Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Lịch sử đảng bài thảo luận thắng lợi của miền bắc trong 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.3 MB, 31 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Hà Nội, Năm 2022

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i><small>1.1.3. Nhiệm vụ đối với cách mạng cả nước (trong đó có miền Bắc)...6</small></i>

<small>1.2. Đường lối cách mạng ở miền Bắc (1954-1975)...6</small>

<small>CHƯƠNG II: THẮNG LỢI CỦA MIỀN BẮC TRONG 21 NĂM XÂY DỰNG CNXH (1954-1975)...10</small>

<small>2.1. Thắng lợi trong xây dựng CNXH...10</small>

<i><small>2.1.1 Quá trình và thắng lợi trong xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954 - 1965)...10</small></i>

<i><small>2.1.2 Quá trình và thắng lợi trong xây dựng CNXH ở miền Bắc (1965 - 1975)...13</small></i>

<small>2.2. Thắng lợi trong thực hiện nhiệm vụ hậu phương chi viện cho tiền tuyến miền Nam...16</small>

<small>2.3. Đứng vững trong hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ...20</small>

<i><small>2.3.1: Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ (1964 - 1968)...20</small></i>

<small>3.1. Hạn chế trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc ( 1954 - 1975)...24</small>

<small>3.2. Bài học rút ra từ quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954 – 1975)...25</small>

<i><small>1. Quan tâm đến đặc thù vùng miền...25</small></i>

<i><small>2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế...25</small></i>

<i><small>3. Tầm quan trọng của sự lãnh đạo đúng đắn...25</small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

LỜI MỞ ĐẦU

Trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, đi đơi với việc bảo vệ và giữ gìn độc lập cho đất nước thì việc dựng nước, xây dựng Tổ quốc cũng là một trọng trách vô cùng to lớn. Việc dựng nước và giữ nước luôn đi song hành với nhau thể hiện rõ nhất qua câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có cơng dựng nước, bác cháu ta phải giữ lấy nước.” Chính vì thế, mặc dù phải căng mình với rất nhiều cuộc chiến tranh nhưng đất nước ta vẫn ln duy trì việc phát triển đất nước. Đặc biệt là công cuộc xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Đây là một giai đoạn đặc biệt khi mà miền Nam bị Mỹ giày xéo, nhân dân miền Nam còn chịu sự áp bức của nguỵ quyền và quân xâm lược. Trong khi đó miền Bắc vừa phải căng mình chống chọi lại các cuộc khơng kích tàn bạo của Hoa Kỳ, vừa sản xuất cung cấp sức người sức của chi viện cho miền Nam ruột thịt.

Dù có những khó khăn thử thách như thế, miền Bắc vẫn phát triển và xây dựng xã hội chủ nghĩa đạt được nhiều thắng lợi kết quả to lớn. Và đây cũng chính là đề tài thảo luận của nhóm 8 chúng em “Thắng lợi của miền Bắc trong 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954-1975).”

Chúng em mong nhận được sự đóng góp của cơ để chúng em có thể hồn thiện hơn. Chúng em chân thành cảm ơn cơ!

Các thành viên nhóm 8.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

CHƯƠNG I: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU 1954 VÀ ĐƯỜNG

- Hệ thống XHCN tiếp tục lớn mạnh, gia tăng số lượng và đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật nhất là Liên Xô. Chế độ XHCN được xây dựng ở hàng loạt quốc gia ở khu vực Châu Âu: Cộng hoà dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary,...ở khu vực Châu Á là Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên; ở khu vực Mỹ La-tinh có Cuba. Hệ thống XHCN đã được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển về khoa học kỹ thuật, quốc phòng của Liên Xô làm tăng vị thế của các nước xã hội chủ nghĩa trên trường quốc tế.

- Phong trào giải phóng dân tộc ở Á - Phi - Mỹ La-tinh phát triển mạnh mẽ. Những cuộc đấu tranh vũ trang, những lực lượng cách mạng chiếm ưu thế trong dân tộc, xu hướng độc lập – dân chủ - hoà bình - trung lập... Ở khu vực Châu Mỹ La-tinh, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh, đặc biệt là sự thành công của cách mạng Cuba ngày 1/1/1959. Lịch sử gọi năm 1960 là năm Châu Phi khi năm 1960 có tới 17 quốc gia giành độc lập dân tộc.

- Phong trào hồ bình, dân chủ lên cao ở các nước tư bản. Các phong trào này góp phần làm suy yếu chế độ thực dân cũ, phá vỡ các mảng thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.

<i>1.1.1.2. Khó khăn</i>

- Là một trong những nước lớn góp phần quyết định vào thắng lợi của phe Đồng minh trong chiến tranh, lại là nước giàu mạnh nhất sau chiến tranh, Mỹ nuôi tham vọng làm bá chủ thế giới. “ Chiến lược toàn cầu “ phản cách mạng được xây dựng và thực hiện xuyên suốt các đời tổng thống Mỹ với mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới tiêu diệt XHCN; đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và chi phối các nước đồng minh của Mỹ. Ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã triển khai chiến lược tồn cầu từ rất sớm, trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm. Do Việt Nam nằm trong khu vực có tiềm năng lớn về kinh tế, vị trí chiến lược quan trọng về quân sự, Việt Nam lại là tiêu điểm của phong trào giải phóng dân tộc đang sơi sục ở Châu Á

- Thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chạy đua vũ trang giữa hai phe TBCN và XHCN, đứng đầu là Mỹ và Liên Xô. Chiến tranh lạnh đã đặt thế giới trong tình trạng căng thẳng. Các cường quốc mải miết chạy đua vũ trang, chi số tiền khổng lồ, đầu tư công sức vào chế tạo các loại vũ khí huỷ diệt, xây dựng căn cứ quân sự khiến cho chiến tranh thế giới có nguy cơ xảy ra.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

- Sự bất đồng, chia rẽ trong phe XHCN nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Sự chia rẽ bắt đầu vào cuối thập niên 1950, phát triển dần thành xung đột biên giới vào tháng 4 và tháng 5/1962, lên đến đỉnh điểm là đổ máu giữa hai nước Xô - Trung mùa xuân 1969. Sự chia rẽ này diễn tiến theo nhiều cách khác nhau cho đến cuối thập niên 1980. Sự chia rẽ này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức mạnh và uy tín của chủ nghĩa xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

<i><b>1.1.2. Hoàn cảnh trong nước</b></i>

<i>1.1.2.1. Thuận lợi</i>

Ở trong nước, thuận lợi là đã có miền Bắc được hồn tồn giải phóng, làm căn cứ địa hậu phương cho cả nước. Thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn trước sau 9 năm kháng chiến. Có ý chí độc lập thống nhất của nhân dân cả nước. Cụ thể:

Sau 9 năm chiến đấu ngoan cường, thông minh, gan dạ, đầy sáng tạo của quân và dân ta, đặc biệt là sau thất bại trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ năm 1954, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ (20-7-1954) công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng dưới tinh thần đấu tranh kiên quyết của nhân dân ta, nên đúng 16 giờ ngày 9-10-1954, những tên lính Pháp cuối cùng đã rút qua cầu Long Biên; ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội. Cùng ngày, qn ta tiến vào tiếp quản Thủ đơ giải phóng rợp cờ, hoa, biểu ngữ, vang dậy tiếng hoan hô của đồng bào mừng đón đồn qn chiến thắng trở về. Ngày 1-1-1955, tại quảng trường Ba Đình lịch sử đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể của hàng chục vạn nhân dân Hà Nội chào mừng Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Thủ đơ. Ngày 16-5-1955, tồn bộ qn đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hồ bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

=> Đây là những thuận lợi vô cùng quan trọng để miền Bắc có thể tiến hành giải phóng miền Nam.

<i>1.1.2.2. Khó khăn</i>

- Kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu

Sau khi Pháp rút quân, ta tiếp quản lại miền Bắc, dân số không mấy thay đổi nhưng kinh tế thì lại gặp rất nhiều khó khăn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về cảnh tượng của miền Bắc lúc đó như sau: "chiến tranh xâm lược của bọn thực dân đã làm cho kinh tế nước ta kiệt quệ. 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất khơng có nước tưới để cày cấy, các cơng trình thuỷ lợi đều bị phá huỷ, 1/4 số trâu bò bị bắn giết. Hàng chục vạn nóc nhà, hàng trăm thị trấn lớn nhỏ bị đốt trụi. Số nhà máy đã ít ỏi lại đều bị giặc tàn phá, máy 8 móc bị tháo dỡ mang đi, sản xuất bị bế tắc. Đường xá, cầu cống, xe cộ phần lớn bị phá hoại. Ở thành phố, hàng chục vạn công nhân thất nghiệp. Nạn đói đe doạ khắp nơi".

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Trong nơng nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc bị thiệt hại nặng nề: 1.430.000 ha ruộng đất bị bỏ hoang, hàng vạn trâu bị bị giết hại, nơng cụ bị đốt hủy, nhiều cơng trình thủy nơng bị phá hủy. Kỹ thuật canh tác thô sơ, thiên tai nặng nề, nạn đói đe dọa khắp nơi, làng mạc bị đốt phá trơ trụi, xơ xác....Nông dân miền Bắc lúc này chỉ còn lại là một nền kinh tế sản xuất nhỏ, manh mún, lạc hậu, gặp phải rất nhiều khó khăn trong sản xuất.

Trong cơng nghiệp, phần lớn nhà máy xí nghiệp khơng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên liệu, nhiên liệu máy móc thiếu nghiêm trọng. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá hoại.

Trong giao thông vận tải, mạch máu của nền kinh tế bị phá hủy nghiêm trọng. Hàng nghìn km đường sắt bị tàn phá, 3.500 cầu cống bị 9 phá hủy, phương tiện vận tải thiếu thốn, việc giao lưu giữa các vùng gặp nhiều khó khăn. Thương nghiệp bị đình đốn, sản xuất ngừng trệ, lưu thơng phân phối khó khăn, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng. Tiền tệ chưa thống nhất, nền kinh tế quốc dân ở miền Bắc mất cân đối gay gắt. Hàng chục vạn người thất nghiệp.

Miền Bắc lúc này gặp rất nhiều khó khăn trong việc bắt tay vào làm nhiệm vụ kinh tế mới và làm hậu phương vững chắc cho miền Nam.

- Đất nước bị chia cắt làm hai miền

Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đơng Dương (7-1954). Miền Bắc nước ta đã hồn tồn giải phóng, miền Nam cịn tạm thời do phía Pháp quản lý. Đất nước trước mắt bị chia làm hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau, quy định lấy vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam. Thế nhưng, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưu nói trên, ngày 7- 7-1954, Mỹ đã đưa Ngơ Đình Diệm về Sài Gịn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Sau khi dựng lên chính quyền Ngơ Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân dân miền Nam trong tay khơng có vũ khí. Đến hạn hai năm, tháng 7-1956, Diệm tuyên bố. "Sẽ khơng có hiệp thương tổng tuyển cử, vì chúng ta không ký Hiệp định Giơnevơ, bất cứ phương diện nào chúng ta cũng không bị ràng buộc bởi Hiệp định đó". Bằng một loạt hành động như bầy trò "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại, tổ chức bầu cử riêng rẽ, lập quốc hội lập hiến (tháng 5 -1956), ban hành hiến pháp của cái gọi là "Việt Nam cộng hoà" (tháng 10-1956), Diệm đã trắng trợn từ chối và phá hoại việc thống nhất Việt Nam

- Đế quốc Mỹ trở thành kẻ thù chính

Tháng 9-1954, Mỹ lôi kéo được một số đồng minh như Pháp, Anh... và một số nước Đông Nam Á lập ra khối "Liên minh quân sự Đông - Nam Á" (SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Mỹ đã thi thố ở Việt Nam 4 chiến lược chiến tranh, ứng dụng từ 3 lần thay đổi chiến lược toàn cầu, do 5 đời tổng thống kế tiếp nhau thực hiện từ năm 1953 đến năm 1975. Chưa bao giờ Mỹ huy động được sức mạnh của cả nước Mỹ cùng các nước phe Mỹ, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị,văn hóa, khoa học kỹ thuật và quân sự như là trong thời kỳ họ tiến hành chiến tranh Việt Nam. Ý chí và quyết tâm của Mỹ khi đánh Việt Nam không phải chỉ nhằm khuất phục một dân tộc, dập tắt một ngọn lửa đấu tranh vì độc lập tự do, mà cịn nhằm đe dọa nhiều nước khác, đồng thời thể nghiệm sức mạnh của Hoa Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XX.

Đánh giá đúng bản chất, âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 7-1954) chỉ rõ: “Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân u chuộng hồ bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông Dương”.

<i><b>1.1.3. Nhiệm vụ đối với cách mạng cả nước (trong đó có miền Bắc)</b></i>

Qua những khó khăn của Đất nước sau 1954, Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải vạch ra được đường lối đúng đắn, phù hợp với đặc điểm của đất nước và xu thế chung của thời đại.Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng”, đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của cách mạng nước ta là: từ chiến tranh chuyển sang hồ bình; nước nhà tạm chia cắt làm hai miền, miền Bắc đã hồn thành giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng cịn nhiều khó khăn. Mỹ thay Pháp và biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới; từ nông thôn chuyển vào thành thị; từ phân tán chuyển sang tập trung. Nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển nông nghiệp, ổn định xã hội.

Tại Hội nghị lần thứ 7 (3-1955) và Hội nghị lần thứ 8 (8-1955), xác định đế quốc Mỹ là kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Việt Nam. Nhiệm vụ của cách mạng là: “Phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam”. Trong đó: Tháng 9-1954 Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau 9 năm chiến tranh.

1.2. Đường lối cách mạng ở miền Bắc (1954-1975) - Quá trình hình thành, phát triển đường lối:

Tháng 9-1954 Bộ Chính trị đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau 9 năm chiến tranh

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Hội nghị lần thứ bảy (3-1955) và lần thứ tám (8-1955) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam, công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hồ bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.

Đến tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14 đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958- 1960). Cũng như tư duy, nhận thức chung của các nước xã hội chủ nghĩa anh em lúc đó, coi nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội là có 2 thành phần, (quốc doanh và tập thể), Hội nghị đã xác định phải cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và buôn bán nhỏ, tư bản tư doanh, khuyến khích chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức tồn dân và tập thể. Mục tiêu trước mắt là xây dựng, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà

Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ 16 Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nơng nghiệp, xác định hình thức và bước đi của hợp tác xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đơi với thủy lợi hóa và tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị chỉ rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hoà bình đối với giai cấp tư sản. Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, về kinh tế không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách chuộc lại, thơng qua hình thức cơng tư hợp doanh, sắp xếp cơng việc cho người tư sản trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao động.

Kết quả của ba năm phát triển kinh tế-văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958-1960) đã tạo nên những chuyển biến cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. miền Bắc được củng cố, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn văn khai mạc, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”. Đại hội đã thảo luận và thơng qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và thông qua Nghị quyết về Nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và báo cáo về Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,....

- Đường lối cách mạng XHCN tại Đại hội III (1960)

+ Đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH:

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN đây là một đặc điểm lớn và cũng là khó khăn lớn nhất đối với miền Bắc. Sau khi kháng chiến chống Pháp, kinh tế miền Bắc là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, manh mún… lại mất cân đối nghiêm trọng. Chỉ có sức mạnh của chế độ XHCN mới có thể giúp miền Bắc vừa giải quyết được những khó khăn, thử thách, vừa có thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước.

Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt thành 2 miền với 2 chế độ chính trị xã hội khác nhau, Đảng vẫn xác định đưa miền Bắc đi lên CNXH, điều này thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đảng xác định miền Bắc đi lên xây dựng CNXH là để phục vụ cho mục tiêu chung của cách mạng cả nước. Cách mạng miền Bắc tuy thực hiện chiến lược khác với miền Nam nhưng đều hướng tới một mục tiêu chung là đánh đuổi đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH.

Miền Bắc tiến lên xây dựng CNXH trong hoàn cảnh thuận lợi có sự giúp đỡ của các nước XHCN. CNXH trong giai đoạn này đã trở thành một hệ thống trên thế giới , đang ở vào thời điểm củng cố lớn mạnh, đã tỏ rõ tính ưu việt, có sức mạnh chinh phục trái tim và khối óc của nhân dân tiến bộ. Việc các nước XHCN có những bước phát triển là cơ sở quan trọng cho Đảng xác định đường lối đưa miền Bắc tiến lên CNXH.

+ Quan điểm chung về CMXHCN ở miền Bắc:

Về tính chất: Xuất phát từ đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một q trình cải biến cách mạng về mọi mặt. Đó là quá trình đấu tranh gay go giữa hai con đường, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật trước tiên là lĩnh vực kinh tế.

Về nhiệm vụ: Cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội về kinh tế được xem là hai mặt của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, hai mặt này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa được xem là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Cùng với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, nhằm thay đổi cơ bản đời sống tư tưởng, tinh thần và văn hóa của tồn xã hội phù hợp với chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.

Về mục tiêu: Nhằm đưa miền Bắc từ một nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu sang nền kinh tế cân đối và hiện đại.

+ Đường lối chung:

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Về định hướng: Đại hội đã đề ra đường lối chung trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta là: Đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, lao động cần cù của nhân dân ta và đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc trở thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.

Về nhiệm vụ: Phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản để thực hiện cải tạo kinh tế theo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh; thực hiện cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có cơng nghiệp hiện đại, nơng nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến.

Tuy vẫn còn một số hạn chế trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn giản đơn, chưa có dự kiến về chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; song thành công cơ bản, to lớn nhất của Đại hội lần thứ III của Đảng là đã hoàn chỉnh đường lối chiến lược chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hồ bình thống nhất Tổ quốc.

Đó chính là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam vừa phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã phát huy và kết hợp được sức mạnh của hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của cả Liên Xơ và Trung Quốc, do đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp đề dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đặt trong bối cảnh Việt Nam và quốc tế lúc đó, đường lối chung của Đảng cịn là sự thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế thời đại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

CHƯƠNG II: THẮNG LỢI CỦA MIỀN BẮC TRONG 21 NĂM XÂY DỰNG CNXH (1954-1975)

2.1. Thắng lợi trong xây dựng CNXH

<i><b>2.1.1 Quá trình và thắng lợi trong xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954 - 1965)</b></i>

Hoàn thành cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế quốc dân (1955-1957) - Cuộc vận động cải cách ruộng đất ở miền Bắc từ sau hồ bình lập lại, đến tháng 6-1955 được tiến hành ở 735 xã, bao gồm 1.608.294 nhân khẩu. Tiếp đó tháng 12-1955, cải cách ruộng đất đợt 5 được triển khai ở 1.720 xã, có trên 6 triệu người trong 20 tỉnh và 2 thành phố. Tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đợt 5 kết thúc ở toàn bộ vùng đồng bằng, trung du và 280 xã miền núi. Ở miền Bắc đã chia 810 nghìn ha ruộng đất, 74 nghìn con trâu, bị cho 2,1 triệu hộ nông dân (với hơn 10 triệu dân).

=> Cuộc vận động cải cách ruộng đất năm 1956 đã đạt kết quả là: Chia 334.100 ha ruộng cho nơng dân; hồn thành xóa bỏ giai cấp địa chủ, xóa bỏ tàn dư chế độ phong kiến ở miền Bắc; nâng cao quyền làm chủ của nông dân trong nơng thơn.

- Trong q trình cải cách ruộng đất, Đảng đã phát hiện sai lầm, đến tháng 4-1956 đã có chỉ thị sửa chữa những sai lầm ấy. Ngày 18-8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào nơng thơn và cán bộ nói rõ thắng lợi và sai lầm của cải cách ruộng đất. Chủ tịch khẳng định cải cách ruộng đất là thắng lợi to lớn, nhưng đã mắc những khuyết điểm, sai lầm và “ Chúng ta cần phát huy những thắng lợi đã thu được, đồng thời chúng ta phải kiên quyết sửa chữa những sai lầm”.

=> Đến cuối năm 1957, công tác sửa sai đã đưa lại kết quả tốt. Nông thôn miền Bắc dần dần ổn định. Nội bộ Đảng đồn kết nhất trí. Lịng tin của quần chúng đối với Đảng và Chính phủ được khơi phục.

Bên cạnh việc thực hiện những nhiệm vụ trên, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương tập trung mọi nỗ lực để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định và bước đầu nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân:

- Trong nông nghiệp: nhân dân đã khôi phục sản xuất trên những vùng đất bỏ hoang, củng cố hệ thống thủy nông, đê điều, đẩy mạnh sản xuất phân bón, gây dựng lại số trâu bò bị thiệt hại trong chiến tranh, cải tiến nông cụ, phương thức canh tác… Đến năm 1956, miền Bắc sản xuất hơn 4 triệu tấn lương thực, nạn đói giáp hạt được đẩy lùi.

- Trong cơng nghiệp, ta đã khơi phục được 29 xí nghiệp cũ, xây mới 55 xí nghiệp mà chủ yếu là trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng. Kết quả: giá trị tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh tăng từ 28 tỷ đồng năm 1955 lên 232 tỷ đồng năm 1957. Giao thông vận tải: nhà nước đã đầu tư khá lớn cho lĩnh vực giao thông vận tải và bưu điện: Năm 1954 dành 54.4% tổng số vốn đầu tư cho xây dựng và kiến thiết cơ bản, năm 1956 giảm xuống 28.4%, đến 1957 là 20.9%. Nhờ được đầu tư lớn, giao thông vận tải được khôi phục nhanh chóng: khơi phục 657 km đường sắt, 168 cầu cống trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

3 năm từ 1955 đến 1957; đường bộ khôi phục được 1624 km, sửa chữa lớn 1.660km, làm mới 600km đường trục chính …

- Thương nghiệp: nhà nước đẩy mạnh phát triển mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán; ngoại thương đúng nghĩa kể từ khi nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà thành lập đến thời điểm này.

- Các ngành văn hóa, giáo dục, y tế phát triển nhanh chóng: từ năm 1955 đến 1957, miền Bắc có hơn 1 triệu người thoát nạn mù chữ, số người được bổ túc văn hóa cấp 1 và cấp 2 tăng nhanh; năm học 1956 - 1957, miền Bắc có 606.000 học sinh vỡ lịng 952.000 học sinh phổ thơng 3.664 sinh viên. Năm 1957, miền Bắc có 55 bệnh viện, 13 viện điều dưỡng, 85 bệnh xá, 19.700 giường bệnh, 362 nhà hộ sinh, 5130 ban phòng bệnh, nhiều bệnh xã hội, truyền nhiễm bị đẩy lùi.

=> Nền kinh tế quốc dân đến cuối năm 1957 căn bản được phục hồi. Tổng sản lượng công nghiệp và nông nghiệp đã đạt xấp xỉ mức năm 1939. Sản lượng lương thực đạt trên 4,5 triệu tấn, vượt xa mức trước chiến tranh. Thành phần kinh tế quốc doanh được củng cố. Mọi hoạt động kinh tế trong nước đã trở lại bình thường. Nhờ đó, miền Bắc đã giảm bớt được khó khăn và bước đầu cải thiện đời sống nhân dân, chuẩn bị bước sang thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cải tạo XHCN, phát triển kinh tế, văn hóa (1958-1960)

- Về nơng nghiệp, trong ba năm, mặc dù năm 1960 có thiên tai lớn, sản xuất vẫn tăng trung bình mỗi năm 5,6%. Cơ cấu nơng nghiệp có biến đổi. Cây cơng nghiệp và chăn nuôi phát triển nhanh hơn, phục vụ yêu cầu sản xuất công nghiệp, xuất khẩu và nâng cao đời sống nhân dân. Phong trào cải tiến kỹ thuật, cải tiến cơng cụ lao động trong nơng nghiệp có nhiều tiến bộ. Nhiều cơng trình thuỷ lợi nhỏ và vừa được xây dựng bảo đảm nước tưới, nước tiêu cho đồng ruộng hợp tác xã và của nông dân. Một số cơng trình lớn được khởi cơng, tiêu biểu là cơng trình thuỷ lợi Bắc-Hưng-Hải.

- Sản xuất cơng nghiệp bình qn hàng năm tăng 21,7%, riêng cơng nghiệp quốc doanh tăng 49,6%. Năm 1960 so với năm 1959, công nghiệp quốc doanh vượt 12,6% và tăng 32,3%. Đặc biệt cơng nghiệp địa phương có đà phát triển mạnh, năm 1960 tăng gấp 10 lần năm 1957. Cơ cấu công nghiệp cũng chuyển biến. Công nghiệp nặng bước đầu được xây dựng. Tỷ trọng nhóm A trong giá trị tổng sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp tăng từ 23,5% năm 1957 lên 32% năm 1960. Công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm năm 1960 so với năm 1957 tăng 60,4%. Hầu hết hàng tiêu dùng trong nước trước đây phải nhập nay đã tiến tới tự cung cấp được một phần quan trọng. Xây dựng cơ bản được đẩy mạnh. Một số cơng trình quan trọng đã được hoàn thành như Nhà máy điện Vinh, Nhà máy điện Lào Cai, mỏ Apatit Lào Cai mở rộng, các nhà máy cao su, xà phòng, thuốc lá ở Hà Nội, nhà máy sứ Hải Dương...

Trên cơ sở sản xuất phát triển, mức sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động được nâng cao một bước. Thu nhập quốc dân tính theo đầu người từ năm 1955 đến năm 1960 tăng gấp đôi, sức mua của xã hội tăng 70%.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

- Đi đôi với cải tạo quan hệ sản xuất, kế hoạch Nhà nước trên nhiều lĩnh vực đã hoàn thành, thành phần kinh tế quốc doanh ngày càng phát triển, có tác dụng lãnh đạo rõ rệt trong nền kinh tế quốc dân. Từ 16 nông trường quốc doanh năm 1957 đã lên 59 nông trường quốc doanh năm 1960. Công nghiệp quốc doanh năm 1960 chiếm 89,9% giá trị sản lượng công nghiệp. Vận tải quốc doanh chiếm 79,7% tổng khối lượng vận tải hàng hóa tính theo tấn/km. Thương nghiệp quốc doanh chiếm 49,5%, nếu kể cả thương nghiệp hợp tác xã và tư bản nhà nước chiếm 91%.

Công tác văn hố, giáo dục,y tế đã thu được những thành tích to lớn. Đến cuối năm 1960, ở miền Bắc, 84,8% số hộ nông dân lao động đã gia nhập hợp tác xã, chiếm 76% tổng diện tích canh tác; trong 41 nghìn hợp tác xã có 4.346 hợp tác xã bậc cao, chiếm 12% tổng số hợp tác xã. Nghề cá có 520 hợp tác xã, chiếm 77,2% tổng số hộ nơng dân. Nghề muối có 269 hợp tác xã, chiếm 85% tổng số hộ làm muối.

Ở thành thị, 100% số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh thuộc diện cải tạo đã được tổ chức thành xí nghiệp cơng tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác. 1.553 chủ tư sản được cải tạo thành người lao động. 90% tổng số thợ thủ công trong diện cải tạo đã tham gia các hợp tác xã thủ công nghiệp bậc vừa và bậc thấp; hơn 7 vạn thợ thủ công chuyển sang sản xuất nông nghiệp. 60% tổng số người buôn bán nhỏ, làm dịch vụ, kinh doanh ngành ăn uống thuộc diện cải tạo đã tham gia hợp tác xã, tổ mua bán, làm đại lý cho thương nghiệp quốc doanh và trên 1 vạn người đã chuyển sang sản xuất. Hoàn thành kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961-1965)

- Nền nông nghiệp hợp tác hố cùng giai cấp nơng dân tập thể đã hình thành và phát triển. Diện tích, năng suất và tổng sản lượng đều tăng, tốc độ tăng bình quân hằng năm về giá trị tổng sản lượng nông nghiệp là 4,1%. Năm 1965, có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt năng suất bình quân cả năm từ 5 tấn thóc/ha trở lên. Cơ sở vật chất-kỹ thuật của hợp tác xã được tăng nhanh. Đầu năm 1965 đã xây dựng được 3.139 điểm cơ khí nhỏ, 7 trạm và 32 đội máy kéo, 33 cơng trình thuỷ lợi lớn, 1.500 cơng trình vừa và nhỏ đã được khôi phục và xây dựng, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho hơn 500.000 ha diện tích trồng trọt. Nơng nghiệp miền Bắc từ một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh, năng suất thấp dần dần trở thành một nền nơng nghiệp phát triển tương đối tồn diện. Thắng lợi lớn nhất của nông nghiệp miền Bắc thời kỳ này là đã giải quyết được phần lớn nhu cầu về lương thực, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và một phần cho xuất khẩu.

- Công nghiệp miền Bắc trong thời kỳ này đã có mức phát triển khá. Từ những cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ bé, chủ yếu là khai thác nguyên liệu và sửa chữa nhỏ, nay đã bắt đầu sản xuất một phần tư liệu sản xuất và phần lớn những vật phẩm tiêu dùng của nhân dân. Vai trị chủ đạo của cơng nghiệp trong nền kinh tế quốc dân bước đầu được phát huy. Các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hố chất, vật liệu xây dựng, v.v., đã hình thành và phát triển nhanh, nhất là ngành điện và ngành cơ khí. So với năm 1955, sản lượng điện năm 1965 tăng gấp 10 lần. Ngành cơ khí được coi là then chốt đã phát triển mạnh và tiến lên sản xuất được các loại máy cơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

cụ chính xác, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 30%. Đến năm 1965 đã xây dựng được 1.132 xí nghiệp cơng nghiệp quốc doanh. Nhiều khu cơng nghiệp phát triển và hình thành ở Hà Nội, Hải Phòng, Việt Trì, Thái Nguyên, Nam Định, Vinh, Hồng Quảng. Một trong những thành quả lớn nhất của công nghiệp miền Bắc thời kỳ 1961-1965 là phục vụ nơng nghiệp có hiệu quả, đặc biệt trong các khâu thuỷ lợi, trang bị máy móc, nơng cụ, phân bón, thuốc trừ sâu, v.v. Trong thời kỳ này, khối lượng tư liệu sản xuất cung cấp cho nông nghiệp tăng bình quân 25%/năm, chiếm 1/4 giá trị tổng sản lượng của cơng nghiệp nặng.

- Về văn hố giáo dục, hầu hết các xã vùng đồng bằng, trung du và nhiều xã miền núi có trường cấp I, cấp II, huyện có trường phổ thơng cấp III. Năm 1965 so với năm 1960, số trường học phổ thông các cấp tăng từ 7.066 lên 10.294, số học sinh phổ thông tăng từ 1.899.600 lên 2.934.900. Tồn miền Bắc có hơn 4,5 triệu người đi học trên tổng số 16 triệu dân. Một số dân tộc ít người đã có chữ viết riêng

- Mạng lưới y tế được xây dựng rộng rãi từ thành thị đến nông thôn. 70% số huyện có bệnh viện. 90% số xã ở đồng bằng và 70% số xã miền núi có trạm y tế. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên.

=> Kế hoạch 5 năm đã hoàn thành, bước đầu hình thành cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế với nền tảng quan hệ sản xuất mới, trong đó sở hữu quốc doanh và tập thể chiếm vị trí tuyệt đối. Những thành tựu của kế hoạch 5 năm 1961-1965 có ý nghĩa rất quan trọng và tiếp tục được phát huy phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước tiến tới ngày toàn thắng 30-4-1975. Cũng từ đây, đội ngũ cán bộ ngành kế hoạch đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm rất bổ ích, đó là những tiền đề để xây dựng kế hoạch chi viện cho miền Nam.

<i><b>2.1.2 Quá trình và thắng lợi trong xây dựng CNXH ở miền Bắc (1965 - 1975)</b></i>

Chuyển hướng xây dựng kinh tế (1965-1968)

Tháng 2/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam phát động trong đoàn viên và thanh niên cả nước hưởng ứng phong trào “3 sẵn sàng” của thanh niên Thủ đô Hà Nội khởi đầu từ ngày 9/8/1964. Tính đến cuối tháng 5/1965, trên tồn miền Bắc đã có hơn 2 triệu 50 vạn nam nữ thanh niên ghi tên tình nguyện “3 sẵn sàng”.

Tiếp đó, ngày 19/3/1965, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã phát động cuộc vận động “3 đảm nhiệm” (sau đổi là “3 đảm đang”) trong giới phụ nữ. Phong trào này đã được phụ nữ toàn miền Bắc nhiệt liệt hưởng ứng. Tính đến cuối tháng 5/1965, đã có trên 1 triệu 70 vạn phụ nữ ghi tên phấn đấu đạt danh hiệu “phụ nữ 3 đảm đang”.

Từ ngày 25-27/3/1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp Hội nghị lần thứ 11 (đặc biệt) về tình hình và nhiệm vụ cấp bách.

Hội nghị nhận định: Tình hình một nửa nước có chiến tranh, một nửa nước có hồ bình đã biến thành tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau ở mỗi miền; trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước của nhân dân cả nước

</div>

×