Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN xây DỰNG ĐẢNG TĂNG CƯỜNG mối LIÊN hệ GIỮA ĐẢNG với NHÂN dân TRONG THỜI kỳ xây DỰNG CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.2 KB, 15 trang )

1

TĂNG CƯỜNG MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN TRONG
THỜI KỲ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Đảng cộng sản và quần chúng lao động là hai nhân tố cơ bản của cách
mạng vô sản. Đảng là người tổ chức , lãnh đạo quần chúng, còn quần chúng là
lực lượng tiến hành cách mạng. Nếu khơng có sự lãnh đạo của đảng cộng sản
thì khơng thể có phương hướng chính trị đúng, cách mạng không thể giành
thắng lợi. Mặt khác nếu khơng có sự đồng tình, ủng hộ của quần chúng thì
Đảng khơng thể có sức mạnh, cách mạng vơ sản không thể thực hiện được.
Sự lãnh đạo của Đảng kết hợp với tính tích cực, sáng tạo của quần chúng tạo
ra cho cách mạng một sức mạnh vô cùng to lớn. Sức mạnh vô địch của Đảng
là mối liên hệ với nhân dân, cũng như sức mạnh dời non lấp biển của nhân
dân bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng. Nói cách khác, liên hệ với quần
chúng là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng cộng sản, là nguồn
gốc sức mạnh của Đảng, là bảo đảm cho sự thành cơng của tồn bộ sự nghiệp
cánh mạng. Củng cố mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân là một vấn đề thuộc
về bản chất của Đảng cộng sản- một Đảng ra đời và tồn tại vì sự nghiệp cách
mạng của giai cấp cơng nhân và đấu tranh cho lợi ích của tồn thể nhân dân
lao động. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của chủ nghĩa Mác- Lênin về xây
dựng Đảng.
Vấn đề củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân
càng trở lên cấp bách và quan trọng trong giai đoạn Đảng lãnh đạo chính
quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây vừa là vấn đề quyết định sự sống
còn của Đảng, vừa là bảo đảm quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của
hệ thống chính trị của xã hội. Bất kỳ một sự làm suy yếu nào mối liên hệ
giữa Đảng và quần chúng cũng đều làm yếu sức mạnh của hệ thống


2


chính trị, làm hạn chế sự phát triển cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
1. Nhận thức về mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân.
Liên hệ mật thiết với nhân dân là thể hiện bản chất sức mạnh từ nguồn
gốc của Đảng, là một vấn đề cơ bản của công tác xây dựng Đảng, đồng thời
cũng là tiêu chuẩn của một Đảng Mác xít. Mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân
được đặt trong mối quan hệ hai chiều, Đảng có vai trị lãnh đạo, là người phục
vụ cho lợi ích quần chúng nhân dân; nhân dân lao động có trách nhiệm và
nghĩa vụ đối với sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Mối liên
hệ giữa Đảng và nhân dân là một tất yếu khách quan để cách mạng giành
thắng lợi. Lênin nói: “ Chúng ta cần những đảng có mối liên hệ thực tế
thường xuyên với quần chúng và biết lãnh đạo quần chúng đó” 1. Người cho
rằng: “ một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất” đối với Đảng là
“ tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng” 2. “Muốn phục vụ quần chúng và đại
biểu cho lợi ích được nhận thức một cách đúng đắn của họ, thì đội tiên phong,
… phải tiến hành tồn bộ hoạt động của mình trong quần chúng… xem mối
liên hệ với quần chúng có được giữ vững khơng, mối liên hệ đó có được mật
thiết khơng. Như thế, và chỉ có như thế, đội tiền phong mới giáo dục và giác
ngộ được quần chúng, đồng thời đại biểu cho những lợi ích của họ, dạy cho
họ biết tổ chức lại, hướng toàn bộ những hoạt động của quần chúng đi theo
một đường lối chính trị giai cấp tự giác”3
Lênin đã định nghĩa Đảng cộng sản như là thể hiện mối quan hệ biện
chứng giữa đội tiền phong của giai cấp công nhân với hàng triệu quần chúng
lao động. Người gọi mối quan hệ đó là mối quan hệ “tin cậy lẫn nhau”, “tín
nhiệm lẫn nhau”. Quần chúng tin tưởng ở Đảng, ủng hộ Đảng và theo Đảng
1

V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiên bộ, M. 1978, t.41, tr 285-286.
Sđd, t. 44, tr.426
3

Sđd, t. 24, tr 51.
2


3

làm cách mạng, trong khi Đảng làm hết mình để phát huy vai trị và khả năng
sáng tạo khơng bao giờ cạn của quần chúng nhân dân. Lênin cho rằng: nếu
khơng liên hệ với quần chúng thì Đảng khơng là cái gì hết, “đội tiền phong
chỉ làm trịn được sứ mệnh của mình một khi biết gắn bó với quần chúng mà
nó lãnh đạo, và thật sự dẫn dắt tồn thể quần chúng tiến lên”4.
Đảng luôn phải giải quyết tốt hai mặt trong mối quan hệ với quần
chúng. Là người lãnh đạo, Đảng có trách nhiệm vạch ra đường lối, phương
châm và giáo dục, động viên, tổ chức quần chúng hành động. Mặt khác, là
đầy tớ trung thành của quần chúng, Đảng phải chịu trách nhiệm trước quần
chúng, phải tự nguyện chịu sự kiểm tra, giám sát, phê phán của quần chúng
đối với sự lãnh đạo của Đảng, cũng như đối với hoạt động của từng đảng bộ,
từng chi bộ, đảng viên.
Trong giai đoạn Đảng lãnh đạo chính quyền xây dựng chủ nghĩa xã hội,
vấn đề củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng nhân dân
càng trở lên cấp bách và quan trọng. Bởi vì, bước vào cách mạng xã hội chủ
nghĩa là bước vào cuộc cách mạng sâu sắc nhất, toàn diện nhất, triệt để nhất,
và do đó nó cũng gay go nhất, phức tạp nhất trong lịch sử lồi người. Nó làm
biến đổi cả một xã hội cũ thành xã hội mới, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc
thượng tầng, từ quan hệ sản xuất đến lực lượng sản xuất, từ đời sống vật chất
đến đời sống văn hố. Đó là cuộc đấu tranh giai cấp hết sức quyết liệt giữa
giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, giữa con đường tư bản chủ nghĩa và con
đường xã hội chủ nghĩa. Nói như Lênin: đó là thời đại rung chuyển vũ bão về
chính trị và kinh tế, thời đại đấu tranh kinh tế cực kỳ sâu sắc. Cuộc cách mạng
này đòi hỏi Đảng cộng sản phải động viên và phát huy đến mức cao nhất tính

tích cực và sáng tạo của quần chúng nhân dân. Lênin khẳng định: “chủ nghĩa
xã hội chỉ có thể xây dựng được khi quần chúng đơng đảo gấp 10, gấp 100 lần
4

V.I. Lênin: Sđd, t.45,tr.28.


4

trước tự bắt tay vào việc xây dựng nhà nước và một đời sống kinh tế mới” 5,
“chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng
nhân dân”6
Khi đã giành được chính quyền và thiết lập được nền chun chính
vơ sản, Đảng cộng sản có thêm điều kiện mới, có một cơng cụ rất sắc bén
để lãnh đạo xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành ngày càng to lớn về
quy mô, phong phú và phức tạp về nội dung, bao trùm lên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Chính sự tăng lên khơng ngừng vai trị lãnh đạo
của Đảng đòi hỏi Đảng phải tiếp tục mở rộng và củng cố mối liên hệ với
quần chúng nhân dân.
Quần chúng nhân dân với việc thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất đã trở thành người chủ chân chính của xã hội. Sau bao nhiêu năm làm nô
lệ và làm thuê, lần đầu tiên họ trở thành người làm chủ vận mệnh sự nghiệp
và vận mệnh của mình, trình độ giác ngộ và hiểu biết của họ ngày càng cao
hơn trước. Đó là kết quả của q trình quần chúng theo Đảng làm cách mạng.
Đó cũng là điều kiện rất thuận lợi để quần chúng không ngừng phát huy khả
năng vơ tận của mình. Chỉ có phát huy vai trò lịch sử vĩ đại của quần chúng
nhân dân mới có điều kiện để củng cố mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng.
Và chỉ có củng cố mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng mới có thể bảo đảm
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Rõ ràng là, củng cố và tăng cường mối lên hệ giữa Đảng và quần chúng

là một địi hỏi tất yếu của cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, là một quy
luật khách quan của công tác xây dựng Đảng. Đây vừa là vấn đề quyết định
sự sống còn của Đảng, vừa là bảo đảm quan trọng cho sự tồn tại và phát triển
của hệ thống chính trị, của xã hội, là điều kiện tất yếu cho cuộc đấu tranh cho
chủ nghĩa xã hội.
5
6

V.I.Lênin:toàn tập, Sđd, t.37, tr.523.
V.I.Lênin: toàn tập, Sđd, t.35, tr.64.


5

Không phải ngẫu nhiên mà các loại kẻ thù của chủ nghĩa xã hội ln
ln tìm mọi cách để vu cáo, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản,
chia rẽ đảng và quần chúng. Bọn tư sản đế quốc, bọn phản động quốc tế , bộn
cơ hội xét lại đang hàng ngày, hàng giờ chĩa mũi nhọn vào các nước xã hội
chủ nghĩa còn lại, dùng những thủ đoạn thâm độc và xảo quyệt để bôi nhọ, hạ
thấp vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản, kích động quần chúng, mưu toan
phá vỡ sự đoàn kết thống nhất giữa Đảng và nhân dân. Củng cố và tăng cường
mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng là quy luật tồn tại và phát triển của bất
cứ đảng cách mạng chân chính nào. Nhưng cũng như các quy luật xã hội
khác. Quy luật này không phát huy tác dụng một cách tự phát, mà phải thông
qua hoạt động tự giác của chủ thể, trong trường hợp này là Đảng Cộng sản,
người đã nhận thức được quy luật khách quan và luôn luôn cố gắng hoạt động
sao cho phù hợp với quy luật khách quan đó. Điều đó có nghĩa là mối liên hệ
giữa Đảng và quần chúng có bền vững hay không, Đảng mạnh hay không
mạnh, là tuỳ thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của chính ngay bản thân Đảng
Cộng sản. Nghệ thuật lãnh đạo của Đảng ở chỗ là kết hợp được vai trò lãnh

đạo của đội tiền phong với sức sáng tạo và nghị lực phi thường của quần
chúng nhân dân. Thành công của Đảng Cộng sản và của cách mạng vô sản là
nhờ thắt chặt được mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng.
Thực tiễn lịch sử quá trình hoạt động, chiến đấu, trưởng thành của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng, sở dĩ Đảng ta tồn tại và có sức
sống mãnh liệt, vượt qua mọi thử thách, lãnh đạo cách mạng giành hết thắng
lợi này đến thắng lợi khác, là nhờ Đảng ta ngay từ đầu đã thắt chặt được mối
liên hệ với quần chúng, không xa rời quần chúng.Trong những năm kháng
chiến, kẻ thù Pháp, Mỹ và tay sai đã dùng trăm phương nghìn kế, khủng bố
dã man nhằm bót chết phong trào cách mạng và tiêu diệt Đảng. Rất nhiều cơ
quan lãnh đạo của Đảng bị vỡ, hàng vạn cán bộ , đảng viên bị giết hoặc bị tù


6

đày. Nhưng Đảng vẫn đứng vững trong quần chúng, vẫn dẫn dắt quần chúng
tiến lên hoàn thành sự nghiệp giải phóng Dân tộc. Quần chúng nhân dân vẫn
một lịng tin theo Đảng, tìm mọi cách để che chở, ni dấu cán bộ của Đảng,
bảo toàn cơ sở Đảng.Trên thực tế, Đảng và nhân dân đã thành một khối
thống nhất bằng sự liên hệ máu thịt bền chặt khơng gì phá nổi. Mối liên hệ
bền chặt giữa Đảng và quần chúng là một trong những truyền thống quý báu,
một bài học kinh nghiệm lớn của Đảng ta.
Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta càng ra sức
chăm lo củng cố và tăng cường mối liên hệ với quần chúng. Bởi vì: “ Sức
mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh,
xa rời quần chúng nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối
với vận mệnh của đất nước”7. Một mặt Đảng ra sức củng cố đội ngũ của
mình về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao năng lực và sức chiến đấu
của mình, bảo đảm lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ cách mạng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc đổi mới xây

dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, Đảng làm hết sức
mình để khơng ngừng phát huy tính tích cực và sáng tạo của quần chúng
nhân dân. Ngay từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976), Đảng ta đã đưa
ra khái niệm “ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa”, nhằm khẳng định vai trò
chủ động sáng tạo của quần chúng nhân dân- nhân tố cơ bản của xã hội mới,
và coi đó là nét đặc trưng quy định nội dung, bản chất và tính ưu việt của
chế độ xã hội chủ nghĩa. Khắc hoạ chế độ xã hội chủ nghĩa như là chế độ
làm chủ tập thể của nhân dân lao động, Đảng ta muốn khẳng định trực tiếp
rằng trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người chủ chân chính cao nhất của đất
nước và xã hội là nhân dân lao động có tổ chức, mà nịng cốt là cơng nơng
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta cho rằng, quyền làm chủ tập thể của
7

ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb ST, HN.1991, tr.5.


7

nhân dân lao động là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là quyền chân
chính của con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong thực tế, từ khi ta
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng và nhà nước ta đã và đang làm
tất cả những gì có thể làm được để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân, coi đây không những là mục đích mà cịn là một động lực, một tiền đề
quan trọng để xây dựng chủ nghĩa xã hội, là một điều kiện tất yếu để củng
cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân.
2. Một số giải pháp tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân
dân trong tình hình mới.
Cơng cuộc đổi mới của nước ta được tiến hành trong hồn cảnh quốc tế
có những biến đổi to lớn, sâu sắc và mau chóng. Nền sản xuất vật chất và đời
sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hố sâu sắc, hàm chứa cả tính tích

cực và tiêu cực, gồm cả thuận lợi và những khó khăn thách thức với các Đảng
Cộng sản và sự nghiệp cách mạng. Chủ nghĩa đế quốc ra sức chống phá các
nước chủ nghĩa xã hội còn lại, coi Việt Nam là một trọng điểm. Trong nước,
bốn nguy cơ Đảng ta đã xác định vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp. Việc nước
ta gia nhập và trở thành thành viên chính thức của WTO càng tạo ra những
thời cơ vận hội và những khó khăn, thách thức lớn. Một bộ phận cán bộ đảng
viên thoái hoá biến chất, tuy khơng nhiều, nhưng làm hại đến thanh danh, uy
tín của Đảng, làm giảm lòng tin của Đảng trong nhân dân, trong khi các thế
lực thù địch dùng mọi luận điệu xun tạc, nói xấu Đảng, lơi kéo Đảng, chia
rẽ Đảng với nhân dân. Sự phát triển cả bề rộng và chiều sâu của nền kinh tế
thị trường nước ta cũng đang đặt ra hàng loạt các vấn đề cần phải giải quyết:
quản lý gắn với dân chủ hoá đời sống; phát triển kinh tế đi với công bằng xã
hội; sự phân hoá giàu nghèo, mất cân đối giữa miền ngược và miền xuôi… là
những vấn đề luôn chi phối đến tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân
dân. Những vấn đề về xã hội và chính sách như: dân chủ, việc làm, chống tiêu


8

cực trong bộ máy của Đảng và nhà nước, tình trạng khiếu kiện ở nhiều nơi
chưa được các cấp, các ngành giải quyết kịp thời còn gây những băn khoăn và
ảnh hưởng đến niềm tin của quần chúng vào Đảng. Những vấn đề trên đều là
những yếu tố cản trở tiến trình liên hệ Đảng với nhân dân. Củng cố và tăng
cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân là một nguyên tắc xây dựng Đảng,
và được tiến hành liên tục, xuyên suốt trong mọi hoạt động của Đảng. Song,
vấn đề then chốt có ý nghĩa quyết định tăng cường mối liên hệ này là Đảng
phải chăm lo đầy đủ và sâu sắc đến đời sống, lợi ích của quần chúng, thật sự
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, củng cố và xây
dựng tổ chức Đảng thật trong sạch , khắc phục những hiện tượng tiêu cực
trong cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng thật sự xứng đáng là người lãnh đạo và

là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Chăm lo lợi ích, hạnh phúc của nhân dân lao động là mục đích thiêng
liêng liêng, là lý tưởng cao quý của Đảng. Phấn đấu hi sinh cho lý tưởng của
Đảng, cho hạnh phúc của nhân dân là lẽ sống của mỗi người cộng sản. Trong
điều kiện hồ bình xây dựng, chăm lo đời sống nhân dân là mục đích trực
tiếp, là nội dung quan trọng trong hoạt động của Đảng và các cơ quan nhà
nước, là vấn đề quyết định sự tín nhiệm và sự gắn bó của quần chúng đối với
Đảng, là một động lực to lớn tạo ra phong trào hành động cách mạng của
quần chúng. Kinh nghiêm thực tế cho thấy, có chăm lo đầy đủ lợi ích của
nhân dân lao động mới thúc đẩy người lao động sản xuất và công tác tốt hơn,
người lao động sẽ gắn bó chặt chẽ với Đảng, với nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa.
Trong những năm qua, Đảng và nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng
chăm lo đời sống nhân dân. Đảng luôn luôn coi việc bảo đảm và cải thiện đời
sống nhân dân là trách nhiệm to lớn, thường xuyên của mình. Tuy vậy, phảI
thừa nhận rằng có những chính sách chưa đáp ứng đúng nhu cầu, nguyên


9

vọng, trình độ của nhân dân; có những địa phương, những cơ sở chưa quan
tâm đúng mức và chưa có biện pháp tích cực để tạo điều kiện cho nhân dân
phát triển sản xuất, bảo đảm đời sống. Trong khi ở nhiều nơi, đời sống nhân
dân cịn nhiều khó khăn, nhiều yêu cầu thiết yếu chưa được đáp ứng, thì có
những cán bộ, đảng viên chỉ lo thu vén cho cá nhân, lợi dụng chức quyền để
làm giầu, sống xa hoa lãng phí. Thậm chí có người nhẫn tâm vơ trách nhiệm
trước những khó khăn của người dân. Trên thực tế, họ đã xa rời nhân dân,
sớm quên đi những ngày tháng sống đồng cam cộng khổ với quần chúng,
được quần chúng nhân dân che chở, bảo vệ, có lẽ đây là đều mất mát lớn nhất
trong tình cảm của quần chúng, là điều quần chúng cảm thấy xót xa, đau buồn

nhất.
Đảng ta đã chỉ rõ; “ Nhân dân ta rất cách mạng, có những phẩm chất rất
quý báu, trải qua trên nửa thế kỷ chiến đấu liên tục, chịu đựng biết bao hi
sinh, gian khổ, luôn luôn nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lao động
cần cù, chiến đấu dũng cảm vì độc lập tự do của tổ quốc và vài chủ nghĩa xã
hội. Trong hoàn cảnh Đảng có sai lầm, khuyết điểm, nhân dân ta vẫn thiết tha
mong đợi Đảng khắc phục sai lầm, đưa đất nước tiến lên. Đảng khơng thể phụ
lịng mong đợi đó của nhân dân…Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải
xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình,
hưởng ứng của quần chúng”8. Phải “lấy việc phục vụ con người làm mục đích
cao nhất của hoạt động”. Trong điều kiện ngày nay, nếu không chăm lo một
cách cụ thể, thiết thực đời sống của nhân dân thì dù có nói bao nhiêu về quan
điểm quần chúng, về quyền làm chủ tập thể của nhân dân cũng đều là vơ
nghĩa và khơng có sức thuyết phục.
Chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn nữa ý nghĩa quan trọng của vấn đề
chăm lo đời sống nhân dân, quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chủ trương
8

ĐCSVN: Văn kiện Đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. ST, HN, 1987, tr.29.


10

quan điểm của Đảng về vấn đề này, có biện pháp cụ thể và tích cực bảo đảm
đời sống nhân dân, trước hết là bảo đảm việc làm, chăm lo cái ăn, mặc, sức
khoẻ, việc học hành…của nhân dân. Thực hiện ngun tắc cơng bằng xã hội,
lối sống có văn hố, bảo đảm an tồn xã hội. Kiên quyết xử lý bằng pháp luật
với những kẻ lợi dụng chức quyền tham ơ vụ lợi, làm giàu bất chính, xâm
phạm lợi ích của nhân dân, khôi phục trật tự kỷ cương trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội. Có như vậy mới làm quần chúng nhân dân tin tưởng, an tâm

lao động sản xuất, cơng tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: “không
sợ thiếu, chỉ sợ phân phối khơng cơng bằng; khơng sợ nghèo, chỉ sợ lịng dân
khơng yên!”.
Thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là một chủ
trương chiến lược, một vấn đề cơ bản trong trong đường lối của Đảng ta.
Trong suốt q trình cách mạng, Đảng ta ln ln kết hợp chặt chẽ sự lãnh
đạo của Đảng với việc phát huy nghị lực sáng tạo của nhân dân, tìm thấy sức
mạnh của mình ở mối liên hệ mật thiết với nhân dân, tạo những điều kiện cần
thiết để nhân dân sáng tạo ra lịch sử của mình một cách tự giác, có tổ chức.
Bước vào cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta cho rằng làm chủ tập thể xã
hội chủ nghĩa của nhân dân lao động là bản chất của chế độ ta. Đảng ta đang
xây dựng và thực hiện một cơ chế tổ chức thích hợp để bảo đảm phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Ở nhiều nơi đã hình thành nền nếp
thường xuyên tổ chức cho quần chúng thảo luận xây dựng đường lối chủ
trương của Đảng, phương hướng nhiệm công tác của đơn vị; phát động quần
chúng thực hiện các quyết định của Đảng; động viên quần chúng tham gia
mọi hoạt động của tổ chức Đảng, giám sát phê bình cán bộ đảng viên. Việc
quần chúng tham gia xây dựng các văn kiện Đại hội Đảng gần đây, đặc biệt là
Đại hội Đảng X vừa qua là những bằng chứng sinh động về việc Đảng ta thật
sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Có thể nói, chưa có


11

cuộc vận động dân chủ nào sâu rộng, thiết thực và đạt hiệu quả cao như cuộc
vận động nhân dân góp với Đảng như trước Đại hội X vừa qua.
Tuy nhiên, ở khơng ít nơi, cấp uỷ đảng chưa quan tâm đến công tác vận
động quần chúng, chưa thật sự tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân. khơng
ít đảng viên có thái độ coi thường quần chúng, khơng lắng nghe ý kiến, không
học hỏi người lao động. Một số cán bộ đảng viên có quan hệ trực tiếp với

nhân dân thì cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây đủ thứ phiền hà cho dân,
thiếu lễ độ với dân. Có người cịn vịi vĩnh biếu xén, q cáp, phong bì. Một
số người có chức có quyền giữ tác phong quan cách, gia trưởng, thậm chí có
những cá nhân và tập thể trù dập, ức hiếp quần chúng vì tư thù cá nhân.
Những hành động đó tuy khơng là phổ biến nhưng rất nghiêm trọng, nó làm
tổn thương tình cảm và niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Nếu không chấm
dứt được những biểu hiện này thì khơng thể củng cố được lịng tin của quần
chúng. Khơng thể tăng cường được mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng.
Cần kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người vi phạm quyền làm chủ của
nhân dân, bị quần chúng oán ghét.
Đảng ta đã khẳng định: thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động
thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân
dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Cùng với việc
chăm lo đời sống nhân dân, tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân đã
được hiến pháp quy định các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước động viên
quần chúng tham gia rộng rãi và thường xuyên vào các công việc quản lý kinh
tế, quản ký xã hội. Cần xoá bỏ nhận thức cho rằng công tác vận động quần
chúng chỉ là biện pháp tổ chức, động viên nhân dân thực hiện chính sách của
Đảng. Đối với những chủ trương có quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân dân,
cấp uỷ đảng cần trưng cầu ý kiến của nhân dân trước khi quyết định. Việc
thực hiện “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải trở thành khẩu


12

hiệu hành động, thành phương châm của công tác vận động quần chúng. Phải
thực hiện đúng nguyên tắc: chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích,
nguyện vọng và trình độ của nhân dân. Ngay cả trong trường hợp chính sách
đúng mà dân chưa hiểu, chưa đồng tình thì phải ra sức giáo dục, giải thích cho
dân, biết chờ đợi dân; có khi phải điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực

tế và với trình độ của quần chúng. Lênin đã nhấn mạnh: một chính sách mà
khơng phù hợp với trình độ quần chúng “là một chính sách phiêu lưu”9.
Mặt khác, các cấp uỷ đảng, các cơ quan chính quyền có biện pháp tích
cực giáo dục cán bộ đảng viên, nhân viên nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân,
có ý thức và thái độ đúng đắn với nhân dân, u thương, gần gũi, tơn trọng,
kính nể nhân dân; có chương trình kế hoạch tiếp dân, giải quyết tốt các đơn từ
khiếu tố, các yêu cầu, nguyên vọng chính đáng của dân; trừng trị nghiêm
minh, thích đáng những hiện tượng trù dập, ức hiếp quần chúng. Các đoàn thể
quần chúng, nhất là cơng đồn, đồn thanh niên, hội phụ nữ cần luôn đổi mới
nội dung và phương thức hoạt động của mình, đi sâu giáo dục, bồi dưỡng,
động viên quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể, tích cực tham gia xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tham gia các hoạt động chính trị, xã hội
với đầy đủ ý thức trách nhiệm của người làm chủ.
Một vấn đề hết sức quan trọng là phải nhanh chóng làm trong sạch đội
ngũ của Đảng, khắc phục các hiện tượng sa sút, thoái hoá về phẩm chất, lối
sống của cán bộ, đảng viên. Phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên
là vấn đề có ảnh hưởng quyết định đến uy tín, danh dự của Đảng, tác động trực
tiếp đến mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân. Quần chúng nhìn nhận, đánh giá
Đảng nhiều khi thơng qua phẩm chất, tư cách, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Nói quần chúng giảm sút lịng tin đối với Đảng khơng phải là giảm sút lịng tin

9

V.I.Lênin: Tồn tập, Sđd t.25, tr.225.


13

đối với lý tưởng, sự nghiệp của Đảng, mà là đối với những cán bộ, đảng viên đã
hư hỏng, sa đoạ, đối với những tổ chức đảng đã rệu rã, khơng cịn sức chiến đấu.

Những năm gần đây, những hiện tượng cán bộ, đảng viên suy thoái về
phẩm chất, đạo đức có chiều hướng gia tăng lên và ngày càng nghiêm trọng.
Qua những vụ kỷ luật được công bố trên thơng tin đại chúng gần đây thấy rõ
điều đó. Một số đảng viên vô tổ chức, vô kỷ luật, nịnh bợ cấp trên, chèn ép
quần chúng và cấp dưới, cơ hội, thực dụng, gây mất đoàn kết nội bộ. Nhiều
người có quan hệ trực tiếp với tài chính, kinh tế đã lợi dụng chức quyền để
tham nhũng, hối lộ, ăn hối lộ. Điều nghiêm trọng là có khơng ít cán bộ cán bộ
cao cấp, đảng viên lâu năm cũng bị cám dỗ, chạy theo tiền tài, địa vị, đã vi
phạm pháp luật. Có những kẻ hồn tồn biến chất, sống xa hoa, truỵ lạc
hưởng thụ, khơng cịn một chút tư cách đảng viên. Đông đảo cán bộ đảng viên
và quần chúng chân chính hết sức bất bình trước những hiện tượng đó và lo
ngại về sự xói mịn bản chất và truyền thống tốt đẹp của Đảng.
Nhìn thẳng vào sự thật đó, Đảng ta đã và đang tiến hành cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, khắc phục những hiện tượng hư hỏng, trì trệ trong
bộ máy nhà nước, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Đảng cũng
luôn xác định rằng, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên, đấu
tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong Đảng là một trong những yêu cầu
cấp bách và nhiệm vụ chủ yếu của công tác xây dựng Đảng. Đảng ta yêu cầu
phải làm tốt việc giáo dục nâng cao phẩm chất cho cán bộ, đảng viên, coi đây
là một nội dung trọng yếu của sinh hoạt đảng. Các cấp uỷ đảng cần có biện
pháp thật kiên quyết và tích cực giáo dục, rèn luyện, quản lý chặt chẽ cán bộ,
đảng viên, đấu tranh ngăn chặn các hiên tượng thoái hoá, biến chất trong cán
bộ, đảng viên, duy trì nghiêm kỷ luật Đảng, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng
những phần tử thoái hoá, biến chất, làm trong sạch hàng ngũ của Đảng. Chỉ


14

có như vậy mới lấy lại được lịng tin của quần chúng đối với Đảng, tăng
cường được mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân.

Trong tình hình hiện nay, hơn lúc nào hết chúng ta cần thấm nhuần sâu
sắc và thực hiện nghiêm túc tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Mỗi người đảng
viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình vào
Đảng để làm đầy tớ cho nhân dân… làm đầy tớ nhân dân chứ không phải là
“ quan ” nhân dân”10
Với mỗi chúng ta, việc liên hệ với quần chúng là một vấn đề thuộc về
tiêu chuẩn và tư cách đảng viên, một thuộc tính quan trọng quy định bản chất
của người cộng sản. Điều lệ Đảng quy định về một trong những nhiệm vụ của
người đảng viên là: “liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo đời sống vật chất tinh thần và bảo vệ
quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia công tác quần chúng” 11.
Gắn với cương vị cụ thể của mình, mỗi chúng ta phải phát huy vai trò tiên
phong, gương mẫu, trước hết là ở sự giác ngộ cách mạng và lòng trung thành
tuyệt đối với Đảng, kiên quyết đấu tranh bảo vệ và thực hiện đường lối của
Đảng. Trên bất cứ lĩnh vực nào mỗi đảng viên chúng ta cũng phải là tấm
gương sáng để quần chúng noi theo. Hồ Chí Minh đã dạy: “Trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán hai chữ “ cộng sản” mà ta được họ yêu
mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt trước” 12. Với
trách nhiệm và lương tâm của người cộng sản, mỗi chúng ta luôn cần rèn
luyện nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, liên hệ mật
thiết với quần chúng, lãnh đạo và tổ chức quần chúng tiếp tục đưa sự nghiệp
cách mạng nước ta vượt qua mọi khăn, không ngừng tiến lên giành thắng lợi.
10

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. CTQG, HN. 2000, t.12, tr.222.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, HN. 2006, tr.9.
12
Hồ Chí Minh: tồn tập, Sđd, t.5, tr.552.
11



15



×