó tư duy trìu tượng

N6: Thiếu tự chủ/tiếp tục các cuộc trò chuyện N7: Tư duy định hình

+ Thang đánh giá Tâm thần chung gồm các mục như sau: G1: Bận tâm về các triệu chứng cơ thể

G2: Lo âu

G3: Cảm giác tội lỗi G4: Căng thẳng

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

G14: Kiểm soát xung động kém

G15: Ưu tư: quá bận tâm hoặc say mê với các suy nghĩ và cảm giác nội tâm, có những trải nghiệm tự kỷ làm ảnh hưởng không tốt đến các hành vi thích nghi và các mối quan hệ người khác.

G16: Tránh né xã hội

-Mỗi mục sẽ được chấm điểm theo 7 mức độ như sau

<i>+ Bệnh nhân khơng có triệu chứng nêu trong thang</i> : 1 điểm

<i>+ Có triệu chứng mức độ trung bình</i> : 4 điểm

<i>+ Có triệu chứng mức độ giữa trung bình và nặng</i> : 5 điểm

- Các điểm số từ 2 đến 7 tương ứng với mức độ tăng dần về độ nặng của triệu chứng:

<i>+ 2 điểm (tối thiểu) để chỉ một bệnh lý chưa rõ ràng, còn nghi vấn và</i>

ranh giới giữa bình thường và bệnh lý.

<i>+ 3 điểm (nhẹ) khi triệu chứng rõ ràng hiện diện nhưng không nổi bật</i>

lắm và ít ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<i>+ 4 điểm (trung bình) khi triệu chứng biểu hiện một vấn đề quan</i>

trọng nhưng chỉ xảy ra đôi khi hoặc chỉ ảnh hưởng vừa phải đến sinh hoạt hàng ngày.

<i>+ 5 điểm (trung bình hoặc nặng) để chỉ các biểu hiện rõ rệt gây ảnh</i>

hưởng rõ ràng trên hoạt động của bệnh nhân nhưng không chi phối hồn tồn và đơi khi có kiểm sốt được theo ý muốn.

<i>+ 6 điểm (nặng) thể hiện một bệnh lý rõ, hiện diện rất thường</i>

xuyên, ảnh hưởng nặng nề đến đời sống bệnh nhân và thường cần đến sự giám hộ trực tiếp

<i>+ 7 điểm (rất nặng) thể hiện mức độ nghiêm trọng nhất của bệnh lý</i>

tâm thần. Các rối loạn ảnh hưởng nặng nề đến hầu hết hoặc tồn bộ các chức năng chính của đời sống, cần có sự giám hộ chặt chẽ và trợ giúp

- Nghề nghiệp bao gồm các nghề thường gặp: nông dân, công nhân, cán bộ viên chức, hưu trí, tự do, thất nghiệp...

- Trình độ văn hóa: tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông, cao đẳng

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

+ Tuổi khởi phát bệnh được phân chia theo các khoảng: < 15 tuổi, 16 -24 tuổi, 25 - 34 tuổi, 35 - 44 tuổi.

+ Tuổi hiện tại của nhóm được phân chia theo các khoảng: 45 - 49 tuổi, 50 - 54 tuổi, 55 - 59 tuổi, từ 60 tuổi trở lên.

- Các thể bệnh TTPL được phân loại theo ICD - 10 của nhóm bệnh nhân nghiên cứu tại thời điểm nghiên cứu.

- Các thể bệnh TTPL được phân loại theo ICD - 10 của nhóm bệnh nhân tại thời điểm đầu tiên khởi phát bệnh.

- Mối liên quan của tuổi khởi phát bệnh với các thể bệnh TTPL tại thời điểm nghiên cứu.

- Chúng tôi đánh giá các triệu chứng rối loạn tâm thần: rối loạn tư duy, hành vi, cảm xúc... theo các triệu chứng dương tính và âm tính.

<i>Trình tự đánh giá các triệu chứng như sau+ Đặc điểm, tính chất.</i>

<i>+ Số lượng triệu chứng kết hợp.+ Thời gian tồn tại của triệu chứng.Khảo sát rối loạn về tư duy</i>

- Các rối loạn nội dung tư duy được phân tích đánh giá là § Hoang tưởng liên hệ

§ Hoang tưởng bị hại. § Hoang tưởng bị chi phối. § Hoang tưởng bị theo dõi. § Hoang tưởng ghen tng. § Hoang tưởng tự buộc tội. § Hoang tưởng kỳ quái. § Hoang tưởng tự cao. § Hoang tưởng gán ý.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

§ Tư duy vang thành tiếng. § Tư duy bị phát thanh. § Tư duy bị bộc lộ.

<i>Các rối loạn nội dung tư duy được phân tích ở các khía cạnh sau.</i>

- Đặc điểm, tính chất của triệu chứng ở giai đoạn bệnh từ 45 tuổi trở lên. - Số lượng triệu chứng kết hợp trên bệnh nhân ở nhóm nghiên cứu. - Thời gian tồn tại của triệu chứng dưới tác động của điều trị. - Các rối loạn hình thức tư duy cần phân tích đánh giá:

§ Tư duy khơng logic. § Trả lời bênh cạnh. § Tư duy dồn dập. § Tư duy lộn xộn. § Chơi chữ.

§ Tự đặt tiếng nói riêng. § Tư duy nghèo nàn. § Tư duy ngắt quãng. § Tư duy chậm chập. Khảo sát rối loạn tri giác - Khảo sát các loại ảo giác

- Số lượng ảo giác trên BN ở nhóm nghiên cứu.

- Phân tích đặc điểm của ảo giác như tính chất xuất hiện, tính chi phối, vị trí của chúng và đáp ứng của bệnh nhân với các loại ảo giác trên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<i>Khảo sát rối loạn cảm xúc.</i>

- Các triệu chứng rối loạn cảm xúc cần phân tích § Cảm xúc khơng thích hợp.

§ Bàng quan, thờ ơ. § Cảm xúc cùn mịn.

<i>Khảo sát rối loạn các hoạt động.</i>

Rối loạn hoạt động có ý chí phân tích trên các mặt

- Thiếu ý chí thể hiện trong cách ăn mặc, tự vệ sinh, tính thụ động thiếu sáng tạo trong công việc lao động và học tập...

- Giảm hoạt động xã hội thể hiện ở sự ngại giao tiếp với xung quanh, với

<i>người thân, khơng thích tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí...</i>

- Rối loạn vận động thể hiện như kích động tâm thần vận động hay vận động chậm chạp...

<i>Rối loạn hoạt động bản năng được phân tích các mặt.</i>

- Bản năng ăn uống: ăn bình thường, nhiều, ít, ăn vật bẩn. - Giấc ngủ: ngủ bình thường, ngủ ít, khơng ngủ.

<i>- Bản năng tình dục: bình thường, giảm, khơng sinh hoạt, loạn dục.</i>

<i><b>2.2.5.3. Nhận xét về điều trị</b></i>

Đánh giá kết quả điều trị sự thay đổi các triệu chứng loạn thần qua đánh giá thang PANSS: lúc vào viện và trước khi ra viện.

<i><b>2.2.5.4. Các yếu tố liên quan đến tái phát</b></i>

- Các đặc điểm của bệnh và tái phát (hoặc thời gian ổn định bệnh)

+ Đặc điểm tái phát trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu gồm thống kê số lần tái phát trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu.

+ Mối liên quan giữa các thể bệnh hiện tại và thời gian đáp ứng điều trị của đợt bệnh này.

- Yếu tố gia đình, xã hội

</div>

×