Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.16 MB, 32 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>DANH SÁCH NHĨM</b>
- Hồn thiện đề cương - Phân chia công việc - Chỉnh sửa, kiểm tra word, powerpoint
9 Phạm Thị Huyền Diệp Thuyết trình 10 Nguyễn Thị Diệu Tổng hợp Word
12 Phan Thị Thuỳ Dương 2.1.1
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>MỞ ĐẦU</b>
Hồ Chí Minh - người anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà cách mạng kiệt xuất, vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc đã để lại cho chúng ta một tượng đài về đạo đức và tư tưởng cách mạng. Người là biểu tượng của sự kiên nhẫn, sự hi sinh và tình yêu đối với Tổ quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ là một hệ thống quan điểm tồn diện về cách mạng Việt Nam, mà còn là sự kết hợp của những phẩm chất và giá trị tinh thần cao nhất của giai cấp công nhân và của cả dân tộc.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang trải qua giai đoạn đổi mới với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự giao lưu hội nhập với các nước thế giới. Điều này đã mang lại nhiều cơ hội và thách thức. Mặc dù đã có nhiều thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế và chính trị, nhưng cũng xuất hiện những vấn đề liên quan đến nhân cách và đạo đức con người trong xã hội hiện đại.
Các thế lực thù địch vẫn không ngừng âm mưu để gây chia rẽ và ngăn cản sự phát triển của Việt Nam. Do đó, việc thực hiện tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và giáo dục nhân cách mới cho nhân dân Việt Nam là vô cùng quan trọng. Chúng ta cần xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nguồn cảm hứng. Bởi vậy, nhóm chúng em quyết định triển khai đề tài "Vận dụng các chuẩn mực 'trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính' trong tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay". Sinh viên là những người trẻ tuổi, và việc xây dựng đạo đức trong họ là đặc biệt quan trọng. Bằng cách tuân thủ các chuẩn mực này, chúng ta có thể đảm bảo rằng thế hệ trẻ sẽ tiếp tục mang theo tư tưởng cách mạng và đạo đức của Hồ Chí Minh, đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã cho chúng ta một quan niệm tốt đẹp về cách làm người, cách sống và làm việc cùng nhau trong tình thần đồn kết và u nước. Việc áp dụng những chuẩn mực "trung với nước, hiếu với dân", "cần, kiệm, liêm, chính" trong đời sống hàng ngày và trong sự nghiệp của mỗi sinh viên là một bước quan trọng để bảo vệ và phát triển những giá trị quý báu này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>MỤC LỤC</b>
<b>MỞ ĐẦU...</b>
<b>MỤC LỤC...</b>
<b>CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI...</b>
<b>1.1. Tư tưởng HCM về các chuẩn mực đạo đức nói chung...5</b>
1.1.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng...
1.1.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng...
<b>1.2. Tư tưởng HCM về các chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính”...</b>
1.2.1. Chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân”...
1.2.2. Chuẩn mực “cần, kiệm, liêm, chính”...
<b>CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC CHUẨN MỰC “TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN; CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH” CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM...</b>
<b>2.1. Thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay...</b>
2.1.1. Mặt tích cực...
2.1.2. Mặt tiêu cực...
<b>2.2. Nguyên nhân của thực trạng...</b>
2.2.1. Nguyên nhân mặt tích cực...
2.2.2. Nguyên nhân mặt tiêu cực...
<b>CHƯƠNG III. VẬN DỤNG CÁC CHUẨN MỰC TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN; CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH” TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀO XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO SINH VIÊN VIỆT NAM...</b>
<b>3.1. Vận dụng đạo đức lối sống phù hợp cho sinh viên Việt Nam hiện nay...</b>
3.1.1. Thực hiện lời dạy “trung với nước, hiếu với dân” trong thời kỳ hội nhập đổi mới...
3.1.2. Thực hiện lời dạy: “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” nêu cao phẩm giá con người Việt Nam...
<b>3.2. Tác động của môi trường...</b>
3.2.1. Đối với gia đình...
3.2.2. Đối với nhà trường, xã hội...
3.2.3. Đối với Đảng, Nhà nước...
<b>KẾT LUẬN...</b>
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI</b>
<b>1.1. Tư tưởng HCM về các chuẩn mực đạo đức nói chung</b>
1.1.1. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức cách mạng Đạo đức là gốc, là nền tảng tinh thần của xã hội, của người cách mạng
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Bởi lẽ, có tâm, có đức mới giữ vững được chủ nghĩa Mác – Lênin và đưa vào cuộc sống. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và trí tuệ, đức và tài, Hồ Chí Minh đã nêu một quan điểm lớn “phải có đức để đi đến cái trí”. Vì khi đã có cái trí, thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.
Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, lãnh tụ cách mạng thế giới bàn nhiều về vấn đề đạo đức và giáo dục, thực hành đạo đức. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nêu rõ đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định đạo đức là gốc, là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng. Người coi đạo đức rất quan trọng như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947). Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người là một cơng việc to tát, mà tu mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì?"
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức và hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh ln đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài lời nói đi đơi với hành động và hiệu quả trên thực tế.
Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội trước hết là ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của người bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực. Chính tấm gương đạo đức, lối sống cao đẹp của dân, thân dân, học hỏi dân, lấy trí tuệ ở nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh, ra oai.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vơ địch. Bác nói: “Đối với phương Đơng, một tấm gương sống cịn giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền”. Và tấm gương trong sáng của người là nguồn cổ vũ, động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ, đồn kết, hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
1.1.2. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng Trước hết, phải trung với nước, hiếu với dân
“Trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác. Trung và hiếu là các khái niệm đạo đức đã có từ lâu trong tư tưởng đạo đức truyền thống của Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất bao trùm nhất: "Trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Đầu năm 1946, Người chỉ rõ: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới, phải trung với nước, phải hiếu với toàn dân, với đồng bào". Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong thư gửi thanh niên (1965), Người viết: “Phải ln nâng cao chí khí cách mạng trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Luận điểm đó của Hồ Chí Minh vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho người Việt Nam không chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước đây, hơm nay, mà cịn lâu dài về sau nữa.
Theo Người, trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…. Nước ở đây với ý nghĩa "dân là con nước, nước là mẹ chung", là nước của dân, của tồn dân tộc chứ khơng phải của riêng ai, và chính mọi người dân là những "chủ nhân" của đất nước. Mối quan hệ nước - dân, dân - nước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Về chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh, là hiếu với dân. Hiếu với dân không phải chi là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân, với tồn dân tộc, vì "nước lấy dân làm gốc", dân là "gốc" của nước. Bác Hồ từng chỉ rõ: "Trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân... Trong xã hội khơng có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân", "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà... đạo đức ngày nay cao rộng hơn. Khơng phải chỉ có hiểu với bố mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân". “Trung với nước, hiếu với dân” theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi cơng việc cách mạng của Đảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, Đảng viên và mỗi người dân. Đó là, lịng u nước thương nịi, tự hào với truyền thống vẻ vang của dân tộc; là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người dân với cộng đồng, với sự nghiệp của Đảng và dân tộc, với sự hưng vong của đất nước; là ý chí và nghị lực vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng; là sự tin yêu, kính trọng nhân dân.
Vì vậy, trong suốt quá trình xây dựng Đảng, lãnh đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao tinh thần trung, hiếu ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng, và địi hỏi họ phải ln ghi sâu trong lòng những chữ "trung với nước, hiếu với dân".
Thứ hai là cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
“Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng, đó là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng khơng bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo để lợi cho nước cho dân". Với ý nghĩa như vậy, “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” cũng là một biểu hiện cụ thể của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân".
Là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
"Cần" tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">“Kiệm” tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của nhân dân, của nước, của bản thân mình; khơng phơ trương hình thức, khơng liên hoan chè chén lu bù. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to, “không xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi”, nhưng khơng phải là bủn xỉn.
“Liêm” là trong sạch, không tham lam; là liêm khiết, “ln ln tơn trọng giữ gìn của cơng, của dân”; “liêm là không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại.
“Chính” nghĩa là khơng tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ: “đối với mình – chớ tự kiêu, tự đại”; “đối với người - khơng nịnh hót người trên, xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, phải thực hành chữ Bác Ái"; “đối với việc – phải để việc công việc nước lên trên, trước việc nhà”, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.
Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để làm từng cán bộ, Đảng viên đã tạo nên nét riêng biệt, đặc thù của chế độ mới mà ở các chế độ khác khơng hề có, nhân dân khơng thấy được ở những con người của chế độ cũ. Chính tấm gương đạo đức cách mạng, nhân cách, lý tưởng cao đẹp, lổi sống giản dị, gần gũi với nhân dân lao động đã tạo nên sức hấp dẫn của chế độ Chủ Nghĩa Xã Hội được nhân dân ta và nhân dân thế giới tin theo, ca ngợi, là nguồn cổ vũ, động viên cho toàn thể dân tộc Việt Nam và nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba là thương yêu con người, sống có tình nghĩa
Đây là yếu tố cốt lõi đầu tiên tạo nên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó cũng là lý tưởng chính trị, lý tưởng đạo đức và là lý tuởng nhân văn của Người. Theo Bác, yêu thương con người là phải tôn trọng, quý trọng con người. Bác đánh giá cao vai trị của nhân dân "trong bầu trời khơng gì q bằng nhân dân". Bác tơn trọng từ các nhà khoa học, các bậc hiền tài cho tới những người lao công quét rác. Bởi theo Bác, từ Chủ tịch nước tới người lao động bình thường, nếu hồn thành tốt nhiệm vụ, đều được coi trọng, đều vẻ vang như nhau. Theo Bác, yêu thương con người là phải sống với nhau có tình, có nghĩa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thập niên, cùng với việc thể nghiệm chính bån thân mình qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình thương yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hy sinh để đem lại độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho con nguoi. Tình yêu thương con người là tình cảm nhân ái sâu sắc, rơng lớn, trước hết dành cho những người nghèo khổ, những người bị mất quyền, những người bị áp bức, bị bóc lột không phân biệt màu da, dân tộc. Người cho rằng, nếu khơng có tình u thương như vậy thì khơng thể nói đến cách mạng, càng khơng thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Tình thương yêu con người theo Hồ Chí Minh phåi được xây dựng trên lập trường của giai cấp công nhân, thể hiện trong các mối quan hệ hằng ngày với bạn bè, đồng chí, anh em. Nó địi hỏi mỗi người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với mình; rộng rãi, độ lượng và giàu lòng vị tha đối với người khác; phải có thái độ tơn trọng quyền của con người, tạo điều kiện cho con người phát huy tài năng; nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ “dĩ hịa vi q", khơng phải hạ thấp, càng khơng phải vùi dập con người.
Người thực sự là mẫu mực tuyệt vời về sự ứng xử tinh tế và cao thượng của một vị lãnh tụ cách mạng thiên tài, người con ưu tú của dân tộc, sự khoáng đạt, cởi mở, hài hòa, nhân ái, vị tha, khoan dung, độ lượng và tình nghĩa thủy chung, sâu sắc. Là tấm gương sáng về đạo đức mà mỗi chúng ta cần học tập và rèn luyện.
Có tinh thần quốc tế trong sáng
Đây là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của mỗi người trong mối quan hệ rộng lớn, vượt qua ranh giới quốc gia, dân tộc. Trong xu hướng hội nhập, tồn cầu hóa hiện nay, "tinh thần quốc tế trong sáng" có vai trị rất to lớn.
Ngay trong q trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh - bấy giờ là Nguyễn Ái Quốc, đã khẳng định: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vô sản". Theo Người, tinh thần quốc tế trong sáng chính là tinh thần đồn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước trong cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột. Theo Bác, giúp đỡ một dân tộc khác bảo vệ độc lập tự do của họ cũng chính là bảo vệ lợi ích của đất nước mình. Ðây chính là một bước phát triển mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đồn kết quốc tế.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Người đã nhấn mạnh: "Tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hịa bình thế giới". Nếu tinh thần u nước khơng chân chính và tinh thần quốc tế khơng trong sáng có thể dẫn đến chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi hoặc chủ nghĩa bành trướng bá quyền, kỳ thị chủng tộc....
Có thể nói, tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình thương u đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thật sự cho con người. Từ chủ nghĩa quốc tế trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình đồn kết quốc tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp phần vào những thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
<b>1.2. Tư tưởng HCM về các chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân; cần,kiệm, liêm, chính”</b>
1.2.1. Chuẩn mực “trung với nước, hiếu với dân”
“Trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất đạo đức bao trùm quan trọng nhất và chi phối các phẩm chất khác. Trung và hiếu là các khái niệm đạo đức đã có từ lâu trong tư tưởng đạo đức truyền thống của Việt Nam và phương Đông, phản ánh mối quan hệ lớn nhất và cũng là phẩm chất bao trùm nhất: "Trung với vua, hiếu với cha mẹ". Phẩm chất này được Hồ Chí Minh sử dụng với nội dung mới, rộng lớn: “Trung với nước, hiếu với dân", đã tạo nên một cuộc cách mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức. Đầu năm 1946, Người chỉ rõ: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới, phải trung với nước, phải hiếu với toàn dân, với đồng bào".
Tư tưởng “trung với nước, hiếu với dân” của Hồ Chí Minh khơng những kế thừa giá trị u nước truyền thống dân tộc, mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Người cho rằng, “trung với nước” phải gắn liền “hiếu với dân”. Vì “dân là dân của nước, nước là nước của dân”. Nghĩa là nhân dân là chủ của đất nước, bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là“đầy tớ nhân dân”, chứ không phải là “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Trung với nước là tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng, phải làm sao cho “dân giàu, nước mạnh”. Theo Hồ Chí Minh, trung là trung với nước, là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Ðảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nước ở đây với ý nghĩa "Dân là con nước, nước là mẹ chung", là nước của dân, của tồn dân tộc chứ khơng phải của riêng ai. Mối quan hệ nước - dân, dân - nước mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Còn “hiếu với dân” theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó chính là phải tơn trọng, u kính Nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân, khẳng định sức mạnh to lớn của nhân dân và phải coi dân là gốc, nền tảng của sự nghiệp cách mạng. Đồng thời, “hiếu với dân” cũng được Bác cụ thể hóa bằng chủ trương “Đảng và Chính phủ là đầy tớ của nhân dân”, “chính quyền phải có trách nhiệm lo cho dân: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”. Bác cịn chỉ rõ: “Chính Sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu Dân nói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”. Bác dạy rằng cán bộ các cấp đều là “công bộc của dân, nghĩa là gánh vác việc chung cho dân”. Và “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi công việc cách mạng của Đàng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi cán bộ, Đảng viên và mỗi người dân. Dù mục tiêu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng khác nhau, những yêu cầu về trung, hiểu luôn nhất quán và là tiêu chí chung cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân học tập và rèn luyện. Đó là, lịng u nước thương nịi, tự hào với truyền thống vẻ vang của dân tộc; là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người dân với cộng đồng, với sự nghiệp của Đảng và dân tộc, với sự hưng vong của đất nước; là ý chí và nghị lực vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng; là sự tin yêu, kính trọng nhân dân.
Vì vậy, trong suốt quá trình xây dựng Đảng, lãnh đạo cách mạng, Bác thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao tinh thần trung, hiếu ở mỗi người dân Việt Nam yêu nước nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng, và địi hỏi họ phải ln ghi sâu trong lòng những chữ "trung với nước, hiếu với dân".
1.2.2. Chuẩn mực “ cần, kiệm, liêm, chính”
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng, coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng. Người không chỉ bàn một cách sâu sắc, cơ đọng, thấm thía về vấn đề đạo đức mà chính bản thân Người trong suốt cuộc đời đã thực hiện một cách mẫu mực những tư tưởng và khát vọng đạo đức do mình đặt ra. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, những phẩm chất đạo đức được Người nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, có khi Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở từng giai đoạn nhất định. Từ đó Người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới là: “trung với nước, hiếu với dân”; “yêu thương con người"; "cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”; “tinh thần quốc tế trong sáng”. Trong những phẩm chất đó thì phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” được Người đề cập nhiều nhất bởi phẩm chất này gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, gắn liền giữa lời nói và việc làm, giữa suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân trong đời công cũng như trong đời tư, trong sinh hoạt cũng như trong công tác. Cần được hiểu là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai. “Muốn cho chữ cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”. Cần tức là lao động cần cù, chịu khó, có kế hoạch, sáng tạo, đạt được năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, chủ động, không lười biếng, không ỉ lại, không dựa dẫm. Mỗi người phải nhận định rõ: “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Kiệm là “tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi”. Đây được hiểu là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của nhân dân, cả nước,của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến nhỏ; khơng phơ trương hình thức, kiên quyết chống lãng phí, xa hoa. Tuy nhiên, cũng nên suy nghĩ đúng đắn về “Kiệm”, khơng nên hiểu “Kiệm” là địi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải “thắt lưng, buộc bụng”, nắm cơm với quả cà để xây dựng chủ nghĩa xã hội; hay cán bộ không được mua sắm và sử dụng những phương tiện hiện đại phục vụ cho cơng việc trong khi đã có điều kiện. Phải Phân biệt rõ, “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi khơng nên tiêu xài thì một đồng xu cũng khơng nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu cơng, tốn bao nhiêu của, cũng vui lịng, như thế mới là kiệm. Việc đánh tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm”. Cái mà chúng ta đang giáo dục, đấu tranh, phản đối là lối sống gấp, lãng phí, chạy theo thị hiếu khơng lành mạnh dẫn đến suy thối về đạo đức và phong cách sống. “Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người”. Liêm là “trong sạch, không tham lam”, luôn tôn trọng tài sản của công và của nhân dân, liêm khiết trong mọi hồn cảnh, “khơng tham địa vị; không tham tiền tài; không tham sung sướng; không ham tâng bốc mình”. “Chữ liêm phải đi đơi với chữ kiệm. Cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có kiệm mới có liêm được” bởi tham lam ắt sẽ dẫn đến bất liêm. Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, trước hết đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là tấm gương về “Liêm”, cán bộ khơng nghiêm, phạm vào các thói hư như tham ơ, tư lợi bất chính, lãng phí... thì khơng mang lại niềm tin cho quần chúng, làm suy yếu nội bộ Đảng và xã hội.
Chính là khơng tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, chính trực. Chính được thể hiện rõ trong ba mối quan hệ. Đối với mình, phải tìm hiểu, học hỏi cầu tiến bộ, khơng tự cao tự đại, phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tiếp thu nhận xét của người khác. Đối Với người, không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, ln giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết. Đối với việc, phải để việc công lên trên, lên trước việc tư,việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho bằng được, khơng sợ khó mà lùi; “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh”.
“Chí cơng vơ tư” là hồn tồn vì lợi ích chung, khơng vì tư lợi; là hết sức công bằng, công tâm, không chút thiên tư, thiên vị, ln đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân, của dân tộc lên hàng đầu, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí cơng vơ tư” thì phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân vì “chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm”, “nó kéo người ta xuống dốc khơng phanh”. Đây chính là sự tiếp nối của cần, kiệm, liêm, chính.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Hồ Chí Minh cho rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song cán bộ, đảng viên phải là người thực hành trước để làm kiểu mẫu cho dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, công chức, những người trong các cơng sở đều có nhiều hoặc ít quyền hạn. Nếu khơng giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân. Hồ Chí Minh quan niệm: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ”. Cần, kiệm, liêm, chính cịn là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15"><b>CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC CHUẨN MỰC “TRUNGVỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN; CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH” CỦA SINHVIÊN VIỆT NAM</b>
<b>2.1. Thực trạng đạo đức, lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay</b>
2.1.1. Mặt tích cực
Trước hết những biểu hiện tích cực trong đạo đức và lối sống của sinh viên Việt Nam theo các chuẩn mực “cần, kiệm, liêm, chính” trong Tư tưởng Hồ Chí Minh: Sinh viên Việt Nam được thừa hưởng truyền thống tốt đẹp của dân tộc : “Cần” tức là siêng năng cần cù, chịu thương chịu khó và truyền thống hiếu học. Đức tính ấy bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ngày càng được giữ vững và phát huy bởi sinh viên Việt Nam hiện nay. Trong mọi thời đại, sinh viên Việt Nam ln khao khát tìm tịi, khám phá chân trời tri thức. Xưa có Cao Bá Qt khơng có tiền mua sách vở, dầu đèn, ông lấy que củi làm bút, lấy lá làm vở, lấy đom đóm làm đèn. Ngày nay, sinh viên không chờ đợi, thụ động dựa vào giảng viên, họ tự mình đọc sách, chủ động nghiên cứu trên internet để lấy thông tin. Không chỉ riêng việc học tập, mà mọi vấn đề khác trong cuộc sống đều được sinh viên chủ động giải quyết. Ham học, ham hiểu biết chính là động lực cho việc lĩnh hội tri thức của sinh viên. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Khắc ghi lời dạy của Người, sinh viên Việt Nam luôn năng động và sáng tạo, không ngại khổ, không ngại khó khăn, thử thách.
Chính sinh viên là những người tiên phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế, giáo dục…Trong đầu họ luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưởng ấy thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ cịn tự mình tạo ra cơ hội. Với thế mạnh là được đào tạo vừa toàn diện vừa chuyên sâu, sinh viên có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ mà ln được thử nghiệm trong thực tế.
Chúng có thể thành công hoặc thất bại, song sinh viên không hề chùn bước. Một điều quan trọng đáng nói ở đây, đó là nếu gặp rủi ro thất bại thì họ sẵn sàng chấp nhận như một chuyện đương nhiên tất yếu sẽ xảy ra, tức là có thất bại thì thất bại ấy cũng nằm trong kế hoạch. Họ dám nhìn thẳng vào thất bại và vượt qua nó.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Cùng với “Cần” thì “Kiệm” cũng là một trong những nét phẩm chất tốt đẹp của dân tộc. “Kiệm” là tiết kiệm, khơng xa xỉ, khơng hoang phí. Khổng Tử nói: “Người sản xuất nhiều, người tiêu xài ít. Làm ra mau, dùng đi chậm thì của cải luôn đầy đủ”. Nhiều sinh viên Việt Nam biết sống tiết kiệm để chi trả cho cuộc sống, học tập,… “Kiệm” không chỉ là tiết kiệm về của cải vật chất mà cịn tiết kiệm về thời gian và cơng sức. Của cải nếu hết cịn có thể làm thêm nhưng thời giờ đã qua thì khơng bao giờ kéo trở lại được. Đức tính “ kiệm” được thể hiện trong cách làm việc nhóm của sinh viên. Khi làm việc có tổ chức, mỗi người làm một phần thì chỉ cần một thời gian ngắn, công việc sẽ được hồn thành mà tốn ít thời gian, ít sức lực mà hiệu quả cơng việc rất cao. “ Kiệm” cịn được sinh viên Việt Nam áp dụng trong việc giúp đỡ những người có hồn cảnh khó khăn hơn: những phong trào quyên góp sách vở, bút thước, quần áo, thức ăn thường xuyên được sinh viên phát động trong nhà trường.
Về việc thực hiện “Liêm”, liêm là trong sạch, không tham lam. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh đã được giáo dục về đức tính liêm khiết qua những câu chuyện đời thường như "nhặt được của rơi" với bài học giản dị mà ai cũng thuộc “nhặt được của rơi phải trả lại người đánh mất". Nhờ việc được giáo dục, truyền dạy những điều hay, lẽ phải từ gia đình và nhà trường nên phần lớn sinh viên đều mang trong mình đức tính này.
“Chính” tức là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Thế hệ sinh viên Việt Nam hiện nay vẫn giữ được đức tính thật thà, chính trực, ln có thái độ cầu tiến trong học tập.
Sinh viên Việt Nam luôn tự đánh giá bản thân là non trẻ, còn thiếu kinh nghiệm và sự từng trải. Chính vì thế, khi quyết định một điều gì, sinh viên khơng bao giờ qn tham khảo ý kiến của những người xung quanh, đặc biệt là bậc cha chú của mình. Và khi đã nhận được sự ủng hộ của lớp người đi trước, họ tự tin thực hiện ý định của mình, sinh viên luôn khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở, tự phê bình, nhận khuyết điểm và sửa chữa sai lầm, dám nhìn thẳng vào những điểm yếu để sửa chữa sai lầm.
Ngồi những biểu hiện tích cực trong đạo đức và lối sống theo các chuẩn mực “cần, kiệm, liêm, chính” sinh viên Việt Nam cịn có “tình u thương con người”. Biểu hiện của lịng yêu thương con người của sinh viên xuất phát từ những điều nhỏ nhặt, bình dị xung quanh cuộc sống chúng ta yêu thương, san sẻ những
</div>