Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 22 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TP.Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 3 năm 2024
<b>BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">tổng hợp hoàn thiện tiểu luận, làm file powerpoint 3
<b>DANH MỤC HÌNH ẢNH</b>
<b>1. Nguyên liệu để tổng hợp, polymer và các dẫn xuất (copolymer)</b>
<i>1.1. Nguyên liệu tổng hợp </i>
Styrene là một chất hoá học nguyên liệu để tổng hợp Styrene là một hợp chất hữu cơ có cơng thức hóa học C6H5CH = CH2. Đây là một chất lỏng không màu, nhẹ hơn nước, không tan trong nước, dễ bay hơi và có vị hơi ngọt nhưng khi đậm đặc thì có mùi khó chịu. Styrene được sử dụng làm nguyên liệu để tổng hợp nhiều loại nhựa và cao su, trong đó có polymerstyrene. Bốn loại hệ thống trùng hợp styren bao gồm gốc tự do, anion, cation và phối hợp. Mỗi phương pháp có những ưu điểm và nhược điểm về hiệu quả, khả năng kiểm soát và khả năng tiếp cận.
<i>Hình 1 Cấu trúc phân tử của styrene</i>
<i>Hình 2 Tổng hợp polystyrene thông qua phản ứng trùng hợp cộng styrene</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><i>1.2. Polystyrene và phản ứng trùng hợp của Styren</i>
Polystyrene là một polyme của styren [–(CH<small>2</small>CH (C<small>6</small>H<small>5</small>))<small>n</small>–]là một trong những loại nhựa nhiệt dẻo phổ biến nhất. Polystyrene lần đầu tiên được phát hiện trong quá trình chưng cất nhựa lưu trữ (một loại nhựa tự nhiên) vào năm 1839 bởi Eduard Simon (ở Đức). Các loại polyme gốc styren khác nhau hiện được sản xuất dưới dạng nhựa, dạng khuôn và cao su trên khắp thế giới để chế biến thành vật liệu và hàng hóa thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Polystyrene có thể được điều chế bằng bốn loại trùng hợp bổ sung styrene thông qua các loại hoạt chất hoặc chất trung gian khác nhau: thông qua trùng hợp gốc, anion, cation và phối hợp. Cấu trúc chính của polystyrene phụ thuộc vào hệ thống trùng hợp điều này ảnh hưởng quan trọng đến các tính chất vật lý và cơ học.. Do đó, polystyrene như vậy là chất rắn cứng và trong suốt ở nhiệt độ môi trường xung quanh để được xử lý thành các sản phẩm nhựa nhiệt dẻo trong suốt bằng kỹ thuật ép đùn hoặc ép phun ở nhiệt độ cao (180–260<small>O</small>C).
Sự polyme hóa bổ sung. Nói chung, q trình trùng hợp bổ sung (hệ thống khơng sống) bao gồm bốn q trình phản ứng: khởi đầu, lan truyền, kết thúc và chuyển chuỗi. Hình 3 thể hiện các quá trình phản ứng điển hình trong quá trình trùng hợp gốc tự do:
- Sự khởi đầu, hình thành các loại gốc hoạt động (R·) từ các chất khởi đầu (I) và sau đó bổ sung các gốc (R·) thành các đơn phân (M).
- Nhân giống, bổ sung liên tục các đầu tận cùng polyme gốc (P·) vào monome (M) để phát triển polyme (P·).
- Sự kết thúc, phản ứng ghép đôi (P–P) hoặc sự mất cân đối (P + P) của hai polyme đang phát triển (P©).
- 4) Chuyển chuỗi, phản ứng của các đầu tận cùng polyme gốc (P·) với các tác nhân chuyển chuỗi (A) bao gồm các lỗ thốt dung mơi, monome và polyme để tạo ra các polyme kết thúc (P) và các lồi hoạt tính mới (A·) bắt đầu ngay lập tức sự polyme hóa.
<i>Hình 3 Sự cộng polyme hóa gốc tự do của các monome.</i>
<b>Phản ứng trùng hợp gốc tự do. Phản ứng trùng hợp gốc tự do được sử dụng</b>
rộng rãi nhất để sản xuất thương mại polystyrene atactic có trọng lượng phân tử cao (Mw = 200.000–300.000), tức là polystyrene đa dụng (GPPS), tạo ra polyme vơ định hình có nhiệt độ chuyển hóa thủy tinh tương đối cao (Tg = ~100 C) do có nhiều nhóm
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">phenyl được định hướng ngẫu nhiên. Nhờ các lồi có hoạt tính cao nhưng phát triển trung tính, q trình trùng hợp gốc có rất nhiều ưu điểm:
- Tổng hợp năng suất cao hiệu quả (trùng hợp số lượng lớn). - Không yêu cầu tinh chế nghiêm ngặt các monome và dung mơi.
- Polyme hóa hiệu quả trong nước (sự phân tán hoặc polyme hóa nhũ tương trong nước).
- Trùng hợp trực tiếp các monome chức năng phân cực và sự đồng trùng hợp ngẫu nhiên của các monome khác nhau, dẫn đến sự biến đổi hiệu quả các tính chất vật lý và chức năng hóa.
Các hợp chất peroxide và azo (benzoyl peroxide, BPO; 2,20 -azobisisobutyronitrile, AIBN) thường được sử dụng làm chất khởi đầu cho quá trình trùng hợp styrene (Hình 5). Thơng thường, BPO bị phân hủy nhiệt thơng qua q trình phân cắt đồng phân của liên kết oxy-oxy để dần dần tạo ra các gốc carboxyl benzen ngay lập tức bắt đầu quá trình trùng hợp chuỗi styren. Quá trình lan truyền được kết thúc bằng phản ứng ghép đôi của hai gốc polystyrene. Sản phẩm cuối cùng có trọng lượng phân tử lớn, phân bố trọng lượng phân tử rộng (Mw/Mn ~2) và khơng có tính chất lập thể cụ thể (atactic). Đặc biệt, sự khởi đầu tự phát mà không cần thêm bất kỳ chất khởi đầu gốc nào từ bên ngồi cũng có hiệu quả đối với q trình trùng hợp styren ở nhiệt độ trên 100 <small>o</small>C. Nhược điểm là sản phẩm thu được bị ô nhiễm nhẹ bởi các dime và tông đơ styren (1–2% trọng lượng) như 1-phenyltetralin và 1,2-diphenylcyclobutane. Trong quy trình cơng nghiệp, q trình trùng hợp số lượng lớn styrene thơng qua q trình khởi tạo tự phát thường được tiến hành ở 100–170 <small>o</small>C, trong khi các chất làm mờ dễ bay hơi không thể tránh khỏi gây ra vấn đề trong q trình ép đùn và đúc khn. Do đó, các chất khởi đầu gốc tự do cũng được kết hợp một cách thích hợp để ngăn chặn sự hình thành oligome này, giúp tăng cường tốc độ trùng hợp để tiếp cận polystyren với hiệu suất và trọng lượng phân tử mong muốn. Việc lựa chọn quy trình sản xuất thương mại từ polyme hóa số lượng lớn, dung dịch, huyền phù, kết tủa và nhũ tương phụ thuộc vào loại (nhựa, dạng, mạng tinh thể), tính năng và cách sử dụng của sản phẩm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i>Bảng 1 Cấu trúc bậc một (trọng lượng phân tử, độ linh hoạt) và tính chất củapolystyrene thu được từ quá trình trùng hợp cộng (trùng hợp gốc, anion, cation và</i>
<i>phối hợp) của styrene với các hệ thống xúc tác/khởi động điển hình. </i>
<i>Hình 4 Phản ứng trùng hợp gốc tự do của styrene với BPO</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>Phản ứng trùng hợp anion sống. Phản ứng trùng hợp anion của styrene lần</b>
đầu tiên mở ra “sự trùng hợp sống” như một hệ thống trùng hợp chính xác. Kết hợp với các chất khởi đầu thích hợp trong điều kiện có độ tinh khiết cao, quá trình trùng hợp anion của styren chỉ tiến hành thông qua sự khởi đầu và nhân giống mà khơng có bất kỳ sự kết thúc và chuyển chuỗi nào để cung cấp cho polystyrene cấu trúc sơ cấp được kiểm sốt chính xác và cấu trúc được xác định rõ ràng (khối, ngôi sao, mảnh ghép). Điều quan trọng là loại bỏ oxy và nước khỏi thuốc thử hóa học và bình phản ứng.
Phản ứng trùng hợp anion sống đầu tiên của styrene bởi M. Szwarc đã đạt được bằng hệ thống khởi đầu kim loại natri với naphthalene trong tetrahydrofuran (THF) (Hình 6a). Ở đây, natri naphthalene (anion gốc thơm) tạo ra sự chuyển điện tử sang styren để tạo ra anion gốc styren, chất này nhanh chóng bị khử để trở thành chất khởi đầu hai chức năng cho quá trình trùng hợp styren. Alkyl lithium bao gồm n-butyl lithium và sec-butyl lithium cũng có hiệu quả như một chất khởi đầu. Chúng có sẵn trên thị trường ở dạng dung dịch để dễ dàng sử dụng cho quá trình trùng hợp (hình 6b).
<i>Hình 5 Phản ứng trùng hợp anion sống của styren (S) với (a) naphthalene/Na hoặc (b)alkyllithium (RLi). (c) Làm nguội PSLi bằng H2O hoặc ROH thành PS–H. (d) Kếtthúc chức năng hóa PSLi bằng ethylene oxit. (e) Đồng trùng hợp khối butadien (B) với</i>
<i><b>PSLi thành chất đồng trùng hợp khối SB</b></i>
<b>Phản ứng trùng hợp cation. Polystyrene cũng thu được từ quá trình trùng</b>
hợp cation của styrene kết hợp với các axit mạnh (ví dụ HClO<small>4</small>, CF<small>3</small>SO<small>3</small>H) và nguồn
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">proton với axit Lewis. Tuy nhiên, carbocation của các đầu tận cùng đang phát triển thường gây ra phản ứng chuyển chuỗi thông qua việc loại bỏ b-proton và q trình alkyl hóa Friedel-Crafts trong hoặc liên phân tử thành các vịng thơm. Do đó, việc tổng hợp polystyrene có trọng lượng phân tử cao bằng phản ứng trùng hợp cation là khó khăn so với các phản ứng trùng hợp gốc hoặc anion. Tuy nhiên, do khả năng trùng hợp cation sống của p-methoxystyrene (pMOS) đã được đề xuất, nhiều hệ thống khởi đầu khác nhau đã được phát triển cho vinyl ete và dẫn xuất styren. Hiện nay, polystyrene được kiểm sốt tốt cũng có thể thu được từ hệ khởi đầu gồm 1-phenylethyl clorua (PhEtCl, một chất cộng của HCl với styrene) và SnCl<small>4</small> với sự có mặt của n–Bu<small>4</small>Cl trong CH<small>2</small>Cl<small>2</small> ở nhiệt độ thấp (15<small>O</small>C).
<b>1.3. Dẫn xuất Styren (copolymer)</b>
Rất nhiều dẫn xuất styren được phát triển để điều chỉnh các đặc tính của polystyrene và thiết kế các vật liệu polyme chức năng. Hình 7 hiển thị các monome styren có bán trên thị trường với các nhóm thế sau: ete, este, alkyl, halogen, phos phine, amin, axit cacboxylic, axit sulfonic, natri sulfonate và olefin (S1–S13).
<i>Hình 6 Dẫn xuất của Styren và Styren chức năng.</i>
Cao su Styrene-Butadiene (SBR) là chất đàn hồi dẻo nhiệt. SBR là chất đồng trùng hợp ngẫu nhiên của styren và butadien, được sản xuất với quy mô lớn nhất trong số các loại cao su tổng hợp (khoảng 30%). SBR được tổng hợp bằng phản ứng trùng hợp nhũ tương của styren và butadien, trong đó SBR thơng thường chứa khoảng 24% styren. Có hai loại SBR: cao su lạnh và cao su nóng. Loại thứ nhất được điều chế bằng các hệ thống khởi đầu oxi hóa khử ở nhiệt độ tương đối thấp thì sẽ giảm việc các chất xúc tác bị biến tính (5–10<small>O</small>C), trong khi loại thứ hai thu được bằng các chất khởi đầu per oxit hoặc bazo, do quá trình tổng hợp anion xúc tác chậm nên ta sử dụng ở nhiệt độ cao (40–50<small>O</small>C). Hầu hết SBR là cao su nguội chủ yếu được sử dụng làm lốp ô tô, trong khi cao su nóng sản xuất ở quy mơ nhỏ được sử dụng làm chất kết dính. Để thể hiện độ đàn hồi tốt cho lốp xe, cao su nguội được pha trộn với 1 số phụ gia như muội than làm chất tăng cứng và chống lão hóa cho độ bền cao, Silica làm tăng tính dẫn nhiệt, ổn định kích thước và cách điện. Sau đó là liên kết ngang với lưu huỳnh. Ngược lại, copolyme triblock styrene-butadiene-styrene (SBS) trở thành chất đàn hồi nhựa nhiệt
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">dẻo mà khơng có bất kỳ liên kết ngang hóa học nào do sự phân tách microphase giữa các phân đoạn styrene cứng và các đối tác butadiene mềm.
Nhựa Acrylonitrile - Butadiene - Styrene (ABS). Nhựa ABS là một hợp kim polymer gồm hai pha, trong đó các hạt cao su polybutadiene được phân tán trong ma trận copolymer SAN cứng. Kết quả là, nhựa ABS có khả năng chống va đập cao, chịu nhiệt và hóa chất cao, độ bóng bề mặt tốt và khả năng định hình tốt. Mặc dù việc sản xuất nhựa ABS lần đầu tiên bắt đầu bằng cách trộn các hạt polybu tadiene vào ma trận copolyme SAN, nhưng quy trình tổng hợp gần đây đã chuyển sang đồng trùng hợp gốc nhũ tương hoặc số lượng lớn của styrene và acrylonitrile với sự có mặt của polybutadiene. Ở đây, copolymer SAN được ghép một cách hiệu quả vào các hạt polybutadien thông qua việc bổ sung các gốc copolyme SAN vào olefin trong polybutadien, sau đó là phản ứng trùng hợp copolyme tiếp theo của styren và acrylonitrile và phản ứng ghép đôi với các gốc copolymer. Độ bền va đập của nhựa ABS có thể được kiểm sốt bởi kích thước hạt của polybutadiene và hiệu quả ghép của copolyme SAN; kích thước hạt 0,25–0,45 mm dường như phù hợp với khả năng chống va đập cao.
Polystyrene dạng bọt(EPS) là 1 dạng polystyrene cứng, dai, có mật độ cao, có màu trắng. Nó được sản xuất từ polystyrene rắn khi kết hợp với Pentane đóng vai trị là chất tạo xốp. Do đó EPS có thể tích 98% là khơng khí, có khối lượng rất nhẹ. Chúng có tính chất vật lý vẫn không thay đổi khi tiếp xúc nhiệt độ cao trong thời gian dài, khả
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><i>Hình 7 Tấm EPS</i>
EPS mang lại sự ổn định kích thước đặc biệt . Nó hầu như khơng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố xung quanh. Sự thay đổi kích thước tối đa của bọt EPS có thể được dự kiến là nhỏ hơn 2%.
Độ bền điện môi của EPS xấp xỉ 2KV/mm. Hằng số điện mơi của nó được đo trong dải tần 100-400 MHZ. Ở mật độ tổng từ 20-40 kg/m<small>3</small> hằng số điện môi nằm trong khoảng 1,02-1,04. EPS đúc có thể được xử lý bằng chất chống tĩnh điện để tuân thủ các thông số kỹ thuật đóng gói của ngành điện tử và qn sự.
EPS khơng hút ẩm. Ngay cả khi ngâm trong nước nó cũng chỉ hấp thụ một lượng nước nhỏ. Vì thành tế bào khơng thấm nước nên nước chỉ có thể xuyên qua bọt qua các kênh nhỏ giữa các hạt hợp nhất.
Nước và dung dịch muối và kiềm không ảnh hưởng đến polystyrene mở rộng. Tuy nhiên, EPS dễ bị dung môi hữu cơ tấn công.
EPS có khả năng chống lão hóa. Tuy nhiên, việc tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời (bức xạ cực tím) sẽ khiến bề mặt bị ố vàng. Điều này đi kèm với hiện tượng giòn nhẹ ở lớp trên. Màu vàng khơng có ý nghĩa quan trọng đối với độ bền cơ học của cách điện vì độ xuyên thấu thấp.
EPS dễ cháy . Việc sửa đổi bằng chất chống cháy giúp giảm thiểu đáng kể khả năng bắt lửa của bọt và sự lan truyền của ngọn lửa.
<b>Polystyene dạng xốp (XPS). XPS được sản xuất trên máy ép đùn dưới dạng </b>
phôi xốp liên tục. Trong máy đùn, polystyrene được nấu chảy và sau khi bổ sung CO. XPS có kích thước tế bào lớn hơn 100 µm, bọt XPS vi tế bào có kích thước tế bào nhỏ hơn 10 µm có cùng mật độ mang lại các đặc tính cơ học và cách nhiệt được cải thiện do hình thái vi tế bào của chúng. Bọt cứng polystyrene ép đùn là vật liệu xốp có cấu
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">trúc ơ kín chỉ hấp thụ lượng ẩm tối thiểu. XPS chỉ có khả năng đàn hồi nhẹ và có khả năng chống mục nát và lão hóa. Bọt polystyrene ép đùn khơng chịu được tia UV.
<b>Polystyrene mở rộng (EPS)Polystyrene ép đùn (XPS)</b>
EPS được sản xuất bằng cách mở rộng các hạt hình cầu trong khuôn, sử dụng nhiệt và áp suất để kết hợp các hạt lại với nhau. Mặc dù mỗi hạt riêng lẻ là một mơi trường ơ kín,
Chất thổi của EPS rời khỏi các hạt khá nhanh, tạo ra hàng ngàn tế bào nhỏ chứa đầy khơng khí
EPS hấp thụ nhiều nước hơn XPS dẫn đến giảm hiệu suất và mất khả năng cách nhiệt (giá trị R)
o XPS được sản xuất theo quy trình ép đùn liên tục, tạo ra ma trận "ơ kín" đồng nhất với mỗi ơ được bao bọc hoàn toàn bởi các bức tường polystyrene
o XPS được "đùn" thành các
tờ. Polystyrene được trộn với các chất phụ gia và chất tạo xốp - sau đó được nấu chảy với nhau thông qua thuốc nhuộm
o Chất tạo xốp của XPS được lưu giữ trong vật liệu trong nhiều năm
o XPS thường được chọn thay vì EPS cho mơi trường ẩm ướt hơn địi hỏi giá trị chống khuếch tán hơi nước cao hơn
o Cường độ nén của XPS lớn hơn EPS
</div>