Tải bản đầy đủ (.docx) (186 trang)

Hiệu quả sản xuất của nghề khai thác thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.73 MB, 186 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>CẦN THƠ,</b>

<b>2024</b>

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ</b>

<b>ĐẶNG THỊ PHƯỢNG</b>

<b>HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CỦA NGHỀ KHAI THÁCTHỦY SẢN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG</b>

<b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ </b>

<b>NGÀNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆPMÃ NGÀNH: 9620115</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ</b>

<b>ĐẶNG THỊ PHƯỢNG</b>

<b>HIỆU QUẢ SẢN XUẤT CỦA NGHỀ KHAI THÁCTHỦY SẢN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>TÓM TẮT</b>

Hiệu quả sản xuất (hiệu quả kỹ thuật và chi phí) của nghề khai thác thủy sản trong nghiên cứunàyđược ước lượng từ hàm sản xuất biên ngẫu nhiên dạng translog, dựa trên số liệu sơ cấp thu thập của 223 tàu lưới kéo đơn ở bốn tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang thuộc ĐBSCL. Ngoài ra, nghiên cứu sử dụng số liệu từ 24 cơ sở vựa thu mua; 10 cơ sở chế và chế biến; và 80 hộ kinh doanh bán lẻ nhằm mô tả kênh phân phối sản phẩm của nghề lưới kéo ở ĐBSCL. Một số kết quả chính của nghiên cứu được trình bày sauđây:

Nghề lưới kéo có số lượng lao động tham gia khai thác dao động 2-6 người/tàu. Thuyền trưởng có kinh nghiệm khoảng 16 năm và trình độ học vấn chủ yếu ở cấp 2. Thời gian khai thác của tàu lưới kéo là quanh năm. Tàu lưới kéo ở ĐBSCL có cơng suất tàu dao động từ 46,2 CV đến 82,2 CV. Chiều dài ngư cụ bình quân 22,1 m, dao động từ 8 m đến 45 m và kích cỡ mắt lưới ở đụt là 24,5 mm. Sản lượng khai thác của tàu lưới kéo trung bình là 582 kg/chuyến với thời gian đánh bắt mỗi chuyến khoảng 3,3 ngày. Chi phí của tàu lưới kéo cho mỗi chuyến khoảng 11,8 triệu đồng và thu lợi nhuận bình quân 8,1 triệu đồng với tỷ suất lợi nhuận là 0,9 lần. Nghề lưới kéo sử dụng loại ngư cụ có tính chọn lọc thấp nên được quan tâm quản lý bởi hệ thống văn bản pháp lý từ trung ương đến địaphương.

Sản phẩm khai thác được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường truyền thống, sản phẩm dạng tươi sống và chế biến thủ công. Các tác nhân chủ yếu tham gia KPP bao gồm vựa thu mua, cơ sở sơ chế và chế biến, nhóm bán lẻ sản phẩm đến người tiêu dùng. Vựa thu mua thủy sản đóng vai trị quan trọng trong KPP sản phẩm thủy sản khai thác của nghề lưới kéo. Kênh phân phối quan trọng nhất của sản phẩm khai thác của nghề lưới kéo là ngư dân khai thác bán cho vựa thu mua (100% sản lượng) và vựa thu mua bán cho chợ đầu mối 56,5% sản lượng và vựa thu mua bán cho người bán lẻ là 22,7% sản lượng. Trong khi đó, kênh có chế biến nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản khai thác chiếm khoảng 5% tống sản lượng khai thác của nghề lưới kéo ởĐBSCL.

Mức hiệu quả kỹ thuật của lưới kéo đạt trung bình 68,8%, với khoảng 41,3% số tàu đạt mức hiệu quả kỹ thuật trên 80%. Các tàu lưới kéo có thể cải thiện mức hiệu quả là 31,2% để đạt mức hiệu quả tối ưu. Doanh thu mất đi do kém hiệu quả về kỹ thuật của nghề là 5,3 triệu đồng/chuyến. Kinh nghiệm của thuyền trưởng, kích cỡ tàu, số miệng lưới, liên kết trong khai thai thác, vấn đề đăng ký ngư cụ, khoảng cách ngư trường khai thác và ngư trường khai thác là những yếu tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo. Kết quả cho thấy việc tăng sử dụng các đầu vào trong khai thác làm cho doanh thu tăng với tỷ lệ caohơn.

Mức hiệu quả chi phí của nghề lưới kéo dao động từ 36,4% đến 95,5%, mức hiệu quả trung bình là 70,0%, tức là ngư dân có thể giảm chi phí khai thác khoảng 30% khi

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

các yếu tố khác cố định. Kinh nghiệm của thuyền trưởng, lao động gia đình, kích cỡ tàu, ngư trường khai thác, khoảng cách ngư trường và có đăng ký ngư cụ với cơ quan quản lý là những yếu tố ảnh hưởng lớn đến sự kém hiệu quả chi phí.

Một số giải pháp chính góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất của nghề lưới kéo ở ĐBSCL là (1) ngư dân cần đầu tư, nâng cấp tàu và lựa chọn ngư cụ khai thác thân thiện với mơi trường và NLTS; (2) Cần có chính sách giảm số lượng tàu nghề lưới kéo và hài hòa giữa sinh kế của ngư dân và bảo vệ nguồn lợi thủy sản; (3) tăng cường công tác kiểm tra và tuyên truyền về chính sách và quy định của Nhà nước về hoạt động khai thác thủy sản; và hỗ trợ ngư dân nghề lưới kéo chuyển đổi nghề; (4) Xây dựng mơ hình liên kết ngang và liên kết dọc; và (5) ngư dân tăng cường khả năng bảo quản sản phẩm thủy sản khai thác, đóng gói và hình thức sơ chế và chếbiến.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

This study estimated the production efficiency (technical and cost efficiency) of small-scale trawling in the Mekong Delta using a translog stochastic frontier production function model. Primary data was collected by interviewing small-scale trawling vessels from January 2020 to May 2021 in the four coastal provinces (Soc Trang, Bac Lieu, Ca Mau, and Kien Giang) of the Mekong Delta. In addition, data was collected from 24 wholesalers; 10 processors; and 80 retailers to describe the distribution channel of trawling in the Mekong Delta. The results showed that:

The crew size ranged from two to six persons per vessel. The trawlers have operated year-round. Trawling in the Mekong Delta was small-scale, the trawling fishers had small boats, ranged from 46,2 CV to 82,2 CV. The average net length was

22.1 m, varying from 8- 45 m, and the mesh size for the cod-end was 24.5 mm. The average yield of the trawl net was 581.8 kg/trip with 3.3 days/trip. The total cost of the trawlers was 11.8 million VND/trip and the profit was 8.1 million VND, with a benefit and cost ratio of 0.9 times. Trawl nets are the low selectivity fishing gear, so they are managed by a regulation system from the central to local government.

Marine fish were sold primarily in the traditional markets, fesh fish, and artisanally cured products. Major distribution channel actors in this study were: wholesalers, processors, and retailers. The wholesalers played an important role in fishing the channel of the trawling. The most important product distribution channel of small-scale trawl fishing was from the fisherman to the middleman (100% of the total yield) and then to wholesalers with 56.5% of the yield and to retailers with 22.7% of the yield. The channel with the processing, which advanced the value of caught fishery products made up about 5% of the total catch of the trawling in the Mekong Delta.

The average technical efficiency of the surveyed fishermen was approximately 68.8%, of which 41.3 % of vessels reached technical efficiency over 80%. Small-scale trawling vessels could increase their production by 31.2% if they operated at full technical efficiency. The average revenue loss due to technical inefficiency was 5.3 million VND/trip. The captain’s fishing experience, vessel size, the number of nets on a boat, cooperation for input supplies and problem-solving, fishing registration, operation distance, and the fishing grounds were the main factors influencing the technical efficiency. The results indicated that increasing these inputs would result in a more than proportional increase in revenue.

The average cost efficiency index ranged from 36.4% to 95.5%, with a mean of 70.0%, implying that the average fishing operation in the study area has the scope to increase cost efficiency by 30% given the existing technology. The captain’s fishing experience, family crew, vessel size, fishing group, operation distance, and gear

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

registration were the main factors influencing the cost efficiency.

Some proposed solutions to manage trawl fishing in the Mekong Delta include: (1) the fishermen should invest, upgrade, and choose their gears; (2) developing pathways to decrease trawl vessels; (3) harmonizing the likelihoods of fishermen and the protection of aquatic resources, strengthening the inspection and propaganda on the policies and regulations on fishing activities, and supporting the trawl fishermen to change jobs; (4) building horizontal and vertical linkage fishing models; and (5) improving the products preservation, packaging, and forms of processing by the fisherment.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>Chương 2: TỔNG QUAN TÀILIỆU...10</b>

2.1 Hiện trạng khai thác thủy sản ở Đồng bằng sôngCửuLong...10

<small>2.1.1 Qui mô khai thác thủy sản ở Đồng bằng sôngCửuLong...10</small>

<small>2.1.2 Cơ cấu nghề khai thácthủysản...10</small>

<small>2.1.3 Ngư trường và mùa vụ khai thácthủysản...14</small>

<small>2.1.4 Sản lượng thủy sản khai thác ở Đồng bằng sôngCửu Long...16</small>

2.2 Hiệu quả sản xuất của hoạt động khai thácthủysản...19

<small>2.2.1 Hiệu quả tài chính của nghề lưới kéo ở Đồng bằng sôngCửuLong...19</small>

<small>2.2.2 Hiệu quả kỹ thuật và chi phí trong hoạt động khai thácthủysản...22</small>

<small>2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất trong khai thácthủysản...31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

2.2.3.1 Đặc điểm của lao động khai thácthủysản...31

2.2.3.2 Đặc điểm của tàu và ngư cụ khai thácthủysản...31

2.2.3.3 Đặc điểm của ngư trường và tổ chức sản xuất khai thácthủysản...32

2.3 Tình hình tiêu thụ và phân phối sản phẩm thủy sảnkhaithác...32

<b>Chương 3: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU...35</b>

3.1 Khái niệm liên quan đến hoạt động khai thácthủysản...35

<small>3.1.1 Ngư cụlướikéo...35</small>

<small>3.1.2 Khai thác thủysản...36</small>

<small>3.1.3 Vùng khai thácthủysản...36</small>

<small>3.1.4 Phân loại sản phẩm thủy sảnhảisản...37</small>

3.2 Cở sở lý luận về hiệu quảsảnxuất...37

<small>3.2.1 Lý thuyết vềsảnxuất...37</small>

<small>3.2.1.1</small> Hàmsảnxuất...37

<small>3.2.1.2</small> Hiệu quảsảnxuất...38

<small>2.2.1.3 Hiệu quả sản xuất trong hoạt động khai thácthủysản...42</small>

<small>3.2.2</small> Đo lường và dạng hàm hiệu quả sản xuất trong khai thácthủysản...43

<small>3.2.2.1</small> Cách đo lường hiệu quảsảnxuất...43

<small>3.2.2.2</small> Dạng hàm hiệu quảsảnxuất...45

<small>3.2.2.3</small> Hiệu quảkỹthuật...45

<small>3.2.2.4</small> Hiệu quả chi phí ước lượng từ hàm chiphíbiên...47

<small>3.2.2.5</small> Hiệu suất thay đổi theoquymơ...49

<small>3.2.2.6</small> Phân tích hàm sản xuất biên ngẫu nhiên cho hoạtđộngKTTS...50

<small>3.2.2.7</small> Hàm phi hiệu quả kỹ thuật và chi phí trong khai thácthủysản...53

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>3.3.3.1 Phương pháp xử lý...57</small>

<small>3.3.3.2 Phương pháp phân tíchsốliệu...57</small>

<b>Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢOLUẬN...65</b>

4.1 Hiện trạng khai thác của nghề lưới kéo ở Đồng bằng sôngCửuLong...65

<small>4.1.1 Đặc điểm về lao động của nghềlướikéo...65</small>

<small>4.1.2 Đặc điểm về tàu và ngư cụkhaithác...67</small>

<small>4.1.3 Đặc điểm về ngư trường, mùa vụ và sản lượng thủy sảnkhaithác...68</small>

<small>4.1.4 Thành phần lồi hải sản khai thác của nghề lướikéođơn...70</small>

<small>4.1.5 Thơngtinvềtổchứcsảnxuấtcủanghềkhaithácthủysản...71</small>

4.2 Tìnhhìnhtiêuthụvàphânphốicủasảnphẩmthủysảnkhaithác...72

4.3 Hiện trạng quản lý nghề lưới kéo ở Đồng bằng sơngCửuLong...75

<small>4.3.1 Chính sách quản lý về ngư cụ trong khai thác thủy sản ởViệtNam...75</small>

<small>4.3.2 Nhận định về quản lý nguồn lợi và bảo vệ nguồn lợithủysản...76</small>

<small>4.3.2.1</small> Các quy định của nhà nước về quản lý và bảo vệ nguồn lợithủysản...76

<small>4.3.2.2</small> Sự thay đổi nguồn lợithủysản...76

<small>4.3.2.3</small> Những khía cạnh phát triển và quản lý để bảovệNLTS...77

<small>4.3.2.4</small> Những rủi ro trong hoạt động khai thácthủysản...78

4.4 Phân tích hiệu quả sản xuất của nghề lưới kéoởĐBSCL...79

<small>4.4.1 Hiệu quả tài chính của nghề lưới kéo ở Đồng bằng sơngCửuLong...79</small>

<small>4.4.1.1</small> Chi phí hoạt động khai thác của nghề lưới kéoởĐBSCL...79

<small>4.4.1.2</small> Khía cạnh tài chính của nghề lưới kéo ở Đồng bằng sôngCửu Long...82

<small>4.4.1.3 Thu nhập của lao động khai thácthủysản...84</small>

<small>4.4.1.4</small> Cá tạp trong khai thácthủysản...<small>84</small>

<small>4.4.2 Hiệu quả kỹ thuật của nghề lướikéođơn...85</small>

<small>4.4.2.1</small> Mô tả các yếu tố đầu vào và đầu ra trong mô hình hiệu quảkỹthuật...85

<small>4.4.2.2</small> Ước lượng hiệu quả kỹ thuật của nghề lưới kéo ngoài yếu tốtrữ lượng...86

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>4.4.3.2</small> Kiểm định các tham số của mơ hình hàmchiphí...102

<small>4.4.3.3</small> Hiệu quả chi phí của nghềlướikéo...104

<small>4.4.3.4</small> Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả chi phí của nghềlướikéo...107

4.5 Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác thủy sản ở Đồng bằng sơngCửuLong...111

<small>4.5.1 Thuận lợi và khó khăn của nghề lưới kéoởĐBSCL...111</small>

<small>4.5.2</small> Giải pháp nâng cao hiệu quả của nghề khai thác thủy sảnở ĐBSCL...<small>112</small>

<small>4.5.2.1</small> Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất củangư dân...112

<small>4.5.2.2</small> Giải pháp quản lý nghề lưới kéo ở Đồng bằng sôngCửuLong...113

<small>4.5.2.3</small> Giải pháp nâng cao hiệu quả phân phối và tiêu thụsảnphẩm...114

<b>Chương 5: KẾT LUẬN VÀKIẾNNGHỊ...115</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>DANH SÁCH BẢNG</b>

Bảng 2.1: Số lượng tàu khai thác thủy sảnởĐBSCL...10

Bảng 2.2: Trữ lượng và khả năng khai thác NLTS vùng biển ĐNBvà TNB...16

Bảng 2.3: Sản lượng thủy sản khai thác ở ĐBSCLtừ 2015-2021...16

Bảng 2.4: Hiệu quả tài chính của nghềlướikéo...20

Bảng 2.5: Tổng hợp kết quả nghiên cứu về hiệu quả sản xuấttrongKTTS...29

Bảng 3.1: Số quan sát cầnthu thập...57

Bảng 3.2: Mô tả yếu tố đầu vào, đầu ra của hàm hiệu quảkỹthuật...60

Bảng 4.1: Thông tin chung về hộ khai thác của nghềlưới kéo...66

Bảng 4.2: Kết cấu của tàu và ngư cụ khai thácthủysản...68

Bảng 4.3: Thời gian và sản lượng thủy sản khai thác của nghềlưới kéo...69

Bảng 4.4: Thành phần loài thủy sản nghề lưới kéo đơnở ĐBSCL...71

Bảng 4.6: Giá bình qn một lồi thủysản chính...73

Bảng 4.7: Đăng ký ngư cụkhaithác...75

Bảng 4.8: Nhận định của ngư về về các quy định quản lý nguồn lợithủysản...76

Bảng 4.9: Đánh giá của ngư dân về sự suy giảm nguồn lợithủysản...77

Bảng 4.10: Tỷ lệ (%) mức điểm của các khía cạnh về bảovệNLTS...77

Bảng 4.11: Giá trị đầu tư và chi phí cố định của nghềlưới kéo...81

Bảng 4.12: Chi phí, doanh thu và lợi nhuận của nghề lướikéođơn...83

Bảng 4.13: Thu nhập của lao động trên tàu lướikéo đơn...84

Bảng 4.14: Tỷ lệ cá tạp trong khai thácthuỷsản...85

Bảng 4.17: Kết quả ước lượng hàm sản xuất và phi hiệu quảkỹthuật...88

Bảng 4.18: Mức hiệu quả kỹ thuật của nghềlướikéo...90

Bảng4.22:KếtquảướclượnghiệuquảkỹthuậtcóyếutốtrữlượngNLTS...100

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>DANH SÁCH HÌNH</b>

Hình 2.1: Cơ cấu lượng tàu khai thác ven bờ vàxabờ...11

Hình 2.2: Cơng suất tàu khai thácthủysản...12

Hình 2.3: Cơ cấu nghề khai thác thủy sản chínhởĐBSCL...13

Hình 2.4: Số lượng tàu lưới kéoởĐBSCL...14

Hình 2.5: Ngư trường khai thác vụ Bắc củalướikéo...15

Hình 2.6: Ngư trường khai thác vụ Nam củalướikéo...15

Hình 2.7: Sản lượng thủy sản khai thácởĐBSCL...17

Hình 2.8: Năng suất khai thác thủy sảnở ĐBSCL...18

Hình 2.9: Kênh phân phối sản phẩm thủy sảnkhaithác...33

Hình 3.1: Lướikéođơn...35

Hình 3.2: Cắt lược sơ đồ vùng biểnViệtNam...37

Hình 3.3: Đo lường hiệu quả theođầuvào...41

Hình 3.4: Đo lường hiệu quả theođầura...41

Hình 3.5: Sản lượng và nỗ lựckhaithác...42

Hình 3.6: Nỗ lực khai thác, tổng doanh thu và tổng chi phí củanghềcá...43

Hình 3.7: Khung phân tích củanghiêncứu...54

Hình 3.8: Vùngnghiêncứu...56

Hình 4.1: Kênh phân phối sản phẩm thủy sản củalướikéo...74

Hình 4.2: Rủi ro trong khai thácthủysản...78

Hình 4.3: Cơ cấu chi phí khai thác phân theo vùngkhaithác...79

Hình 4.4: Cơ cấu chi phí khai thác phân theo nhóm chiều dài tàulướikéo...80

Hình 4.9: Mức TE với đăng ký ngư cụ và liên kết trongkhaithác...98

Hình 4.10: Mức hiệu quả chi phí của nghềlướikéo...105

Hình 4.11: Hiệu quả chi phíởĐNB...105

Hình 4.12: Hiệu quả chi phíởTNB...106

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

NNvàPTNT Nơng nghiệp và Phát triển nôngthôn

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Quản lý nghề cá là quản lý theo nhiều mục tiêu, bao gồm mục tiêu về kinh tế, nguồn lợi thủy sản

<i>(NLTS), xã hội, và chính trị (Mardleet al., 2002) nên</i>

một số mục tiêu dẫn đến mâu thuẫn như là giữa mục tiêu kinh tế và NLTS hoặc xã hội. Ở các nước đang phát triển, kể cả Việt Nam có đặc điểm quản lý tài nguyên mở và tiếp cận quản lý nghề cá đa mục tiêu, trong đó trọng yếu là mục tiêu xã hội, tức là quan tâm đến thu nhập và việc làm của cộng đồng ngư

<i>dân (Quanget al., 2019). Nên quản lý nghề cá có thể</i>

gặp khó giữa tăng nỗ lực khai thác để đạt được hiệu quả kinh tế và hạn chế nỗ lực khai thác để giảm chi

<i>phí khai thác (Wardet al., 2004). Việc cân bằng giữa</i>

các mục tiêu là thách thức đối với nhà quản lý. Một khi quản lý nghề cá có hiệu quả thì góp phần gia tăng sản lượng khai thác và giải quyết tốt việc làm, thu nhập của ngư dân cũng như giảm áp lực lên NLTS, đặc biệt là vùng khai thác có NLTS suy giảm (ví dụ là vùng biển ven bờ ở ViệtNam).

Quản lý nghề khai thác thủy sản (KTTS) sử dụng nhiều công cụ kiểm sốt, trong đó là cơng cụ quản lý được áp dụng phổ biến là kiểm soát các hoạt

<i>động của ngư dân (Quanget al., 2019) thông qua</i>

cách tiếp cận kiểm soát các yếu tố đầu vào và đầu ra,

<i>hạn ngạch khai thác (Pascoeet al., 2003). Cách kiểm</i>

soát nỗ lực khai thác chủ yếu là giảm công suất đánh bắt, thông qua các chỉ tiêu như là số ngày đánh bắt, công suất máy, ngư cụ, chiều dài tàu, trọng tải tàu

<i>(Pascoe & Coglan, 2000; Quanget al., 2019). Đo</i>

lường hiệu quả trong hoạt động KTTS là xem xét mối quan hệ giữa nỗ lực khai thác và sản lượng thủy sản đánh bắt (Anderson, 2004), tương ứng với mối quan hệ giữa các yếu tố đầu vào được sử dụng với sản lượng đầu ra trong một quá trình sản xuất (Beattie & Taylor, 1993). Tuy nhiên, nỗ lực khai thác là một khái niệm phức tạp, có thể được đo

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

lường bởi các yếu tố đặc trưng bao gồm thời gian đánh bắt, số lượng tàu, lực lượng lao động (Pascoe & Coglan, 2000; Anderson, 2004; Song & Thụy, 2006). Vì thế, nổ lực khai thác thủy sản là một biến số được kiểm soát bởi nguồn lực con người (Anderson, 2004). Thông tin về hiệu quả sản xuất và các yếu tố tác động đến hiệu quả của các tàu KTTS có giá trị trong việc giải quyết cả tình trạng khai thác NLTS quá mức và giá cả đầu vào và đầu ra không ổn định (Guttormsen & Roll, 2011). Chính vì vậy, phân tích hiệu quả sản xuất trong KTTS có vai trị quan trọng cho ngư dân và người quản lý trong ngành thủy sản. Nó góp phần cung cấp thông tin cơ bản về hoạt động KTTS của tàu, các nhà quản lý có cơ sở đưa ra hoặc xây dựng các cơng cụ chính sách quản lý nghề cá, đánh giá lại sự phù hợp việc thực hiện các chính sách quản lý và ngư dân có thể xem xét mức

<i>đầu tư (Roseet al.,2000).</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Nghiên cứu về hiệu quả sản xuất trong KTTS được nhiều tác giả trong và ngoài nước

<i>quan tâm. Một số nghiên cứu tập trung đánh giá hiệu quả theo ngư cụ khai thác (Squiresetal., 2003; Truonget al., 2011; Duy & Flaaten, 2016; Quanget al., 2019), một số nghiêncứu theo hướng cách tiếp cận của nghiên cứu (Fousekis, 2002; Herreroet al., 2006;Tingleget al., 2005) hoặc đối tượng loài đánh bắt (Pascoeet al.,2017; Kompaset al.,2004)</i>

và cũng như chỉ đánh giá về khía cạnh kỹ thuật và tài chính của hoạt động khai thác (Sinh

<i>& Long, 2011; Vẹn vàctv, 2014; Hùng & Quỳnh, 2020). Điều này cho thấy đo lường hiệu</i>

quả KTTS được ứng dụng trong nhiều mục đích khác nhau và tùy thuộc vào dữ liệu nghiên cứu và đặc điểm của hoạt động KTTS. Có hai cách tiếp cận đo lường hiệu quả sản xuất phổ biến trong KTTS là cách tiếp cận biên ngẫu nhiên và phân tích màng bao dữ liệu. Đặc điểm chung của hai kỹ thuật đo lường là phương pháp ước lượng biên, một đường biên sẽ được xác định và điểm hiệu quả sẽ được xác định dựa trên đường biên đó (Lewin & Lovell 1990). Các nghiên cứu liên quan đến hiệu quả sản xuất, bao gồm kỹ thuật và

<i>kinh tế điển hình trong KTTS là Kirkleyet al. (1995); Sharma & Leung (1999); Pascoe &Coglan (2002); Kompas & Che (2005); Herrereet al. (2006); Quanget al. (2019); Vinaryetal. (2022).</i>

Ở Việt Nam, nghiên cứu về hiệu quả sản xuất trong KTTS được ứng dụng ở một vài

<i>nghiên cứu liên quan đến ngư cụ khai thác, điển hình là lưới rê ở Đà Nẵng (Truong et al.,2011); lưới kéo ở Nha Trang (Ngocet al., 2009) và lưới kéo ở Quảng Ninh và Bến Tre(Quanget al., 2019), nhưng nghiên cứu ở lĩnh vực này vẫn còn hạn chế, đặc biệt là ở Đồng</i>

bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), vùng với KTTS là hoạt động sinh kế quan trọng của cộng đồng ven biển (Sinh & Long, 2011). Chính vì thế, nghiên cứu này tập trung phân tích về hiệu quả sản của nghề KTTS, đặc biệt nghề lưới kéo đơn ở ĐBSCL thông qua cách tiếp cận hàm sản xuất ngẫu nhiên, nhằm góp phần đưa ra một số hàm ý chính sách quản lý khai thác ổn định nghề KTTS ở ĐBSCL.

<b>1.1.2 Tính cấp thiết về thựctiễn</b>

Thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam với đóng góp 9-10% tổng kim ngạch xuất khẩu (VASEP, 2021) trong đó có sự góp phần của hoạt động KTTS. Sản lượng hải sản khai thác từ 3,1 triệu tấn và giá trị xuất khẩu là 2,2 tỷ USD trong năm 2015 (VASEP, 2018) và tăng đến 3,92 triệu tấn, mang lại giá trị xuất khẩu là 3,4tỷUSD trong năm 2021 (VASEP, 2022). Ngoài ra, KTTS đã tạo ra một nguồn thực phẩm lớn cho tiêu thụ trong nước và trực tiếp và gián tiếp tạo việc làm cho cộng đồng dân cư vùng ven biển

<i>(Pomeroyet al., 2009; Sinh & Long, 2011). Đồng bằng sơng Cửu Long là vùng có dân số</i>

17,3 triệu người, chiếm 17,7% tổng dân số của cả nước (Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2021) với hơn 74,2% dân số sống ở vùng nông thôn. Đồng bằng sông Cửu Long cung cấp hơn 38,4% tổng sản lượng thủy sản khai thác tự nhiên của Việt Nam, trong đó sản lượng hải sản là 26,1% (Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2021). ĐBSCL là vùng có tám tỉnh tiếp

độngk h a i t h á c t h ủ y s ả n ( T ổ n g c ụ c T h ố n g k ê V i ệ t N a m , 2 0 2 1 ) , t r o n g đ ó t ỉ n h S ó c

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang đóng góp khoảng 70% sản lượng thủy sản khai thác và chủ yếu là hải sản. Nghề khai thác thủy sản của vùng thì khá đa dạng. Lưới kéo, lưới rê và lưới vây là ba loại nghề khai thác phổ biến, chiếm khoảng 60% tổng lượng tàu của vùng. Qui mô khai thác thủy sản ở ĐBSCL trong năm 2018 là qui mô nhỏ và khai thác gần bờ, chiếm khoảng 53,3% số tàu đánh cá. Ngoài ra, thu nhập của hộ ngư dân khai thác được tích lũy chính từ hoạt động khai thác thủy sản với hơn 80% tổng thu nhập của

<i>hộ (Hiền vàctv., 2019). Vì vậy, cộng đồng dân cư ven biển ở Việt Nam nói chung và</i>

ĐBSCL nói riêng phụ thuộc lớn vào nguồn tài nguyên thủy sản và NLTS ven bờ đang bị

<i>áp lực (Pomeroyet al,2009).</i>

Nghề lưới kéo (còn gọi nghề cào) ở ĐBSCL là một trong những nghề khai thác thủy

<i>sản phổ biến, có thể phân thành hai loại là nghề lưới kéo đơn và lưới kéo đơi (Long vàctv.,</i>

2019). Lưới kéo đơn hay cịn gọi là nghề lưới kéo một tàu, lưới được mở ngang bằng hai ván lưới và ngư trường khai thác là vùng ven bờ và vùng lộng (vùng biển ven bờ) và vùng khơi (vùng biển xa bờ). Lưới kéo đôi là nghề lưới kéo hai tàu kéo một lưới và ngư trường khai thác chủ yếu là vùng khơi. Nghề lưới kéo được đánh giá là nghề có tính chọn lọc thấp, do khai thác đa dạng thành phần loài và kích cỡ thủy sản. Lưới kéo khai thác chủ yếu các loài thủy sản sống ở tầng đáy và tầng gần đáy biển. Nghề lưới kéo đơn ở ĐBSCL là nghề hoạt động với quy mô nhỏ, là tàu khai thác nhỏ, sử dụng số lao động trên tàu ít,

<i>cơng suất máy tàu khơng lớn, vùng khai thác ven bờ (Wagenaaret al., 2007; Madauet al.,</i>

2009; Sinh & Long, 2011), nên sản lượng khai thác trên đơn vị đánh bắt nhỏ, tiêu thụ sản

<i>phẩm tại địa phương và trong nước (Hauck, 2008; Madauet al., 2009). Năng suất khai</i>

thác của lưới kéo ven bờ đạt 530 kg/CV/năm. Tổng chi phí sản xuất của nghề lưới kéo khoảng 307-376 triệu đồng/năm/tàu và mang lại lợi nhuận 19,9 triệu đồng đối với lưới kéo

<i>(Sinh & Long, 2011; Vẹn vàctv,2013).</i>

Mặc khác, tiêu thụ sản phẩm thủy sản khai thác là vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt là ngư dân quy mô nhỏ. Các nghiên cứu trước cho thấy ngư dân bán sản phẩm qua các khâu trung gian như là vựa thu mua, sơ chế và chế biến và cuối cùng được cung cấp đến

<i>người tiêu dùng (Ardjosediro & Neven, 2008; Porraset al.,2017; Duy vàctv., 2012; Duyvàctv., 2014). Ngư dân bán sản phẩm thuỷ sản chủ yếu là tươi sống và kênh bán hàngtruyền thống (Vẹn vàctv., 2013; Duy vàctv., 2014; Phượng vàctv., 2018). Ngư dân là tác</i>

nhân đầu tiên trong kênh phân phối và ảnh hưởng trực tiếp bởi nhiều rủi ro trong khai

<i>thác, thị trường đầu vào và đầu ra (Vẹn vàctv., 2013; Rosaleset al., 2017; Purcelletal.,2017), do ngư dân khai thác với qui mô nhỏ thường ít thơng tin về giá trên thị trường</i>

và nếu có thơng tin thường do các vựa thu mua cung cấp. Ngoài ra, ngư dân thiếu dữ liệu tin cậy và thông tin về các tác nhân tham gia trong chuỗiKTTS.

Định hướng phát triển ngành khai thác thủy sản các tỉnh ven biển ở ĐBSCL đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 là tổ chức lại sản xuất khai thác hải sản trên

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

biển, đặc biệt là hạn chế áp lực khai thác vùng biển ven bờ và tăng khả năng khai thác vùng biển xa bờ. Viện Nghiên cứu Hải sản (2018) thống kê tổng trữ lượng nguồn lợi hải sản ở vùng biển Việt Nam giảm 13,9% từ 2000-2014 và phần lớn sự giảm trữ lượng ở nhóm hải sản tầng đáy biển (41,7%). Hạn chế nghề khai thác hải sản ở tầng đáy và gần đáy biển (ví dụ nghề lưới kéo) là chính sách được quan tâm ở các tỉnh ven biển ở ĐBSCL. Các tỉnh ven biển ở ĐBSCL đã và đang thực hiện theo chiến lược phát triển chung của ngành và quan tâm đến vấn đề chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản. Sở NN và PTNT tỉnh Bạc Liêu (2020) thống kê tốc độ giảm bình quân số lượng tàu khai thác thủy sản ven bờ là 1,1%/năm và tăng bình quân số lượng tàu xa bờ là 1,6%/năm trong giai đoạn từ 2016-2020. Tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh có tốc độ khai thác thủy sản tăng bình quân 2,03%/năm và 4,77%/năm tương ứng giai đoạn 2021- 2030, giảm khoảng 3%/năm và 5%/ năm so với giai đoạn 2016-2020 (Sở NN và PTNT tỉnh Sóc Trăng, 2016; Sở NN và PTNT tỉnh Trà Vinh, 2017). Nhìn chung, sự thay đổi cơ cấu về quy mơ khai thác có xu hướng là số lượng tàu khai thác công suất nhỏ giảm, phù hợp với chủ trương giảm số lượng tàu khai thác ven bờ và phát triển số lượng tàu khai thác thủy sản vùng xa bờ. Tuy nhiên, một trong những áp lực lớn cho các sở ban ngành của địa phương là chưa có chính sách hỗ trợ và kinh phí đầu tư chuyển đổi nghề khai thác, tạo sinh kế thay thế một số nghề khai thác thủy sản vùng ven bờ (SởNNvà PTNT tỉnh Bạc Liêu, 2020). Khó khăn này có thể làm giảm hiệu quả của chính sách tổ chức lại sản xuất khai thác trên biển. Mặt khác, nghề lưới kéo vẫn thu hút ngư dân tham gia khai thác, đặc biệt là các tàu khai thác vùng ven bờ, do mức đầu tư phù hợp nguồn tài chính của ngư dân. Một số ngư dân chấp nhận lựa chọn nghề này để sinh kế với hình thức trái phép. Chính những lý do trên nghiên cứu để quản lý hiệu quả là góp phần cung cấp thơng tin, các thể chế và quy định được xây dựng hiệu quả, ngư dân có thể cải thiện thu nhập và định hướng phát triển nghề nghiệp cho ngư dân thông qua nâng cao hiệu quả sảnxuất.

Trên những thực trạng trên cho thấy để quản lý KTTS hiệu quả, ngư dân KTTS cần thông tin hiệu quả sản xuất của họ và nhà quản lý đánh giá chính sách quản lý nghề cá cũng như góp phần cung cấp thơng tin để xây dựng công cụ quản lý hiệu quả trong KTTS, nên vấn đề này thật sự cần thiết để nghiêncứu.

<b>1.2 Mục tiêu nghiêncứu</b>

Mục tiêu tổng quát của đề tài là phân tích hiệu quả sản xuất của nghề lưới kéo ở Đồng bằng sơng Cửu Long, từ đó đề xuất hàm ý chính sách quản lý khai thác ổn định nghề lưới kéo ở Đồng bằng sông Cửu Long. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu là:

<b>-Ước lượng hiệu quả kỹ thuật trong hoạt động khai thác thủy sản của nghề lưới kéo ở</b>

Đồng bằng sông Cửu Long.

- Ước lượng hiệu quả chi phí trong khai thác thủy sản của nghề lưới kéo ở Đồng bằng sông CửuLong.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

- Xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất trong hoạt động khai thác thủy sản của ngư dân nghề lưới kéo ở Đồng bằng sông CửuLong.

- Đề xuất hàm ý chính sách quản lý phát triển ổn định nghề lưới kéo ở Đồng bằng sông Cửu Long.

<b>1.3 Câu hỏi nghiêncứu</b>

Để thỏa mãn những mục tiêu nghiên cứu, đề tài có những câu hỏi nghiên cứu như sau:

- Mức hiệu quả kỹ thuật của các tàu lưới kéo ở vùng ĐBSCL đạt ở mức độnào? - Mức hiệu quả chi phí của các tàu lưới kéo ở vùng ĐBSCL đạt ở mức độnào? - Yếutốnàotácđộngđếnmứchiệuquảkỹthuậtvàchiphícủacáctàulướikéo ở ĐBSCL?

<b>1.4 Phạm vi nghiêncứu</b>

<b>1.4.1 Đối tượng nghiêncứu</b>

Đối tượng nghiên cứu của luận án này là phân tích hiệu quả kỹ thuật và chi phí của nghề lưới kéo ở ĐBSCL. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất hàm ý chính sách quản lý phát triển ổn định nghề lưới kéo ở Đồng bằng sông Củu Long. Hoạt động khai thác được định nghĩa theo vùng thủy vực bao gồm khai thác thủy sản nội đồng và khai thác thủy sản biển (Sở NN và PTNT tỉnh Sóc Trăng, 2016). Do vậy, đối tượng nghiên cứu chỉ tập trung vào hoạt động khai thác biển, sau đây được gọi ngắn gọn là khai thác thủy sản và các quyết định đưa ra trong quá trình khai thác thủy sản của ngư dân ở ĐBSCL.

Ngư cụ khai thác thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng, trong đó có nghề lưới kéo đơn. Lưới kéo đơn là ngư cụ khai thác chủ động, vùng khai thác rộng, mùa vụ quanh năm và khai thác chủ yếu các loài thủy sản sống ở tầng đáy và tầng gần đáy biển. Đặc điểm của nghề lưới kéo là chọn lọc đối tượng khai thác thấp nên khai thác đa dạng thành phần loài và kích cỡ thủy sản. Quy mơ khai thác thủy sản của ngư dân sử dụng lưới kéo đơn ở ĐBSCL chủ yếu là quy mơ nhỏ. Trong khi đó, tổng trữ lượng nguồn lợi thủy sản ở vùng biển Việt Nam giảm 13,9% từ năm 2000 đến 2014 và sự giảm trữ lượng ở nhóm thủy sản tầng đáy biển là phần lớn, chiếm 41,7% tổng trữ lượng thủy sản (Viện Nghiên cứu Hải sản, 2018). Định hướng phát triển ngành khai thác thủy sản các tỉnh ven biển ở ĐBSCL đến năm 2020 và năm 2030 là tổ chức lại sản xuất khai thác thủy sản trên biển, đặc biệt là hạn chế áp lực khai thác vùng biển ven bờ và tăng khả năng khai thác vùng biển xa bờ. Hạn chế nghề khai thác thủy sản ở tầng đáy và gần đáy biển (ví dụ nghề lưới kéo đơn) là chính sách được quan tâm ở các tỉnh ven biển ở ĐBSCL. Chính vì thế, nghiên cứu này tập trung khảo sát trên loại ngư cụ là lưới kéo đơn có chiều dài tàu từ 6 m đến dưới 15 m, là nhóm ngư cụ khai thác thủy sản từ vùng lộng trở vào vùng ven bờ và không khai thác ở vùngkhơi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<b>1.4.2 Phạm vi khônggian</b>

Nghiên cứu tập trung khảo sát nghề lưới kéo đơn ở bốn tỉnh thuộc ĐBSCL là Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Trong đó, tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu đại diện cho vùng biển khai thác ở phía Đơng (ĐNB) và tỉnh Kiên Giang và Cà Mau đại diện cho vùng biển khai thác ở phía Tây (TNB). Các tỉnh này phát triển mạnh về hoạt động KTTS, chiếm khoảng 70% về sản lượng thủy sản khai thác của ĐBSCL. Thêm vào đó, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các tàu lưới kéo đơn khai thác ở vùng ven bờ và vùng lộng, tương ứng chiều dài tàu từ 6 m đến dưới 12 m và 12 m đến dưới 15m.Luật Thủy sản Việt Nam năm 2017 và Nghị định số 26/2019/NĐ-CP của Chính phủ năm 2019 đã sửa đổi và quy định quản lý vùng khai thác thủy sản ở vùng biển là vùng khai thác bao gồm vùng ven bờ, vùng lộng và vùng khơi, tương ứng với tàu có chiều dài từ 6 – dưới 12 m, 12- dưới 15 m và trên 15 m, thay cho quy định vùng khai thác thủy sản trước đó (Luật Thủy sản 2003) là vùng gần bờ và vùng xa bờ, tương ứng với tàu có cơng suất máy tàu từ dưới 90 CV và từ 90 CV trởlên.

<b>1.4.3 Phạm vi thờigian</b>

Nghiên cứu này sử dụng thông tin từ hai loại số liệu để phân tích các nội dung nghiên cứu là số liệu thứ cấp và sơ cấp. Thứ nhất là thông tin dữ liệu thứ cấp chủ yếu được thu thập trong giai đoạn 2015 – 2021 để phân tích trong luận án. Thứ hai là thông tin dữ liệu sơ cấp các thông tin về hoạt động khai thác của các tàu lưới kéo đơn tại địa bàn nghiên cứu; hoạt động kinh doanh và sản xuất của các cơ sở vựa và thương lái thu mua, hộ sơ chế và chế biến; hộ kinh doanh bán lẻ các mặt hàng thủy sản. Nhằm đảm bảo thống nhất với hai nhóm tàu ở hai vùng nghiên cứu. Nghiên cứu này, tác giả chọn phân tích đánh giá hiệu quả khai thác bình quân trên chuyến với thời gian hoạt động sản xuất trong năm 2019. Ở các tàu có chiều dài từ 6 m đến dưới 15 m, công nghệ và trang thiết bị trên tàu trang bị khai thác thủy sản không quá khác biệt giữa các tàu. Nghiên cứu cũng giả định trong năm 2019, ngư dân bán sản phẩm khai thác không biến động lớn bởi sự tác động của thị trường và mùa vụ khai thác thủysản.

<b>1.4.4 Phạm vi nội dung nghiêncứu</b>

Đề tài nghiên cứu về hiệu quả sản xuất của nghề khai thác thủy sản ở ĐBSCL. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu tập trung phân tích hiệu quả sản xuất của nghề lưới kéo có chiều dài từ 6- dưới 15 m, với ngư trường là vùng ven bờ và vùng lộng. Đây là một trong những ngư cụ khai thác thủy sản phổ biến và được quản lý chặt chẽ của cơ quan ban ngành.

Nội dung 1: Phân tích hiện trạng khai thác, quản lý của nghề lưới kéo ở Đồng bằng sơng Cửu Long. Các nội dung 1 được trình bày như là (1) Hiện trạng khai thác thủy sản của nghề lưới kéo ở ĐBSCL; (2) Tình hình tiêu thụ và phân phối của sản phẩm thủy sản của nghề lưới kéo ở ĐBSCL; và (3) Hiện trạng quản lý của nghề lưới kéo ở ĐBSCL.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Nội dung 2: Hiệu quả sản xuất của nghề lưới kéo ở ĐBSCL. Các nội dung 2 bao gồm (1) Phân tích hiệu quả tài chính của nghề lưới kéo ở ĐBSCL; (2) Phân tích hiệu quả kỹ thuật và chi phí của nghề lưới kéo ở ĐBSCL; và (3) Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến sự kém hiệu quả kỹ thuật và chi phí của nghề lưới kéo ởĐBSCL.

Nội dung 3: Đề xuất hàm ý chính sách quản lý phát triển ổn định nghề lưới kéo ở ĐBSCL. Nội dung 3 được trình bày là (1) Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nghề lưới kéo; (2) Giải pháp quản lý nghề lưới kéo ở Đồng bằng sông Cửu Long; và (3) Giải pháp nâng cao hiệu quả phân phối và tiêu thụ sản phẩm thủy sản .

<b>1.5 Cấu trúc của luậnán</b>

Nội dung của luận án gồm có 5 chương, nội dung cụ thể của các chương được trình bày như sau:

Chương 1: Giới thiệu. Nội dung của chương trình bày tính cấp thiết về mặt lý luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu của luận án, các mục tiêu nghiên cứu cần đạt được, các câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu. Đồng thời, nội dung của chương này cịn trình bày cấu trúc của luận án, một số đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn và điểm mới cũng như một số hạn chế của luậnán.

Chương 2: Tổng quan tài liệu. Nội dung của chương 2 gồm có một số nội dung chính được trình bày như: Khái qt về hoạt động khai thác thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long, tổng quan các tài liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu, nó cung cấp những thơng tin cơ bản về lĩnh vực nghiên cứu và khái quát các công trình nghiên cứu liênquan.

Chương 3: Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu này trình bày một cách tổng thể cơ sở lý luận, các khái niệm, đánh giá lý thuyết về hiệu quả trong khai thác thủy sản. Trên cơ sở lý thuyết và lý luận, phương pháp nghiên cứu của luận án này được xây dựng nhằm đáp ứng với mục tiêu và nội dung nghiên cứu đề ra.

(1) Nghiên cứu mô tả hiện trạng khai thác của nghề lưới kéo ở Đồng bằng sông Cửu Long;(2)TìnhhìnhtiêuthụvàphânphốicủasảnphẩmthủysảnkhaithácởĐBSCL;

(3) Hiện trạng quản lý của nghề lưới kéo ở ĐBSCL; (4) Phân tích hiệu quả sản xuất và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của nghề lưới kéo ở ĐBSCL; và (5) Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất, quản lý và tiêu thụ sản phẩm thủy sản của nghề lưới kéo ở ĐBSCL.

Chương 5: Kết luận và kiến nghị. Nội dung chương 5 được tác giả trình bày kết luận về các kết quả đạt được của nghiên cứu theo mục tiêu và nội dung nghiên cứu đã đặt ra. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và những hạn chế của nội dung nghiên cứu, tác giả kiến nghị những định hướng nghiên cứu trong tương lai trong lĩnh vực khai thác thuỷ sản ở ĐBSCL.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<b>1.6 Đóng góp của luậnán</b>

Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, thực trạng khai thác, tiêu thụ sản phẩm thủy sản và kết quả nghiên cứu thực nghiệm, kết quả luận án có một số đóng góp cho thực tiễn và khoa học như sau:

Nghiên cứu mô tả thực trạng hoạt động khai thác, tình hình tiêu thụ và kênh phân phối sản phẩm của nghề lưới kéo ở ĐBSCL. Từ đó góp phần cung cấp và bổ sung thơng tin liên quan cho nhà quản lý và ngư dân. Đồng thời, thực trạng khai thác thủy sản này góp phần bổ sung thông tin về nguồn tài liệu tham khảo cho đào tạo giáo dục.

Kết quả nghiên cứu đã cung cấp thông tin sự kém TE và CE trong KTTS là một phần do sự phối hợp các yếu tố đầu vào trong q trình khai thác. Ngồi ra, nghiên cứu cũng xác định các yếu về đặc điểm tàu, ngư cụ và kinh tế- xã hội của ngư dân tác động sự kém hiệu quả sản xuất. Từ đây, ngư dân nắm được hiện trạng phối hợp sử dụng các yếu tố sản xuất nhằm góp phần cho ngư dân điều chỉnh và định hướng KTTS đạt hiệu quả tối ưu. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu là cơ sở vận dụng xây dựng chính sách trong việc quản lý phát triển ngành khai thác thủy sản trên địa bàn nghiêncứu.

Luận án áp dụng phương pháp ước lượng tham số, với phương pháp ước lượng biên ngẫu nhiên để đo lường TE và CE cũng như phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến TE và CE trong KTTS. Phương pháp ước lượng tham số được nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực nơng nghiệp nói chung và khai thác thủy sản nói riêng thực hiện. Nghiên cứu này ứng dụng kỹ thuật ước lượng đồng thời giữa hàm sản xuất và hàm phi hiệu quả nhằm để đạt được các ước lượng vững. Ngồi ra, luận án cịn tính tốn hiệu suất quy mơ của hoạt động khai thác thủy sản của ngư dân làm nghề lưới kéođơn.

Luận án góp phần làm giàu phương pháp đo lường hiệu quả sản xuất trong hoạt động KTTS với nhiều đầu ra sản phẩm. Cụ thể là phương pháp ước lượng hiệu quả kỹ thuật với biến đầu ra là doanh thu và sản lượng tổng hợp dựa trên tỷ trọng doanh thu các lồi và nhóm lồi thủy sản đóng góp. Ngồi ra, tác giả đã ứng dụng phương pháp hồi quy logigit thứ bậc (Ordered logistic regression) cho các nhân tố tác động đến chỉ số phi hiệu quả kỹ thuật và chi phí. Từ đó tác giả xác định được xác suất hiệu quả của từng nhóm, góp phần đưa ra kiến nghị cho ngư dân nâng cao hiệu quả KTTS.

Địa bàn nghiên cứu là bốn tỉnh ven biển là Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang thuộc Đồng bằng sơng Cửu Long,đâylà vùng có hoạt động khai thác thủy sản trọng điểm và trong định hướng phát triển kinh tế biển. Do đó, cần có nhiều nghiên cứu và đề xuất giải pháp phát triển ngành khai thác thủy sản trong thời giantới.

<b>1.7 Hạn chế của luậnán</b>

Nghiên cứu đã phân tích được thực trạng, hiệu quả sản xuất, các yếu tố tác động đến hiệu quả sản xuất và tình hình tiêu thụ sản phẩm thủy sản khai thác của nghề lưới kéo ở ĐBSCL. Tuy nhiên, nghiên cứu còn một số hạn chế như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

- Giá sản phẩm thủy sản khai thác được giả định là ổn định trong thời gian nghiên cứu, tức là doanh thu hoạt động khai thác của ngư dân phần lớn phụ

- Nghiên cứu chỉ tập trung phân tích hiệu quả sự phối hợp các yếu tố đầu vào trong khai thác của ngư dân. Trong khi đó, nguồn lợi thủy sản là nguồn lợi tự nhiên nên hiệu quả khai thác của ngư dân còn phụ thuộc vào yếu tố trữ lượng NLTS. Tức là phân tích về mặt sinh học chưa được quan tâm bởi u cầu số liệu phải có các thơng số về mặt sinh học của các loài cá cũng như số liệu theo thời gian (tháng, quý, năm). Hơn nữa, số liệu của nghiên cứu là số liệu sử dụng các giá trị bình quân và dựa vào ước đốn của người phỏng vấn nên có thể ảnh hưởng đến kếtquả.

- Hoạt động khai thác thủy sản của ngư dân rất đa dạng về ngư cụ và ngư trường khai thác, nhưng nghiên cứu chỉ tập trung các tàu lưới kéo đơn với chiều dài tàu từ 6m đến dưới 15 m ở ngư trường khai thác vùng ven bờ và vùnglộng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<b>Chương 2</b>

<b>TỔNG QUAN TÀI LIỆU</b>

Chương 2 mơ tả các nội dung chính sau: (1) khái quát tổng quát các đặc điểm về hoạt động khai thác thủy sản ở ĐBSCL thông qua các chỉ tiêu như là quy mô khai thác, nghề khai thác, ngư trường, mùa vụ cũng như sản lượng thủy sản khai thác; (2) tổng hợp các tài liệu liên quan đến hiệu quả sản xuất trong KTTS bao gồm hiệu quả về chi phí và tài chính; hiệu quả kỹ thuật và kinh tế trong hoạt động khai thác thủy sản cũng như thống kê các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất trong KTTS, và (3) khái quát về tình hình tiêu thụ và phân phối sản phẩm thủy sản khaithác.

<b>2.1 Hiện trạng khai thác thủy sản ở Đồng bằng sông CửuLong2.1.1 Qui mô khai thác thủy sản ở Đồng bằng sông CửuLong</b>

Đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện thuận lợi về điều kiện tự nhiên trong hoạt động khai thác thủy sản. Sản lượng thủy sản khai thác của vùng thời gian qua không ngừng gia tăng, đóng góp khoảng 41% sản lượng thủy sản khai thác của Việt Nam. Năm 2021, số lượng tàu thuyền khai thác thủy sản là 21.331 tàu, song với đó nhiều địa phương trong vùng đã đầu tư xây dựng trên 20 cảng cá, bến cá và hằng trăm cơ sở đóng sửa tàu thuyền cùng với các chợ và vựa thu mua thủy sản (Tổng cục Thống kê, 2022). Trong đó, đồng bằng sơng Cửu Long có khoảng 10.355 tàu đánh cá xa bờ, chiếm khoảng 48,5% số lượng tàu đánh bắt. Điều này có thể nói là qui mô KTTS ở ĐBSCL thuộc qui mô vừa và nhỏ, khoảng 51,5% số tàu đánh cá có qui mơ nhỏ và khai thác ven bờ. Tuy nhiên, số lượng tàu đánh cá xa bờ có phát triển trong những năm qua nhưng tỉ lệ còn hạn chế. Tỷ trọng phát triển số lượng tàu khai thác xa bờ tăng bình qn 2,3%/năm trong giai đoạn

Đồng bằng sơng Cửu Long có tám tỉnh ven biển đóng vai trị quan trọng phát triển kinh tế biển của vùng, trong đó tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và Sóc Trăng là những tỉnh phát triển mạnh về khai thác biển và là ngành phát triển kinh tế mũi

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

nhọn. Tổng số lượng tàu khai thác thủy sản của tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và Sóc Trăng chiếm khoảng 75% tổng lượng tàu khai thác và 65% tổng sản lượng thủy sản khai thác của toàn vùng. Chính vì thế việc quản lý và phát triển nguồn lợi thủy sản ổn định là một trong những mục tiêu quan trọng để quản lý nghề cá ở các tỉnh ven biển thuộc ĐBSCL này.

Ngư trường khai thác thủy sản ở ĐBSCL ở cả vùng ven bờ, vùng lộng (hai vùng này được gọi chung là vùng ven bờ) và vùng khơi (xa bờ). Giai đoạn 2015-2021, số lượng vùng khai thác thủy sản ven bờ có xu hướng giảm, được thay thế có số lượng tàu khai thác vùng xa bờ (Hình 2.1). Tỷ trọng giảm và tăng của số lượng tàu khai thác thủy sản ở hai vùng khai thác là 2%/năm và 2,3%/năm tương ứng (Tổng cục Thống kê, 2022). Tỷ lệ phần trăm số lượng tàu khai thác vùng ven bờ chiếm khoảng 60% năm 2015, giảm còn 51% vào năm 2021, đây là hiệu quả tích cực của chiến lược chính sách phát triển ngành, giảm số lượng tàu khai thác ven bờ, đặc biệt là các ngư cụ khai thác không thân thiện với môi trường. Đồng thời, số lượng tàu khai thác xa bờ có xu hướng tăng trong giai đoạn này, từ 40%, tăng lên là khoảng 49%, dù có sự giai tăng nhưng không đáng kể và sự gia tăng này cần được phát huy hơn nữa trong thời gian sau. Mặc dù là có xu hướng tích cực nỗ lực giảm tải áp lực khai thác ven bờ, nhưng số lượng tàu nghề khai thác ven bờ, do người dân chưa có điều kiện chuyển đổi nghề như là thiếu vốn và kỹ thuật cũng như e ngại rủi ro trong đầu tư khai thác xa bờ (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) tỉnh Trà Vinh,2017).

Hình 2.1: Cơ cấu lượng tàu khai thác ven bờ và xa bờ (Nguồn: Cục Thống kê các tỉnh ven biển ĐBSCL, 2022)

Hình 2.2 cho thấy cơng suất tàu khai thác vùng xa bờ ở ĐBSCL có xu hướng tăng ở năm từ 2015 đến 2017 và sau đó tổng công suất của đội tàu này tăng nhẹ và ổn định trong khoảng thời gian đến 2021. Tổng công suất tàu khai thác thủy sản có sự chênh lệch rất lớn ở hai vùng khai thác là ven bờ và xa bờ. Mặc dù, số lượngt à u

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

KTTS vùng ven bờ lớn hơn so với đội tàu khai thác xa bờ, nhưng tổng công suất của đội tàu xa bờ lớn hơn rất nhiều so với đội tàu khai thác ven bờ. Đối với đội tàu xa bờ, tổng cơng suất bình qn là 4 triệu CV, bình quân 400 CV/tàu, lớn hơn gấp nhiều lớn so với đội tàu ven bờ (0,31 triệu CV và 26 CV/tàu).

Hình 2.2: Cơng suất tàu khai thác thủy sản (Nguồn: Cục Thống kê các tỉnh ven biển ĐBSCL, 2022)

<b>2.1.2 Cơ cấu nghề khai thác thủysản</b>

Hoạt động khai thác thủy sản ở ĐBSCL có sự đa dạng về loại nghề khai thác. Theo số liệu thống kê của tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Kiên Giang cho thấy các tỉnh ven biển này đều có các nghề như nghề lưới rê, lưới kéo, lưới vây, nghề câu, ngư cụ cố định. Nghề lưới kéo, lưới rê và lưới vây là ba loại nghề khai thác thủy sản chính ở ĐBSCL (Hình 2.3) với tỷ trọng là 64,8% tổng số lượng tàu khai thác của vùng. Trong giai đoạn 2015-2021, tổng số lượng tàu KTTS nghề lưới kéo chiếm 40,4%, kế đến là nghề lưới rê là 20,4% và nghề lưới vây là 4%. Lưới vây là nghề khai thác chỉ tập trung khai thác ở ngư trường xa bờ, trong khi đó nghề lưới kéo và rê có thể đánh bắt ở ngư trường gần bờ và xa bờ. Điều này cho thấy, nghề lưới kéo có xu hướng tăng nhẹ và ổn định trong thời gian từ 2015-2019 và sau thời giannàysố lượng tàu lưới kéo có xu hướng giảm đến 2021, trong khi đó nghề lưới rê có xu hướng ổn định và tăng trong khoảng thời gian trên tươngứng.

Tỉnh Kiên Giang là một trong những tỉnh có số lượng tàu khai thác lớn nhất vùng ĐBSCL, trong đó tỷ trọng nghề lưới kéo chiếm khoảng 40% tổng số lượng tàu khai thác thủy sản (Cục thống kê tỉnh Kiên Giang, 2022), kế đến là tỉnh Cà Mau chủ yếu phát triển nghề lưới rê từ năm 2015 đến 2021, số lượng tàu lưới rê chiếm tỷ trọng từ 25,7% tổng số lượng tàu năm 2015 tăng lên khoảng 30% ở năm 2021. Tuy nhiên, số lượng tàu lưới kéo có xu hướng giảm, tỷ trọng từ 35% còn khoảng 12% tổng số lượng

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

tàu khai thác thủy sản (Cục thống kê tỉnh Cà Mau, 2022). Tỉnh Sóc Trăng, nghề lưới kéo và lưới rê là hai nghề có số lượng tàu lớn và tập trung loại tàu công suất nhỏ, chiếm khoảng 70% tổng số lượng tàu khai thác thủy sản (Cục thống kê tỉnh Sóc Trăng, 2022). Nghề khai thác này chủ yếu tập trung ở Cảng cá Trần Đề của tỉnh Sóc Trăng (Nhiên & Định, 2012).

Hình 2.3: Cơ cấu nghề khai thác thủy sản chính ở ĐBSCL (Nguồn: Cục Thống kê các tỉnh ven biển ĐBSCL, 2022)

Hình 2.4 cho thấy số lượng tàu lưới kéo ở ĐBSCL có xu hướng giảm trong 2015-2021. Định hướng phát triển ngành khai thác thủy sản các tỉnh ven biển ở ĐBSCL đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 là tổ chức lại sản xuất khai thác thủy sản trên biển, đặc biệt là hạn chế áp lực khai thác vùng biển ven bờ và tăng khả năng khai thác vùng biển xa bờ. Viện Nghiên cứu Hải sản (2018) thống kê tổng trữ lượng nguồn lợi thủy sản ở vùng biển Việt Nam giảm 13,9% từ năm 2000 đến năm 2014 và phần lớn sự giảm trữ lượng ở nhóm hải sản tầng đáy biển (41,7%). Hạn chế nghề khai thác hải sản ở tầng đáy và gần đáy biển (ví dụ nghề lưới kéo) là chính sách được quan tâm ở các tỉnh ven biển ở ĐBSCL. Các tỉnh ven biển ở ĐBSCL đã và đang thực hiện theo chiến lược phát triển chung của ngành và quan tâm đến vấn đề chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản. Sở NN và PTNT tỉnh Bạc Liêu (2020) thống kê tốc độ giảm bình quân số lượng tàu khai thác thủy sản ven bờ là 1,1%/năm và tăng bình quân số lượng tàu xa bờ là 1,6%/năm trong giai đoạn từ 2016-2020. Tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh có tốc độ khai thác thủy sản tăng bình qn 2,03%/năm và 4,77%/năm tương ứng giai đoạn 2021-2030, giảm khoảng 3%/năm và 5%/năm so với giai đoạn 2016-2020 (Sở NN và PTNT tỉnh Sóc Trăng, 2016; Sở NN và PTNT tỉnh Trà Vinh, 2017). Nhìn chung, sự thay đổi cơ cấu về quy mơ khai thác có xu hướng là số lượng tàu khai thác công suất nhỏ giảm, phù hợp với chủ trương giảm số lượng tàu khai thác ven bờ và phát triển số lượng tàu khai thác thủy sản vùng xabờ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Hình 2.4: Số lượng tàu lưới kéo ở ĐBSCL (Nguồn: Cục Thống kê các tỉnh ven biển ĐBSCL,2022)

<b>2.1.3 Ngư trường và mùa vụ khai thác thủysản</b>

Ngư trường khai thác thủy sản ở ĐBSCL là vùng biển Đông Nam Bộ và Tây Nam

<i>Bộ (Long vàctv., 2018). Ngư trường Đông Nam Bộ là vùng biển từ Vũng Tàu đến mũi Cà</i>

Mau và ngư trường Tây Nam Bộ tập trung là vùng biển Vịnh Thái Lan (Sở NN và PTNT tỉnh Cà Mau, Sóc Trăng và Trà Vinh, 2017). Vùng biển Đơng Nam Bộ có diện tích thềm lục địa khoảng 297 ngàn km<small>2</small>, bờ biển có nhiều chỗ lồi lõm và nhiều cửa sông với lưu lượng nước đỗ ra biển rất lớn, độ dốc đáy biển nhỏ hơn vùng biển miền trung rất nhiều, đáy biển có dạng đồng bằng rộng lớn. Thủy triều thuộc chế độ bán nhật triều với biên độ tương đối lớn đạt 2-4 m. Trong khi đó, vùng biển Tây Nam Bộ có bờ biển dài 345 km, là vùng biển nông và tương đối kín, đáy biển thoải dần, ít khúc khuỷu, có dạng một elip được bao bọc chủ yếu là bờ biển Thái Lan. Đáy biển rộng, khá bằng phẳng, hơi nghiêng về phía Tây. Địa hình vùng biển này thuận lợi cho nghề lưới kéo, lưới vây và nghề câu (Sở NN và PTNT tỉnh Cà Mau, 2017). Nghề lưới kéo ở ĐBSCL có thể khai thác rải đều quanh năm và mùa vụ khai thác có thể chia thành hai vụ chính là vụ Bắc và vụ Nam. Thời gian vụ Bắc từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau và vụ Nam là từ tháng 4 đến tháng 9. Ngư trường khai thác của nghề lưới kéo ở vụ Nam thì rộng hơn ở vụ Bắc (Viện nghiên cứu

<i>Thủy sản, 2009). Hùng vàctv(2020) nghiên cứu mùa vụ ở nghề khai thác thủy sản ven bờ</i>

tỉnh Bạc Liêu là đánh bắt chủ yếu ở độ sâu 30 m nước trở vào. Các tháng trong năm đều có tổng số tàu tham gia đánh bắt đạt từ 60% đến 87,5 %, trong đó tháng tư là tháng khai thác thấp nhất với khoảng 60% và tháng 11 là cao nhất với 87,5%. Nguyên nhân tháng tư ít nhất là do dịng chảy yếu, cá ít, nên sản lượng khai thác thấp, thu hoạch khơng đủ bù chi phí nên ngư dân thường ít đánh bắt vào thángnày.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Hình 2.5: Ngư trường khai thác vụ Bắc của lưới kéo (Viện nghiên cứu Thủy sản, 2009)

Hình 2.6: Ngư trường khai thác vụ Nam của lưới kéo (Viện nghiên cứu Thủy sản, 2009)

Báo cáo của Sở NN và PTNT tỉnh Cà Mau (2017) trích từ Viện nghiên cứu hải sản, 2016 cho thấy trữ lượng nguồn lợi thủy sản (NLTS) biển ở Việt Nam có xu hướng giảm từ năm 2000 đến 2014. Giai đoạn 2000-2005, trữ lượng nguồn lợi thủy sản ở biển Việt Nam đạt 5,1 triệu tấn vào giai đoạn 2000-2005 và khả năng khai thác bền vững là khoảng 2,1 triệu tấn. Đến giai đoạn 2011-2014, trữ lượng nguồn lợi thủy sản ở biển Việt Nam giảm xuống là 4,25 triệu tấn và khả năng khai thác bền vững khoảng 1,75 triệu tấn. Trữ lượng ước tính khai thác được phân theo vùng sinh thái biển là vùng biển Đông Nam Bộ có trữ lượng 1.141 nghìn tấn và khả năng khai thác là 478 nghìn tấn; Vùng biển Tây Nam Bộ có trữ lượng 610 nghìn tấn và khả năng khai thác là 250 nghìn tấn. Vùng giữa biển Đơng, có trữ lượng 1.035 nghìn tấn và khả năng khai thác là 414 nghìn tấn. Trong khi đó trữ lượng ước tính phân theo tuyến biển cho thấy trữ lượng NLTS ở vùng biển ven bờ ước tính khoảng 639 nghìn tấn với khoảng 23% tổng trữ lượng thủy sản và vùng biển xa bờ là 2.148 nghìn tấn, chiếm 76% tổng trữ lượng thủysản.

Đồng bằng sơng Cửu Long có nguồn lợi thủy sản đa dạng và phong phú, có đa dạng các loại nghề khai thác và việc quản lý nguồn lợi thủy sản hay quản lý khai thác thủy sản ven bờ cũng là một vấn đề quan trọng được các nhà khoa học, các cấp chính quyền địa phương và trung ương quan tâm (Chi cục Thủy sản tỉnh Sóc Trăng, 2019). Những khó khăn trong cơng tác quản lý ngành như là khai thác thủy sản ở ĐBSCL chưa thiết lập được hệ thống quản lý nguồn lợi thủy thủy sản; chưa tổ chức cho tàu thuyền khai thác hợp lý tài nguyên tôm cá gắn với bảo vệ, phát triển và tái tạo nguồn

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

lợi hải sản (Sở NN và PTNT tỉnh Kiên Giang, 2019). Nguồn lợi thủy sản vùng lộng và vùng khơi chưa được đánh giá và dự báo chính xác; nghề khai thác thủy sản có quy mơ sản xuất nhỏ; việc sử dụng các phương pháp cấm khai thác có tínhhủydiệt cịn khá phổ biến; tình trạng khai thác sai tuyến, sai mùa vụ, sai kích thước vẫn thường xuyên xảy ra

<i>(Sinh vàctv., 2010; Chi cục Thủy sản tỉnh Cà Mau, 2020). Nhìn chung, cơng tác quản lý</i>

nghề khai thác thủy sản ở các tỉnh ven biển ĐBSCL vẫn còn nhiều thách thức lớn như là năng lực quản lý, giám sát, kiểm tra, tuần tra khai thác thủy sản ven bờ còn yếu (Thưởng

<i>vàctv., 2014).</i>

Bảng 2.2: Trữ lượng và khả năng khai thác NLTS vùng biển Đơng và Tây Nam Bộ

<b>VùngbiểnVùng sinhthái<sup>Nhómnguồnl</sup></b>

<b>ợi(nghìntấn)<sup>Trữ lượng</sup></b>

<b>Khả năngkhai thác(nghìn tấn)</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Vùng ven bờ Đông Nam Bộ Cá nổi 277 111

(Nguồn: Sở NN và PTNT tỉnh Cà Mau, 2017 trích từ Viện nghiên cứu hải sản, 2016)

<b>2.1.4 Sản lượng thủy sản khai thác ở Đồng bằng sông CửuLong</b>

Sản lượng thủy sản khai thác của ĐBSCL bao gồm sản lượng thủy sản khai thác biển và sản lượng thủy sản khai thác nội đồng, chiếm khoảng 39,8% tổng sản lượng thủy sản khai thác của Việt Nam. Bảng 2.3 thể hiện sản lượng thủy sản khai thác ở ĐBSCL trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Bảng 2.3 cho thấy tổng sản lượng thủy sản khai thác của vùng tăng trong giai đoạn 2015-2021, sản lượng từ 1.232,2 ngàn tấn lên 1.515,7 ngàn tấn, sự gia tăngnàylà sự góp phần từ số lượng tàu khai thác thủy sản xa bờ tăng hằng năm và là kết quả chiến lược phát triển khai thác thủy sản theo hướng xa bờ. Năm 2021, sản lượng thủy sản khai thác chiếm khoảng 40% tổng sản lượng khai thác thủy sản của cả nước, trong đó 67,5% sản lượng thủy sản khai thác được đóng góp từ bốn tỉnh trọng điểm của vùng là tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau và Kiên Giang (Tổng Cục Thống kê,2022).

Giai đoạn 2015-2021, sản lượng thủy sản khai thác biển tăng từ 765 ngàn tấn năm 2015 đến 1.071 ngàn tấn ở năm 2021, tăng khoảng 40%. Sản lượng thủy sản khai thác biển chiếm khoảng 65,8% tổng SLTS khai thác của vùng và khoảng 26,2% tổng SLTS của Việt Nam. Trong đó, SLTS khai thác biển của bốn tỉnh ven biển của vùng là Bạc Liêu và Sóc Trăng (đại diện vùng Biển Đông), Cà Mau và Kiên Giang (đại diện vùng Biển Tây) đóng góp bình qn 71,6% tổng sản lượng thủy sản khai thác biển của ĐBSCL trong giai đoạn 2015-2021. Năm 2015, SLTS khai thác biển của bốn tỉnh này đạt 552 ngàn tấn tăng lên 746,1 ngàn tấn ở năm 2021. Điều này cho thấy, hoạt động khai thác thủy sản có vai trị quan trọng vào góp phần tăng sản lượng thủy sản của vùng và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thủy sản ngày càng cao của người tiêu dùng trong và ngồinước.

Hình 2.7: Sản lượng thủy sản khai thác ở ĐBSCL (Nguồn: Cục Thống kê các tỉnh ven biển ĐBSCL, 2022)

Trong xu hướng tăng về sản lượng thủy sản khai thác, năng suất khai thác thủy sản, sản lượng khai thác được tính trên mã lực hoặc cơng suất máy có xu hướng suy giảm và ổn định từ năm 2015 đến năm 2018 (Hình 2.8). Năng suất bình qn khai thác thủy sản của tồn vùng là 0,43 tấn/CV trong giai đoạn 2015-2021. Khai thác biển ở Trà Vinh chiếm 45,9% tổng sản lượng thủy sản khai thác, tuy nhiên số tàu khai thác xa bờ không nhiều, đối tượng khai thác chủ yếu là tôm, cá và mực trong đó nghề lưới kéo đónggóprấtquantrọng(chiếmkhoảng30%sốlượngtàu),nhưngngưcụnàycótính

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

sát hại nguồn lợi thủy sản cao, ảnh hưởng đến nền đáy và sinh thái môi trường. Vì vậy, kế hoạch phát triển ngành thủy sản của Tỉnh có chủ trương giảm nghề lưới kéo và tăng cường nghề lưới rê, vì nghề lưới rê khai thác có chọn lọc, ít tác động đến sinh thái mơi trường (Sở NN và PTNT tỉnh Trà Vinh, 2017). Kết quả thống kê cho thấy năng suất khai thác (tấn/CV) của tỉnh Trà Vinhsuygiảm một cách nhanh chóng từ năm 2015 đến năm 2021, sự suy giảm này làm cho năng suất khai thác tính chung cho tồn vùng biển phía Đơng ĐBSCL cũng suy giảm nhanh. Tỉnh Kiên Giang đánh giá năng suất khai thác hải sản giảm từ 25,3 tấn/CV ở năm 2008, xuống còn 20,6 tấn/CV ở năm 2018 (Sở NN và PTNT tỉnh Kiên Giang, 2019). Nhiên & Định (2012) nhận định về vấn đề hiện trạng khai thác hải sản ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng là sự gia tăng tổng sản lượng khai thác thủy sản hàng năm không phải là sự gia tăng về trữ lượng nguồn lợi thủy sản mà do năng lực khai thác. Trong khi đó tổng cơng suất tàu khai thác có xu hướng tăng nhưng năng suất khai thác có xu hướng suy giảm. Nguyên nhân là do thời tiết bất thường, giá nguyên liệu khơng ổn định, đặcbiệtlà sự suy thối về nguồn lợi và hệ sinh thái vùng ven biển (Nhiên & Định, 2012; Sở NN và PTNT tỉnh Trà Vinh,2017).

Hình 2.8: Năng suất khai thác thủy sản ở ĐBSCL (Nguồn: Cục Thống kê các tỉnh ven biển ĐBSCL, 2022)

Nhìn chung, hiện trạng khai thác thủy sản hiện nay là sự gia tăng tổng sản lượng khai thác hàng năm không phải là sự gia tăng trữ lượng nguồn lợi mà do năng lực khai thác tăng lên; trong khi đó năng suất khai thác suy giảm, đó là biểu hiện của sự suy thoái về nguồn lợi và hệ sinh thái vùng ven biển. Nguồn lợi thủy sản vùng ven biển bị khai thác một cách quá mức, trong khi đó nguồn lợi vùng xa bờ chưa được tổ chức khai thác hiệu quả. Nguyên nhân sản lượng khai thác giảm được ngư dân đánh giá chung là (1) sự gia tăng số lượng tàu tham gia vào hoạt động khai thác, kể cả sự tăng dosốlượngtàuvàngưcụkhaithác;(2)thứhailàsựkhaithácquámức,tứckhaithác

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

vào mùa sinh sản và cá con; (3) thứ ba là môi trường ngày càng ô nhiễm; và (4) thứtưlà do ảnh hưởng bởi vụ mùa và điều kiện thời tiết (Sinh & Long, 2011). Bên cạnh đó, nghề KTTS phát triển tự phát; tổ chức sản xuất trên biển mang tính nhỏ lẻ, phân tán, chưa có sự liên kết và hợp tác trong tổ chức sản xuất; công nghệ khai thác, công nghệ bảo quản sản phẩm sau thu hoạch trên tàu còn lạc hậu so với các nước trong khu vực; sự cạnh tranh trong khai thác ngày càng tăng; tình trạng đánh bắt bất hợp pháp vẫn diễn ra đã làm cạn kiệt nguồn lợi hải sản vùng biển ven bờ; thiếu thông tin, cơ sở dữ liệu nghề cá để phục vụ cho công tác quản lý, qui hoạch KTTS; đầu tư cơ sở hạ tầng còn dàn trải và thiếu đồngbộ.

<b>2.2 Hiệu quả sản xuất của hoạt động khai thác thủysản</b>

<b>2.2.1 Hiệu quả tài chính của nghề lưới kéo ở Đồng bằng sông CửuLong</b>

Nghề lưới kéo với cách gọi khác là nghề giã cào hoặc nghề cào, đây là nghề đánh bắt chủ động. Tổng hợp số liệu thống kê của Cục Thống kê các tỉnh ven biển ĐBSCL (2019) cho thấy nghề lưới kéo là một trong những nghề khai thác phổ biến ở ĐBSCL, khoảng 40% tổng số lượng tàu. Trong đó, lưới kéo khai thác từ vùng lộng trở vào vùng bờ hay nói cách khác là số lượng tàu có chiều dài từ 15 m trở xuống ở tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang chiếm khoảng 21,9% tổng số lượng tàu lưới kéo ven bờ. Tuy nhiên, nghề lưới kéo là nghề được đánh giá tác động đến NLTS, không thân thiện với môi trường (Sở NN và PTNT tỉnh Trà Vinh, 2017; Sở NN và PTNT tỉnh Sóc Trăng, 2016). Vì vậy, chính sách phát triển chung của ngành thủy sản là hạn chế phát triển số lượng tàu đăng ký mới đối với nghề lưới kéo với chiều dài từ 6-dưới 12 m, nên ít nhiều ảnh hưởng đến sinh kế của nhóm ngư dân sử dụng đối với ngư cụ này và việc làm tại địa phương. Tổng hợp kết quả nghiên cứu trước cho thấy mỗi tàu khai thác thủy sản có từ 3 đến 5 thuyền viên với khoảng 1 đến 2 người là được chủ tàu thuê mướn. Nghề KTTS có cường độ lao động và mức độ nguy hiểm, rủi ro nhiều hơn so với các nghề khác trên bờ nên lao động trên tàu

<i>thường là lực lượng trẻ với độ tuổi bình quân là 31,6 tuổi (Tuy vàctv., 2011, Vẹn vàctv.,</i>

2013) và tuổi của thuyền trưởng là 40 tuổi với kinh nghiệm trong nghề đánh cá từ 12,7

<i>-14,1 năm (Sinh vàctv., 2010). Phần lớn thuyền trưởng có trình độ học vấn từ tiểu học đến</i>

trung học cơ sở, nguyên nhân là họ tham gia nghề KTTS sớm nên việc học trở nên khókhăn.

Tàu lưới kéo quy mơ nhỏ có trọng tải trung bình là 9,2 tấn và cơng suất máy tàu là 51,5 CV. Kích thước mắt lưới của ngư cụ có xu hướng thay đổi từ năm 2007 - 2019, kích thước mắt lưới 2a trung bình ở đụt lưới từ 35 mm vào năm 2007, giảm còn 21,4 mm năm 2019 và ở cánh lưới từ 80 mm xuống cịn 40 mm. Trong khi đó, kích thước mắt lưới ở đụt lưới nhỏ hơn qui định của Bộ Thủy sản (2006) và Bộ NN và PTNT (2019).Quyđịnh kích cỡ mắt lưới ở đụt lưới của Thông tư số 02/2006/TT-BTS ngày 20/3/2006 của Bộ Thủy sản đối với nghề lưới kéo đơn ven bờ là 28 mm và Bộ NN và PTNT (2019) đối với lưới kéo khai thác ở vùng lộng không nhỏ hơn 34 mm. Điều này cho thấy ngư dân đã vi phạm quy định và đây là nguyên nhân làm suy giảmNLTS.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Tổng sản lượng thủy sản khai thác ven bờ của nghề lưới kéo ở ĐBSCL trong giai đoạn 2007-2019 có xu hướng tăng nhưng sản lượng tính trên cơng suất máy có xu hướng giảm. Năm 2007, sản lượng thủy sản khai thác ven bờ của nghề lưới kéo ở ĐBSCL là 19.441 kg/năm và năng suất khai thác là 583,7 kg/CV/năm (Sinh & Long, 2011). Đến năm 2014, sản lượng thủy sản khai thác ven bờ của nghề này đạt trung bình 800 kg/chuyến với sản lượng bình quân trong năm là 25.400 kg và năng suất khai thác đạt 530 kg/CV (Long, 2014). Năm 2019, sản lượng thủy sản khai thác bình quân năm dao động từ 12,4 tấn đến

<i>39,4 tấn với năng suất từ 347 -883 kg/CV (Long vàctv., 2019). Đối với tỉnh Bạc Liêu, sản</i>

lượng thủy sản khai thác ven bờ trong năm 2014 của nghề lưới kéo là 33,9 tấn/tàu/năm (tương đương khoảng 349 kg/chuyến) và năng suất khai thác là 1.184 kg/CV/năm

<i>(Thưởng vàctv., 2014). Trong khi đó sản lượng thủy sản khai thác nghề lưới kéo ở tỉnh</i>

Sóc Trăng đạt sản lượng cao, trung bình 127 tấn/tàu/năm (Long, 2012). Riêng tỉnh Bến Tre, sản lượng khai thác của nghề lưới kéo chiếm tỷ trọng là chủ yếu (86,8% sản lượng khai thác tồn tỉnh), trong đó sản lượng lưới kéo đánh bắt xa bờ chiếm 68,9% sản lượng TSKT ở các nghề. Tuy nhiên, sản lượng có xu hướng giảm, đặc biệt là nghề lưới kéo đơn ven bờ, sản lượng bình qn năm từ 35.052 tấn giảm xuống cịn 34.240 tấn từ năm 2014 đến năm 2016 (ChiCụcThủy sản tỉnh Bến Tre, 2017). Tỷ lệ cá tạp khai thác được ở nghề lưới kéo ven bờ ở ĐBSCL là 51,7% ở năm 2014 và giảm xuống 38,4% ở năm 2018

<i>(Long, 2014; Long vàctv., 2018). Nguyên nhân là hiệu ứng tích cực từ chính sách bảo vệ</i>

NLTS, tăng kích cỡ mắt lưới ngư cụ khaithác.

Tổng chi phí hoạt động KTTS nghề lưới kéo ven bờ dao động từ 11,4 -11,6 triệu đồng/chuyến nhưng chi phí biến đổi có xu hướng tăng khoảng 0,5 triệu đồng/chuyến, phù hợp với xu hướng giá các đầu vào khơng ổn định. Song song đó, tổng doanh thu cho chuyến biến của ngư dân cũng được tăng từ 12,2 triệu đồng đến 18,4 triệu đồng mang lại lợi nhuận từ 0,6 triệu đồng đến 7,1 triệu đồng. Nhìn chung, hiệu quả tài chính của nghề lưới kéo ven bờ trong năm 2019 cao hơn so với năm 2014 do tỷ suất lợi nhuận đạt 0,6 lần so với 0,1 lần tương ứng.

Bảng 2.4: Hiệu quả tài chính của nghề lưới kéo (triệu đồng/chuyến)

(Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022)

Nghề lưới kéo nói riêng và các nghề khai thác hải sản nói chung có những rủi ro chủ yếu nhất là trường hợp thiếu bạn ghe/tàu, do thu hút lao động từ các khu công nghiệp trên bờ và do lao động trên biển thường xuyên đối mặt với nhiều nguy hiểm,

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

sóng gió, bão và thời gian ở trên biển nhiều hơn ở nhà lo cho gia đình nên một số lao động chọn làm việc trên bờ đơi khi có thu nhập ít hơn nhưng ổn định hơn. Ngoài ra, ngư dân KTTS cũng thường xuyên đối mặt với nạn rách hoặc mất lưới, NLTS suy giảm, thời tiết

<i>thất thường, tàu bị hư máy và ngư trường không ổn định (Tuy vàctv., 2011). Bên cạnh đó,</i>

nghề lưới kéo đang được kiểm sốt sự phát triển số lượng tàu và xu hướng chuyển các tàu khai thác qui mô nhỏ không hiệu quả sang các nghề khác hoặc nâng cao đầu tư khai thác xa bờ. Ngư dân khai thác nghề lưới kéo đã và đang có sự cân nhắc phát triển nghề khai thác thủy sản của hộ cũng như của vùng theo định hướng phát triển ổn định và hiệu quả.

Nghề lưới kéo ven bờ ở ĐBSCL tương đối có hiệu quả về tài chính, do nhu cầu tiêu dùng thủy sản của con người ngày càng tăng nên giá cả sản phẩm thủy sản cũng có xu hướng tăng song song với sự tăng của giá cả của nguồn đầu. Nhưng về khía cạnh sinh học thì có xu hướng giảm do sản lượng khai thác tính trên cơng suất tàu có xu hướng giảm. Để nghề lưới kéo hoạt động có tỉnh ổn định và phù hợp với phát triển của ngành, các cơ quan ban ngành và ngư dân cần rà soát tất cả các tàu khai thác không hiệu quả và định hướng chuyển đổi sang các nghề khai thác hiệu quả hơn. Chính vì vậy, việc tổ chức sản xuất và sắp xếp có hiệu quả, các nhà hoạch định cần dánh giá tính hiệu quả của nghề trên mỗi tàu và xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc kém hiệu quả của nghề khai thác. Song song đó, nâng cao hiệu quả trong khâu tiêu thụ sản phẩm là một trong những giải pháp đem lại cho nghề khai thác của vùng phát triển ổn định hơn. Từ đó, nhà hoạch định chính sách và quản lý có thể loại bỏ các tàu kém hiệu quả và tăng tính hiệu quả của các tàu khai thác thông qua hạn ngạch khai thác như là giảm số lượng tàu, hạn chế công suất, phù hợp với chính sách phát triển chung củangành.

Nghề lưới kéo là ngư cụ chủ động, hoạt động theo nguyên tắc lọc nước bắt cá nên đối tượng đánh bắt được tất cả các loài hải sản gồm cá, giáp xác và nhuyễn thể (Long

<i>vàctv, 2019) nên sản lượng hải sản non, chưa trưởng thành chiếm tỷ lệ cao và đa số các</i>

lồi khai thác khơng đạt kích thước tối thiểu cho phép khai thác (Triệu & Huy, 2022). Năm 2007, thành phần loài khai thác của nghề lưới kéo ven bờ ở ĐBSCL rất đa dạng với sản lượng các loại tôm chiếm tỷ trọng cao nhất, với 39,5% tổng sản lượng; kế đến là cá tầng nổi là 32,3%; lồi có giá trị thấp chiếm 20,1%; mực là 5% và còn lại là cá tầng đáy,

<i>cua và hai mảnh vỏ (Sinh vàctv., 2010). Đối tượng đánh bắt của nghề lưới kéo đơn ven bờ</i>

ở vùng biển Tiền Giang chủ yếu là các lồi cá đáy như là tơm, ghẹ, cá đù, cá út và cá phân

<i>(Tuy vàctv, 2011). Thành phần lồi chính khai thác lưới kéo ven bờ tỉnh Kiên Giang chủ</i>

yếu là mực, các loại tôm (tôm giang, tơm chì, tơm vằn) và cá mối với tỷ trọng chiếm khoảng 70% tổng sản lượng. Tượng tự, thành phần loài thủy sản lưới kéo ven bờ ở tỉnh Trà Vinh cũng đa dạng với cá lồi tơm (tơm sắt, tôm vằn,tômthẻ), cá đù và mực là chủ

<i>yếu, chiếm khoảng 58,7% tổng sản lượng thủy sản khai thác (Long vàctv., 2019). Báo cáo</i>

(2019)chothấythànhphầnlồithủysảnkhaitháclướikéovenbờcủatỉnhBếnTre

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Phân tích hiệu quả sản xuất trong khai thác thủy sản có vai trò quan trọng cho ngư dân và người quản lý ngành thủy sản. Trên cơ sở kết quả các nghiên cứu giúp cung cấp thông tin cơ bản về hoạt động khai thác thủy sản của tàu, các nhà quản lý có cơ sở đưa ra hoặc xây dựng các cơng cụ chính sách quản lý nghềcá,đánh giá lại sự phù hợp việc thực hiện các chính sách quản lý và ngư dân có thể xem xét mức đầu tư

<i>(Roseet al., 2000). Các nghiên cứu về hiệu quả sản xuất trong KTTS tăng lên đáng kể</i>

ở nhiều quốc gia, với phân tích liên quan ngư cụ khai thác cũng như cách tiếp cận của nghiên cứu. Các khía cạnh nghiên cứu được phân thành hai nhóm cơ bản nhưsau: rất đa dạng, Các loại tôm chiếm tỷ trọng cao nhất (26,6%), kế đến là cá tạp chiếmtỷtrọng 25,7%; cá xô là 14,0% và mực là 8,3%. Nhiên & Định (2012) thống kê được vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng có 36 lồi cá biển có giá trị kinh tế thuộc 27 họ của 11 bộ được đánh bắt từ 3 nghề lưới rê, lưới kéo và đóng đáy, với bộ Perciformes (bộ cá vược) là chiếm ưu thế có 20 loài (55%), kế đến là bộ Siluriformes (bộ cá da trơn) với 6 loài (17%) và bộ Aulopiformes (bộ cá răng kiếm) có 2 lồi (6%), cịn lại 8 bộ khác mỗi bộ có 1 lồi (22%). Riêng lưới kéo đánh bắt được đa dạng thành phần giống loài, với 34 lồi cá có giá trị kinh tế. Triệu & Huy (2022) nghiên cứu về thành phần loài khai thác ở vùng biển ven bờ và vùng lộng ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho thấy nhóm nghề lưới kéo đơn có số lượng lồi bắt gặp đa dạng nhất là 342 loài, tiếp đến là nghề đáy 174 loài, nghề rập xếp là 144 loài, nghề lưới rê đáy là 109 loài, nghề lưới vây ven bờ là 62 loài, nghề lưới rê nổi là 57 lồi và nhóm nghề khác là 42 loài. Tương tự, Hùng & Triệu (2021) xác định ở vùng biển Trà Vinh cũng cho thấy nghề lưới kéo có số lượng lồi bắt gặp cao nhất là 219 loài, tiếp đến là nghề nghề đáy 170 loài, nghề rập xếp 102 loài và nghề lưới rê là 95 loài. Nên là nghề khai thác ảnh hưởng lớn đến nguồn lợi thủy sản, trong khi các nghề khác thì thành phần đánh

<i>bắt được hạn chế hơn và kích cỡ cũng tương đối đồng đều (Vẹn vàctv.,2013).</i>

<b>2.2.2 Hiệu quả kỹ thuật và chi phí trong hoạt động khai thác thủysản</b>

(i) Nghiên cứu tập trung việc ước tính mức hiệu quả sản xuất, chủ yếu là hiệu quả kỹ thuật và một số nghiên cứu về hiệu quả kinh tế hoặc hiệu quả phân phối. Ngoài ra, một số nghiên cứu còn xem xét sự tác động của các yếu tố liên quan đến đặc điểm nguồn lực, tàu khai thác, ngư cụ khai thác và công cụ quản lý hoạt động khai thác thủy sản của ngư dân đến hiệu quả khai thác, từ đây đưa ra chỉ dẫn giúp ngư dân điều chỉnh, phối hợp và đánh giá các yếu tố đầu vào nhằm cải thiện hiệu quả khai thác. Trước năm 2000, một số tác giả nghiên cứu điển hình đầu tiên về hiệu quả kỹ thuật trong hoạt

<i>động khai thác thủy sản như là Kirkleyet al. (1995); Kirkleyet al.(1998); Sharma &Leung (1999). Trước tiên, Kirkleyet al. (1995) đã quan tâm đánh giá hiệu quả kỹ thuật</i>

của nghề khai thác sò điệp ở các bang phía Tây của nước Mỹ trong thời gian 1987-1990. Nhóm tác giả sử dụng hàm sản xuất dạng translog để ước lượng hiệu quả kỹ thuật và so sánh việc sử dụng đầu vào, kinh tế quy mô và ảnh hưởng từ các quy địnhchínhsách.KếtquảchothấytàukhaitháccómứcTEđạttừ75%trởlênchiếm

</div>

×