Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Hiệu quả sản xuất kinh doanh và quá trình cổ phần hoá của công ty cổ phần ba nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.13 KB, 68 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
LỜI NÓI ĐẦU
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và
nhà nước ta nhằm huy động vốn của người lao động trong doanh nghiệp và
các tổ chức, cá nhân khác để đầu tư, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, đồng
thời tạo điều kiện để những người góp vốn và người lao động trong doanh
nghiệp nâng cao vai trò làm chủ, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp
nhà nước kinh doanh có hiệu quả.
Với việc đổi mới cơ bản tổ chức và cơ chế quản lý của Nhà nước đã tạo
cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh trong cơ chế thị trường,
đồng thời đảm bảo sự điều tiết của Nhà nước. Nhưng với quyền tự chủ kinh
doanh của mình, các doanh nghiệp càng phải cạnh tranh nhau gay gắt và cố
gắng trụ vững, phát triển trong nền kinh tế thị trường.
Muốn đạt được điều đó các doanh nghiệp phải đạt được hiệu quả kinh
doanh ngày càng cao qua mỗi kỳ hoạt động sản xuất. Chỉ có đạt được hiệu
quả kinh doanh cao sau mỗi kỳ hoạt động sản xuất các doanh nghiệp mới có
điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng và thực hiện sự phân phối hài hoà
các lợi ích: Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động.
Do đó, lúc này nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh được coi là một
mục tiêu kinh tế quan trọng, mang tính sống còn của mỗi doanh nghiệp và
buộc các doanh nghiệp đều phải quan tâm đến. Nhưng trong điều kiện nguồn
lực của các doanh nghiệp ngày càng khan hiếm thì làm thế nào để nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề không đơn giản.
Với những hiểu biết còn hạn chế của một sinh viên và thời gian tìm hiểu
thực tế không nhiều, trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ muốn giới thiệu một
cách khái quát về vấn đề hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh sau cổ
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
phần hoá doanh nghiệp ở Công ty cổ phần hoá phẩm Ba Nhất, từ đó đưa ra
một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác cổ phần hoá các


doanh nghiệp.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ Phòng tài chính kế toán Công
ty cổ phần hoá phẩm Ba Nhất và các thầy cô giáo trường Đại học kinh tế quốc
dân, đặc biệt là cô Nguyễn Minh Huệ đã giúp đỡ tôi hoàn thành bài viết này.
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH VÀ QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP
I. Quá trình cổ phần hoá của doanh nghiệp
1. Mục tiêu của việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Trong thời kỳ bao cấp, với cơ chế kinh tế tập trung, nhà nước điều phối
mọi hoạt động của nền kinh tế, bao cấp toàn bộ cho các DNNN ở cả đầu vào
lẫn đầu ra. Các DNNN chỉ sản xuất kinh doanh theo đúng kế hoạch, chỉ tiêu
được giao, không cần phải cố gắng nâng cao năng suất, cải tiến chất lượng,
bởi vậy hoạt động hết sức trì trệ, kém hiệu quả.
Chính sách đổi mới của nhà nước được ban hành đã thực sự đem lại sự
thay đổi to lớn trong nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng. Khi nhà
nước xóa bỏ chế độ bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các
DNNN phải đối mặt với một thử thách lớn. Doanh nghiệp nào thích nghi với
cơ chế mới, năng động, sáng tạo sẽ đi lên còn doanh nghiệp nào không chịu
đổi mới sẽ bị tụt hậu. Bên cạnh nhiều DNNN làm ăn thành đạt, nhiều DNNN
khác đã bị giải thể do đã quen với sự bao cấp của nhà nước, không thể thích
ứng được với cơ chế mới, sản xuất kinh doanh không có hiệu quả, sản phẩm
đầu ra không được đổi mới và nâng cao chất lượng nên không được người
tiêu dùng chấp nhận. Nguyên nhân sâu xa của sự thất bại đó là do ngoài việc
thiếu vốn cho đầu tư phát triển sản xuất, lãnh đạo các doanh nghiệp này
không chịu đổi mới tư duy, người lao động trong doanh nghiệp chưa phát huy
vai trò làm chủ thực sự của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh chung.

Chính bởi vậy, nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động cho các
DNNN, chính phủ đã đề ra rất nhiều biện pháp đổi mới cách thức quản lý
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
doanh nghiệp. Cổ phần hoá DNNN là một trong những biện pháp đó, đem lại
hiệu quả hết sức to lớn và thiết thực cho nền kinh tế nước nhà.
Nằm trong khuôn khổ sắp xếp và đổi mới quản lý các DNNN, việc
chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần hướng tới 2 mục tiêu cơ bản:
Thứ nhất là huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công
nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh,
thay đổi cơ cấu DNNN.
Thứ hai là tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ
phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức
quản lý, tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài
sản nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng cường
kinh tế đất nước.
Khi được lựa chọn để tiến hành cổ phần hoá, các doanh nghiệp phải đưa
ra được một phương án sản xuất kinh doanh cụ thể, chi tiết, hiệu quả, đem lại
lợi ích thiết thực cho cả 3 phía: nhà nước, bản thân doanh nghiệp cũng như
cho người lao động.
2. Thực trạng các doanh nghiệp trước cổ phần hoá và sau cổ phần hoá
Kinh tế Nhà nước, trong đó doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận
quan trọng, cùng với hệ thống quản lý kinh tế vĩ mô là công cụ quản lý kinh
tế chủ yếu của Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng XHCN. Hầu hết
các doanh nghiệp đều đã hình thành từ thời kỳ quản lý tập trung bao cấp, nên
doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam có những đặc trưng cơ bản khác biệt so
với nhiều nước trong khu vực và thế giới.
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế thị

Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
trường có sự quản lý của Nhà nước, Chính phủ đã triển khai đổi mới toàn diện
hệ thống tiền tệ, lao động, tiền lương, mở rộng kinh tế đối ngoại, ban hành chính
sách pháp luật… trong đó có đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Nhờ đó đã bước
đầu tạo môi trường cần thiết cho doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh
tế khác cùng phát triển trong điều kiện mới. Theo số liệu của Ban chỉ đạo Đổi
mới và phát triển doanh nghiệp trung ương qua các đợt sắp xếp, số lượng doanh
nghiệp nhà nước cuối tháng 6 năm 1997 còn 5.790 doanh nghiệp (so với 12.300
doanh nghiệp được thành lập trước năm 1990), trong đó sáp nhập khoảng 3000
doanh nghiệp vào các doanh nghiệp khác có liên quan về công nghệ, thị trường
và giải thể khoảng 3.500 doanh nghiệp. Nhờ đó giảm bớt được tài trợ ngân sách
Nhà nước cho doanh nghiệp bị thua lỗ và thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước
hoạt động có hiệu quả hơn .
Theo số liệu của Ban chỉ đạo Đổi mới và phát triển doanh nghiệp phần
lớn các doanh nghiệp nhà nước sau khi tổ chức lại đã từng bước phát huy
quyền làm chủ kinh doanh, làm ăn năng động và có hiệu quả.
3. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau cổ phần hoá
3.1 Huy động được thêm nhiều nguồn vốn trong xã hội:
Cổ phần hoá góp phần làm tài sản Nhà nước ngày càng tăng lên và tạo
thêm động lực trong doanh nghiệp. Từ thực tế vốn nhà nước giao cho DN còn
thấp so với giá trị thực và bao gồm cả nợ khó đòi, sản phẩm, vật tư ứ đọng
không có khả năng sử dụng và giá trị máy móc thiết bị không còn sử dụng
được hoặc không còn sản xuất ra những sản phẩm mà thị trường chấp nhận…
nên phải đánh giá lại những tài sản này và có qui định phân tích và xử lý
trước khi CPH. Trong 631 DN và bộ phận doanh nghiệp nhà nước đã CPH,
giá trị tài sản trên sổ sách kế toán trước khi CPH là 2388 tỷ đồng, khi cổ phần
hoá được đánh giá là 2714 tỷ đồng (không kể giá trị quyền sử dụng đất), tăng
13,7%. Khi CPH, Nhà nước giữ lại 978 tỷ, phần còn lại1786 tỷ đồng được

Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
bán cho người lao động trong và ngoài công ty, số tiền thu được đưa vào quỹ
hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp. Sau khi CPH, các công ty cổ
phần còn phát hành thêm 1011 tỷ đồng cổ phiếu để thu hút vốn. Do quy mô
vốn Nhà nước của các DN CPH nói chung là nhỏ (bình quân 3,78 tỷ
đồng/DN) nên vốn huy động trong xã hội còn ít, mới đạt 2747 tỷ đồng. Điều
đáng khích lệ là sau một thời gian hoạt động đã tăng được giá trị tuyệt đối
phần vốn nhà nước ở các công ty cổ phần. Theo báo cáo của 202 DN đã CPH
được trên 1 năm, phần vốn Nhà nước không những không được bảo toàn mà
còn tăng thêm 65,420 tỷ đồng (từ 377,343 tỷ lên 442,763 tỷ) bằng nguồn lợi
nhuận để lại. Một số công ty cổ phần phát hành thêm cổ phiếu để tăng thêm
vốn pháp định, trong khi phần vốn của Nhà nước tại các DN vẫn giữ nguyên
và có công ty cổ phần đã bán bớt thêm phần vốn của Nhà nước tại các DN
(Khách sạn Sài gòn, Đông Nam dược, Dịch vụ văn hoá quận Tân Bình.
Vốn điều lệ (bao gồm vốn tích luỹ từ lợi nhuận, phát hành thêm cổ phiếu
trong nước và một số công ty được huy động vốn cổ phần ngoài nước) tăng
bình quân trên 25% năm. Có một số công ty tăng hơn 2 lần.
Theo Bộ tài chính đến nay sau cổ phần hoá, các doanh nghiệp đều hoạt
động kinh doanh có hiệu quả, các chỉ tiêu tăng trưởng khá. Trung bình vốn
điều lệ của doanh nghiệp tăng 44% đặc biệt có những doanh nghiệp vốn tăng
lên 10 lần so với trước cổ phần hoá như : Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận
chuyển tăng 30 lần, Công ty cổ phần cơ điện lạnh tăng 13 lần. Bên cạnh đó
doanh thu của doanh nghiệp cũng tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 139%, thu nhập
người lao động tăng 11,85, mức trả cổ tức bình quân đạt 17% năm.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp có
87% số doanh nghiệp khẳng định kết quả hoạt động tài chính của doanh
nghiệp cổ phần hoá tốt hơn hoặc tốt hơn rất nhiều so với trước cổ phần hoá.
3.2 Giải quyết vấn đề lao động và thu nhập của người lao động :

Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
Đây là một vấn đề gây nhiều băn khoăn cho các nhà quản lý và đặc biệt
là người lao động nhưng cũng đã được thực hiện khá thành công.
+ Số lượng lao động chẳng những không giảm mà còn tăng bình quân
là 10%, có công ty tăng đến 20%.
+ Thu nhập của người lao động bình quân tăng hàng năm 20% (chưa kể
thu nhập từ cổ tức). Điển hình là Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển,
trước khi CPH thu nhập từ 1,1 triệu/người/tháng nay đạt 4,4
triệu/người/tháng. Công ty chế biến thức ăn gia súc từ 800.000 lên 1,5 triệu
đồng/người/tháng.
3.3 Hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh .
Các DN sau khi CPH hoạt động có hiệu quả hơn, các chỉ tiêu kinh tế, kỹ
thuật chủ yếu đều đạt cao hơn trước khi CPH.
- Vốn điều lệ (kể cả vốn Nhà nước) tăng bình quân 19,06%.
- Doanh thu tăng bình quân 44%/năm.
- Các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82%/năm.
- -Tỷ suất lợi nhuận năm 1997 trên vốn sở hữu (Gồm vốn góp ban đầu
và vốn tích luỹ) tăng 44%.
- Số lao động làm trong các công ty cổ phần tăng 30%/năm.
- -Thu nhập bình quân của người lao động tăng bình quân 14,8%/năm.
Ngoài ra, người lao động có cổ phần trong Công ty còn được chia lợi
nhuận trên vốn góp cổ phần từ lợi nhuận sau thuế 22-24%/năm .
Có những công ty cổ phần đạt gấp đôi doanh thu của cả năm trước khi
CPH. Điển hình là công ty cổ phần Cơ điện lạnh đạt 353 tỷ đồng so với 78 tỷ
đồng. Công ty cổ phần đại lý vận chuyển đạt 116 tỷ so với 16 tỷ trước đó.
+Lợi nhuận trước thuế bình quân tăng : Có công ty đạt tổng lợi nhuận
gấp 2-3 lần so với trước khi cổ phần hoá. Công ty CP đại lý liện hiệp vận
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707

7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
chuyển lãi tăng từ 4,1 tỷ lên 37 tỷ. Công ty cơ điện lạnh lãi tăng từ 8,8 tỷ lên
34 tỷ. Công ty CP Đức Thịnh từ lỗ 350 triệu đồng chuyển sang lãi 425 triệu.
+ Nộp ngân sách tăng bình quân hàng năm :bình quân tăng 34%, một
số công ty đạt gấp đôi so với trước khi cổ phần hoá. Đặc biệt phần nộp ngân
sách của Công ty thương nghiệp tổng hợp Hai Bà Trưng tăng gấp 10 lần, công
ty CP Thương mại và dịch vụ tăng 12 lần, thu nhập bình quân của người lao
động tăng 10%. Công ty Sứ Bát tràng tăng 45%, Công ty dịch vụ bánh tôm
Hồ tây tăng 29%.Công ty CP cơ điện lạnh nộp ngân sách 68 tỷ so với trước
khi cổ phần hoá là 3,7 tỷ. Công ty CP đại lý liên hiệp vận chuyển nộp ngân
sách 40 tỷ so với trước khi CPH là 5,1 tỷ. Công ty cổ phần Sơn Bạch Tuyết
đạt 7,5 tỷ so với 6,8 tỷ…
+ Lãi cổ tức: đạt cao hơn lãi ngân hàng, bình quân đạt 1,2%/tháng. Có
những công ty đạt hơn 2%/tháng như Công ty cổ phần sửa chữa và đóng tàu
Bình Định đạt 26% . Các công ty: Sơn Bạch Tuyết, Chế biến thức ăn gia súc,
Chế biến hàng xuất khẩu Long An đều đạt lãi cổ tức 2% tháng
+Lợi nhuận tăng cao: Công ty CP Đức Thịnh từ lỗ 350 triệu đồng
chuyển sang lãi 425 triệu. Nộp ngân sách của các tăng 34%. Đặc biệt phần
nộp ngân sách của Công ty thương nghiệp tổng hợp Hai Bà Trưng tăng gấp
10 lần, công ty CP Thương mại và dịch vụ tăng 12 lần, thu nhập bình quân
của người lao động tăng 10%. Công ty Sứ Bát tràng tăng 45%, công ty dịch
vụ bánh tôm Hồ tây tăng 29%.
Các doanh nghiệp đã CPH thuộc các Bộ, ngành, tổng công ty chiếm
25%, thuộc các địa phương chiếm 75%. Trong tổng số các DN đã CPH thì
lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông chiếm 57%, lĩnh vực thương mại,
dịch vụ chiếm 3%, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản chiếm 5%.
Công ty Mía đường Lam sơn và công ty Mía đường La Ngà đã thực hiện CPH
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
8

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
theo hướng Nhà nước giữ cổ phần chi phối, đồng thời khuyến khích nông dân
trồng mía mua cổ phần đã tạo ra sự gắn bó giữa công ty và người lao động.
Tóm lại,việc cổ phần hoá doanh nghiệp đã đưa người lao động trở thành
người chủ thực thụ của DN, có quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng theo luật định.
Điều này đã tạo ra một động lực trong sản xuất kinh doanh và hình thành cơ
chế kiểm soát có hiệu quả hơn của người lao động và xã hội đối với doanh
nghiệp, tăng được năng suất lao động, tiết kiệm chi phí (các công ty cổ phần
bình quân tiết kiệm được chi phí khoảng 20%…) hạ được giá thành sản phẩm,
và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bản thân người lao động có lợi ích
lớn hơn (từ thu nhập và cổ tức), đồng thời lợi ích của DN và Nhà nước cũng
được đảm bảo. Việc thu hút và phát huy trí tuệ của các cổ đông bên ngoài
doanh nghiệp cũng tạo thêm điều kiện nâng cao trình độ quản lý ở công ty cổ
phần.
Phần lớn hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần
hoá đều phát triển, tăng so với trước khi cổ phần hoá.
Qua thời gian thực hiện với những khó khăn và thách thức ban đầu, đến
nay chúng ta đã tạo ra được những chuyển biến tích cực về nhận thức trong xã
hội, mục tiêu, giải pháp chính sách đã ngày càng được khẳng định rõ ràng
hơn, phù hợp hơn với thực tế hơn. Có thể nói, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước đã thể hiện là sự kết hợp giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế của nhân dân
để phát triển đất nước chứ không phải tư nhân hoá. Cổ phần hoá đã tham gia
vào quá trình thay đổi cơ cấu vốn, cơ cấu quản lý, tạo điều kiện cho người lao
động tham gia thật sự vào việc làm chủ DN, khai thác được tiềm lực, tài năng
trong nhân dân vào quản lý, sản xuất tạo đà phát triển, mở ra những khả năng
và cơ hội tiếp tục thúc đẩy, mở ra những khả năng và cơ hội tiếp tục thúc đẩy
mở rộng nền kinh tế vào những năm tới.
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38

Từ thực tế trên, cho thấy cổ phần hoá đã có tác động tích cực đối với sự
phát triển của mỗi doanh nghiệp:
- Sản xuất phát triển, đời sống cán bộ công nhân viên được nâng cao.
- Công tác quản lý được đổi mới, bộ máy quản lý của nhà nước được tinh
giảm, gọn nhẹ, có hiệu lực hơn .
- Mọi người trong doanh nghiệp đều quan tâm đến kết quả sản xuất kinh
doanh của công ty bởi vì lợi ích của họ (bao gồm thu nhập và lợi tức cổ
phiếu) gắn chặt với lợi ích của công ty. Đây là bước chuyển đổi tư duy, hình
thành động lực thật sự cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
- Nhà nước thu ngân sách tăng, kể cả thuế và lợi tức cổ phần.
- Cổ phần hoá là cơ hội tập dượt cho đội ngũ cán bộ kinh doanh, tổ chức
quản lý theo cơ chế thị trường, không dựa vào Nhà nước như trước đây. Quản
lý theo phương châm: “Chi phí tối thiểu, lợi nhuận tối đa”. Thực chất các
doanh nghiệp này chuyển sang cơ chế “tự thân vận động” chứ không chỉ thụ
động trông chờ vào Nhà nước như trước kia.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hoặc khu
vực nhà nước và góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế
phát triển, từng bước xoá bỏ kinh doanh độc quyền, kém hiệu quả của doanh
nghiệp.
- Các công ty cổ phần góp phần điều hoà lợi ích của các lực lượng kinh
tế, nâng cao vai trò làm chủ thực sự của người lao động, tạo sự ổn định về mặt
chính trị- xã hội, làm động lực thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước kinh doanh
có hiệu quả.
- Các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả đã phần nào làm giảm gánh
nặng cho ngân sách nhà nước, huy động được các nguồn vốn đa dạng ngoài
xã hội đầu tư cho sản xuất kinh doanh, thực hiện được dân chủ hoá, công khai
hoá trong quản lý và các hoạt động của doanh nghiệp, thúc đẩy chuyên môn
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38

hoá lao động, tạo điều kiện để vay nước ngoài và phát triển thị trường chứng
khoán…
Các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển sang công ty cổ phần đã
đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
Tính cho đến nay, việc triển khai công tác cổ phần hoá DNNN ở Việt
Nam đã tiến hành được nhiều năm.Trong bước đầu hoạt động, các công ty cổ
phần đều phát triển được sản xuất kinh doanh, không những bảo đảm được
việc làm mà còn thu hút thêm lao động, thu nhập của người lao động được
nâng cao.
Nhờ cổ phần hoá mà các DNNN chuyển thành công ty cổ phần những
năm qua đã huy động thêm được một nguồn vốn rất lớn từ các cổ đông. Hầu
hết các công ty đều dùng nguồn vốn này để đầu tư đổi mới công nghệ, phát
triển sản xuất theo chiều sâu hoặc mở rộng quy mô sản xuất; hiệu quả sản
xuất kinh doanh có những doanh nghiệp tăng lên rõ rệt. Tiêu biểu như công ty
cổ phần Việt Hà sau một năm hoạt động doanh thu tăng 20%, lợi nhuận tăng
103%, thu nhập bình quân thực tế người lao động tăng 54%, chia cổ tức đạt
32%; công ty cổ phần bánh kẹo Biên Hoà: doanh thu tăng 15%, lợi nhuận
tăng 14%, thu nhập người lao động tăng 10%, vốn cổ phần tăng 28%... (

)
Nhờ cổ phần hoá, các công ty cổ phần đã phát huy được vai trò, trách
nhiệm hội đồng quản trị, ban giám đốc và cổ đông trong quản lý, giám sát,
kiểm tra, làm cho bộ máy quản lý được sắp xếp gọn nhẹ, tinh giản, hợp lý, chi
phí gián tiếp giảm xuống rõ rệt, nhất là chi phí hiếu hỉ, tiếp khách... Tất cả cán
bộ làm công tác Đảng, đoàn thể đều kiêm nhiệm. Những chức danh trong hội
đồng quản trị, giám đốc điều hành, ban kiểm soát, kế toán... đều là những
người có chuyên môn, được lựa chọn kỹ lưỡng.
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38

Nhờ huy động thêm vốn của cổ đông, vốn điều lệ của các doanh
nghiệp được cổ phần hoá có sự thay đổi lớn. Như vậy, cổ phần hoá DNNN đã
thực hiện được mục tiêu thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả
trong doanh nghiệp và ngoài xã hội để phát triển sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, các công ty đều tạo thêm được nhiều việc làm mới, thu hút
thêm lao động vào làm việc. Ví dụ như: công ty cổ phần in và bao bì Mỹ
Châu thu hút thêm 65 lao động và kỹ sư giỏi, công ty cổ phần bánh kẹo Biên
Hoà thêm 560 lao động... Thu nhập của người lao động cũng tăng lên đáng
kể. Ví dụ như Công ty cổ phần Việt Hà, thu nhập bình quân lao động đạt 1,4
triệu đồng/người/tháng, lãi cổ tức của cổ đông đạt khoảng 2,7%/tháng; công
ty cổ phần Việt Phong thu nhập bình quân lao động đạt trên 1 triệu đồng
/người/tháng, lãi cổ tức của cổ đông đạt khoảng 3,3%/tháng, 6 tháng mỗi cổ
phần tăng thêm giá trị 8,57%... (

)
Tóm lại, thực tế cho thấy chuyển doanh nghiệp từ 100% vốn nhà nước sang
hình thức công ty cổ phần chẳng những nhà nước bảo tồn được nguồn vốn
của mình mà còn tăng đáng kể tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn so với trước
đây. Nguồn vốn để đầu tư vào các doanh nghiệp tăng cao. Người lao động
vẫn tiếp tục được làm việc song vai trò của họ trong công ty cổ phần có sự
thay đổi. Họ thật sự trở thành người chủ trên cơ sở đồng vốn của mình, vì thế
ý thức và tinh thần trách nhiệm được nâng cao hơn trước. Hoạt động của các
doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá nhạy bén năng động, tự chủ hơn trước, do
đó mà chất lượng, hiệu quả hoạt động cao hơn, các khoản đóng góp vào ngân
sách nhà nước cũng tăng lên. Thực tế đó chứng minh rằng, chủ trương của
Đảng và nhà nước ta về cổ phần hoá DNNN là hết sức đúng đắn.
II.Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh sau CPH của doanh nghiệp.
1.Khái niệm:
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
12

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
Trong cơ chế thị trường, mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
( doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công
ty trách nhiệm hữu hạn, công ty công ty cổ phần,...) đều có mục tiêu bao trùm
là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, trước hết mọi doanh nghiệp
phải xác định cho mình một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp
thích ứng với những biến động của thị trường, phải tiến hành có hiệu quả các
hoạt động quản trị nhằm bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu vào
và trong quá trình đó luôn phải kiểm tra xem phương án kinh doanh đang tiến
hành có hiệu quả không. Muốn kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh nói chung cũng như của từng lĩnh vực, từng bộ phận công tác nói
riêng doanh nghiệp không thể không chú ý đến việc tính toán hiệu quả kinh tế
của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ khái niệm trên, chúng ta hiểu hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản
ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh tế. Vì vậy, nâng cao hiệu quả kinh
tế cũng hoàn toàn đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng của các hoạt động
kinh tế, nâng cao trình độ lợi dụng các nguồn lực ( lao động, máy móc, thiết
bị, nguyên vật liệu và tiền vốn ) trong hoạt động kinh tế nhằm đạt được mục
tiêu mà doanh nghiệp đã xác định.
Thực chất khái niệm hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả kinh tế của
hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng đã khẳng định bản chất của hiệu quả
kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động,
máy móc, thiết bị,nguyên vật liệu và vốn ) để đạt được mục tiêu cuối cùng
của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp - mục tiêu tối đa
hoá lợi nhuận.
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
Tuy nhiên, để hiểu rõ bản chất của phạm trù hiệu quả kinh tế của hoạt

động sản xuất kinh doanh, cũng cần phân biệt ranh giới giữa hai khái niệm
hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây trong lý
luận cũng như thực tiễn đã tồn tại sự nhầm lẫn giữa hai phạm trù hiệu quả và
kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, khi đó đã coi kết quả là mục tiêu,
mục đích và coi hiệu quả cũng là mục tiêu. Từ quan niệm nhầm lẫn đó dẫn
đến sự hạn chế trong phương pháp luận giải quyết vấn đề: đôi khi người ta
hay coi đạt được kết quả là đạt được hiệu quả và rõ ràng điều đó có nghĩa là
không cần chú ý đến hiệu quả kinh tế. Đây là quan niệm sai lầm và cần phải
được thay đổi.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một quá trình
sản xuất kinh doanh nhất định,kết quả cần đạt bao giờ cũng là mục tiêu cần
thiết của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một
doanh nghiệp có thể là những đại lượng có thể cân, đo, đong, đếm được như
số sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận,...và cũng có thể là các đại
lượng chỉ phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín
của hãng, chất lượng sản phẩm,... Như thế kết quả bao giờ cũng là mục tiêu
của doanh nghiệp. Trong khi đó trong khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh
doanh, người ta sử dụng cả hai chỉ tiêu là kết quả ( đầu ra ) và chi phí (các
nguồn lực đầu vào ) để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vấn đề đặt ra
là: Hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả của sản xuất kinh doanh nói riêng
là mục tiêu hay phương tiện của kinh doanh ? Trước tiên, hiệu quả kinh tế
phản ánh việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp đạt được ở trình độ nào.
Nhưng xem xét hiệu quả kinh tế không chỉ dừng ở đó mà thông qua đó có thể
phân tích, tìm ra các nhân tố cho phép nâng cao hiệu quả kinh tế. Từ đó có thể
có các biện pháp nhằm đạt mục tiêu của doanh nghiệp ở mức cao hơn với chi
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
phí về nhân, tài, vật lực và tiền vốn ít hơn. Như vậy, nhiều lúc người ta sử

dụng các chỉ tiêu hiệu quả như mục tiêu cần đạt và trong nhiều trường hợp
khác người ta lại sử dụng chúng như công cụ để nhận biết khả năng tiến tới
mục tiêu cần đạt là kết quả.
2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở
các doanh nghiệp sau cổ phần hoá .
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một khái niệm phức tạp và khó đánh
giá chính xác. Sở dĩ phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù phức
tạp và khó đánh giá chính xác là vì ngay ở khái niệm về hiệu quả sản xuất
kinh doanh đã cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh được xác định bởi mối
tương quan giữa hai đại lượng là kết quả đạt dược từ hoạt động sản xuất
( doanh nghiệp sản xuất ) hoặc kinh doanh ( doanh nghiệp thương mại, dịch
vụ, ...) và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh đó.
Trong khi cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó xác định chính xác.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta thấy hầu như rất ít
khi gặp doanh nghiệp luôn luôn xác định được chính xác các kết quả mà
doanh nghiệp thu được ở bất kỳ một thời đỉểm nào đó do các quá trình tạo ra
kết quả diễn ra trong các doanh nghiệp thường có sản phẩm sở dang, bán
thành phẩm,... Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không phải chỉ tạo
ra kết quả ( sản phẩm, dịch vụ ) mà còn phải bán được các kết quả đó và quá
trình bán hàng và quá trình tạo ra kết quả luôn không trùng nhau. Một doanh
nghiệp ở một thời điểm nào đó có thể có nhiều sản phẩm được sản xuất ra
nhưng lại tiêu thụ được rất ít, như thế chưa thể nói doanh nghiệp đã đạt được
kết quả ( mục tiêu ). Nếu xét trên giác độ giá trị, đại lượng kết quả của sản
xuất kinh doanh không phải là đại lượng đánh giá dễ dàng vì ngoài các nhân
tố ảnh hưởng trên, kết quả sản xuất kinh doanh còn chịu ảnh hưởng của thước
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
đo gía trị - đồng tiền với những thay đổi của nó trên thị trường. Mặt khác,
chính hoạt động của con người là luôn nhằm đến và đạt đến kết quả nhất định,

song không phải lúc nào con người cũng nắm chắc được, biết hết được các kết
quả do chính hành động của con người gây ra.Việc xác định đại lượng chi phí
cũng không dễ dàng. Nếu xét trên phương diện lý thuyết thì chi phí tính bằng
đơn vị hiện vật là chi phí sử dụng tài nguyên, chi phí “thực” để tạo ra kết quả
của doanh nghiệp song điều đó không thể xác định được trong thực tiễn. ở
mọi doanh nghiệp, việc kiểm kê, kiểm tra xem đã sử dụng bao nhiêu đơn vị
nguyên vật liệu mỗi loại không phải lúc nào cũng tiến hành được. Trong khi
đó, ở mọi doanh nghiệp lại còn nhiều loại nguồn lực đầu vào không chỉ liên
quan đến một quá trình tạo ra sản phẩm nào đó mà nó liên quan đến nhiều quá
trình kinh doanh khác nhau.
3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Xét trên phương diện lý luận và thực tiễn phạm trù hiệu quả sản xuất
kinh doanh đóng vai trò rất quan trọng trong việc đánh giá, so sánh, phân tích
kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu nhất, đưa ra phương pháp đúng đắn
nhất để đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Với tư cách là một công cụ đánh giá và
phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở giác độ tổng
hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng tổng hợp đầu vào trong phạm vi hoạt
động của toàn doanh nghiệp mà còn được sử dụng để đánh giá trình độ sử
dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp. Và
do phạm trù hiệu quả có tầm quan trọng đặc biệt nên trong nhiều trường hợp
người ta coi nó không chỉ như phương tiện để đạt kết quả cao mà còn như
chính mục tiêu cần đạt.
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
Điều kiện đủ cho sự lựa chọn kinh tế là với sự phát triển của kỹ thuật
sản xuất, ngày càng có nhiều phương pháp khác nhau để chế tạo sản phẩm với
kỹ thuật sản xuất phát triển cùng với nguồn lực, con người có thể tạo ra rất

nhiều loại sản phẩm khác nhau. Điều này cho phép các doanh nghiệp có khả
năng lựa chọn sản xuất kinh doanh sản phẩm tối ưu. Sự lựa chọn dúng đắn sẽ
đem lại cho doanh nghiệp hiệu quả kinh doanh cao nhất, thu được nhiều lợi
ích nhất. Giai đoạn phát triển kinh tế theo chiều rộng kết thúc và nhường chỗ
cho sự phát triển kinh tế theo chiều sâu: tăng trưởng kết quả kinh tế của sản
xuất chủ yếu nhờ việc cải tiến các yếu tố sản xuất về mặt chất lượng, ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật mới, công nghệ mới, hoàn thiện công tác quản trị và cơ
cấu kinh tế,...có nghĩa là nhờ vào sự nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Như vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh tức là nâng cao khả năng sử
dụng các nguồn lực có hạn trong sản xuất.Trong điều kiện khan hiếm các
nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện không thể
không đặt ra đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.
Trong cơ chế thị trường, môi trường cạnh tranh gay gắt, nâng cao
hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh là điều kiện tồn tại và
phát triển của các doanh nghiệp. Việc giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản
xuất cái gì,sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào dựa trên quan hệ cung cầu,
giá cả thị trường, cạnh tranh và hợp tác. Các doanh nghiệp phải tự ra các
quyết định kinh doanh của mình, tự hạch toán lỗ, lãi, lãi nhiều hưởng nhiều,
không có lãi sẽ phá sản. Khi đó, mục tiêu lợi nhuận trở thành mục tiêu quan
trọng, mang tính sống còn của sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải cạnh tranh
để tồn tại và phát triển. Doanh nghiệp muốn tồn tại trong điều kiện bình
thường đòi hỏi các hoạt động sản xuất kinh doanh phải tạo ra thu nhập về tiêu
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
thụ hàng hoá và dịch vụ, đủ bù đắp chi phí đã chi ra để sản xuất hàng hoá và
dịch vụ đó. Còn muốn phát triển doanh nghiệp phải đảm bảo quá trình tái sản
xuất mở rộng, điều này đòi hỏi kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh không chỉ bù đắp chi phí đã chi ra mà còn tích luỹ để tiếp tục quá trình

tái sản xuất mở rộng. Đồng thời môi trường cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường khá gay gắt,trong cuộc cạnh tranh đó có doanh nghiệp trụ vững, phát
triển sản xuất nhưng cũng có doanh nghiệp thua lỗ, giải thể, phá sản.
Để có thể trụ lại trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải luôn
nâng cao chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, nâng cao uy tín... nhằm
đạt tới mục tiêu lợi nhuận càng cao càng tốt. Do vậy, đạt hiệu quả kinh doanh
và nâng cao hiệu quả kinh doanh luôn là vấn đề được quan tâm của doanh
nghiệp và trở thành điều kiện sống còn để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát
triển trong nền kinh tế thị trường.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện hay, nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh sau cô phần hoá cũng là vấn đề được quan tâm.
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sau cô phần hoá còn thấp, do các
doanh nghiệp thường có quy mô nhỏ, khả năng cạnh tranh kém, thiếu vốn,
khó khăn về thị trường tiêu thụ,... nên mức lãi chưa cao.Với thực trạng sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay: máy móc thiết bị còn lạc hậu,
vốn đầu tư thiếu, trình độ quản lý còn thấp kém,...tất yếu các doanh nghiệp
nước ta phải đổi mới máy móc, thiết bị, đổi mới phương thức quản lý, kêu gọi
vốn đầu tư,...để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy, nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt nam sau cổ phần
hoá vừa là mục tiêu cơ bản, quan trọng đồng thời nó còn phản ánh sự sống
còn của mỗi doanh nghiệp vì nó là điều kiện kinh tế cần thiết cho sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp trong thời đại mới.
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
1. Nhân tố chủ quan.
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh sau ccô phần hoá là một mục tiêu
quan trọng mà doanh nghiệp cần hướng tới.Việc sử dụng nguồn lực hợp lý,

giảm chi phí không cần thiết và tăng chi phí cần thiết sẽ giúp doanh nghiệp
kinh doanh có hiệu quả, đứng vững trên thị trường. Ngoài ra, doanh nghiệp
cũng phải phát hiện tìm kiếm cơ hội trong kinh doanh cho chính mình. Muốn
kinh doanh hiệu quả doanh nghiệp cần phải kinh doanh có kế hoạchvà chiến
lược rõ ràng.Các doanh nghiệp cần phải kinh doanh theo đúng kế hoạch đã
định và từng bước chắc chắn trong lộ trình đã xây dựng.Kinh doanh hiệu quả
chính là việc sử dụng nguồn lực kinh doanh có hạn( người, vật , tiền) một
cách có hiệu quả để chiến thắng trong thương trường.
Hiệu quả kinh doanh sau cổ phần hoá của một doanh nghiệp thường phụ
thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan như phương thức quản lý,
chiến lược đầu tư phát triển sản xuất, thị trường. Hiệu quả kinh doanh không
những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh
mà cũng là vấn đề quyết định của doanh nghiệp.
2. Nhân tố khách quan.
Công ty cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, điều lệ công ty.
Nhưng vấn đề là ở chỗ Luật doanh nghiệp và một số văn bản pháp luật khác
chưa đồng bộ ,vẫn còn những điều quy định không rõ, gây khó khăn cho
doanh nghiệp tiếp tục hoạt động sau khi đã hoàn thành công tác cổ phần hoá.
Sau khi chuyển thành công ty cổ phần, trên thực tế đã tạo nên sự đột biến
về mặt pháp lý, những người lao động, người quản lý và các mối quan hệ giữa
các thành viên trong công ty cổ phần vẫn chưa chuyển biến kịp nên sau khi
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
chuyển thành công ty cổ phần, nhiều công ty phát sinh các sự cố, các tranh
chấp đã ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty.
Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo thực hiện
chủ trương giao, bán khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước,
chưa xây dựng chương trình, kế hoạch và biện pháp cụ thể .
Điều này dẫn đến là nhất thiết phải có sự điều chỉnh của Chính phủ về

mặt pháp luật, xây dựng hệ thống pháp lý về hậu cổ phần hoá, hỗ trợ các
doanh nghiệp cổ phần hoạt động tạo hiệu quả kinh tế cao hơn nữa.
Để đạt được hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá
đòi hỏi phải có những giải pháp về vốn, thay đổi công nghệ, về vấn đề lao
động, thuế, tín dụng… tạo sự phát triển cho các doanh nghiệp, đồng thời giúp
các doanh nghiệp đang cổ phần hoá hay chuẩn bị cổ phần hoá tránh được
những khó khăn ách tắc trong quá trình tiếp tục chuyển đổi sang công ty cổ
phần.
CHƯƠNG II
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH SAU QUÁ
TRÌNH CPH DOANH NGHIỆP TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HOÁ
PHẨM BA NHẤT
I. Khái quát về Công ty cổ phần hoá phẩm Ba Nhất`
1. Quá trình hình thành và phát triển:
Công ty Cổ phần Hoá phẩm Ba Nhất thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội
được thành lập theo Quyết định số 1935/QĐ-UB-CN ngày 23 tháng 8 năm
1966 của Uỷ ban hành chính Thành phố Hà nội trên cơ sở hợp nhất 3 hợp tác
xã thủ công thành Xí nghiệp quốc doanh.
Ngày 10/11/1992, UBND Thành phố có quyết định số 2762/QĐ-UB
thành lập Xí nghiệp Hoá chất Ba Nhất theo Nghị định 388/HĐBT ngày 30
tháng 5 năm 1996 UBND Thành phố có Quyết định số 1902/QĐ-UB đổi tên
thành Công ty Hoá phẩm Ba Nhất.
Theo Quyết định số 2421/QĐ-UB ngày 18 tháng 6 năm 1998 về việc
Xí nghiệp đá vôi Kiện Khê sáp nhập vào Công ty hoá phẩm Ba Nhất làm cơ
sở sản xuất CaCO
3
tại xã Thanh Tuyền - Thanh Liêm - Hà Nam. Từ tháng

7/1998, Công ty hoá phẩm Ba Nhất gồm có hai bộ phận:
• Trụ sở giao dịch tại xã Đông Mỹ – huyện Thanh Trì - Thành phố Hà
Nội.
• Cơ sở sản xuất CaCO
3
tại xã Thanh Tuyền - Thanh Liêm - Hà Nam.
Ngày 01 tháng 7 năm 2002, UBND thành phố Hà Nội ra Quyết định số
4580/QĐ-UB chuyển DNNN Công ty Hoá phẩm Ba Nhất thành Công ty Cổ
phần Hoá phẩm Ba Nhất.
Sản phẩm chính của Công ty từ khi thành lập đến nay là bột nhẹ CaCO
3
(Canxi Cacbonat). Trước đây, Công ty sản xuất CaCO
3
và một số hoá chất cơ
bản như Fe
2
O
3
, CaSO
4
, Ca(OH)
2
, CaO… tuy nhiên do vấn đề môi trường
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
trong khu vực nên từ năm 1991 trở lại đây Công ty chỉ sản xuất duy nhất một
sản phẩm là CaCO3 với nguyên liệu sản xuất dùng 100% trong nước vì:
• Hàm lượng CaO ở các mỏ nguyên liệu của nước ta đạt trung bình
55,18%, trong khi ở các nước khác như: Đài Loan, Hàn Quốc …hàm

lượng cao nhất chỉ đạt 54 - 55%
• Hàm lượng kim loại nặng ngay trong bản thân nguyên liệu ban đầu đã
nhỏ hơn hàm lượng cho phép nên trong sản xuất không phải xử lý.
• Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp tiêu dùng, bột nhẹ
ngày càng được sử dụng rộng rãi làm nguyên liệu đầu vào trong các
lĩnh vực sản xuất: Cao su, mỹ phẩm, nhựa, vật liệu xây dựng, sơn,
giấy, giầy….Hàng năm, một số lượng lớn bột nhẹ chất lượng cao vẫn
phải nhập ngoại, đây là một thị phần mà công ty đang chiếm lĩnh.
2. Đặc điểm về máy móc- thiết bị- công nghệ
Hiện nay, công nghệ sản xuất của Công ty ở loại trung bình tiên tiến
trong nước, bởi Công ty vẫn chưa trang bị được hệ thống máy móc- thiết bị
với công nghệ sản xuất hiện đại một cách đồng bộ. Do đó, để góp phần nâng
cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường, trong thời gian tới, Công
ty có kế hoạch đầu tư lắp đặt dây chuyền sản xuất bột nhẹ hoạt động bằng gas
của Đài Loan.
3. Đặc điểm về cơ cấu tổ chức.
Công ty Cổ phần Hoá phẩm Ba Nhất là một doanh nghiệp hoạt động độc
lập theo Luật Doanh nghiệp dưới sự điều hành của Hội Đồng Quản Trị và
Ban giám đốc.
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
Sơ đồ tổ chức của Ban giám đốc Công ty
4. Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần hoá phẩm Ba
nhất trước cổ phần hoá.
Nhìn chung, kể từ khi thành lập, Công ty cổ phần hoá phẩm Ba nhất đã
có nhiều biến động về mặt tổ chức. Tuy phải đương đầu với sự cạnh tranh của
cơ chế thị trường song công ty luôn cố gắng ổn định sản xuất, giữ vững và mở
rộng thị trường kinh doanh, phát triển sản phẩm mới, hoàn thành kế hoạch,
đáp ứng một phần nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.

a. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh
Tổng số vốn kinh doanh: 5.443.816.960, đồng
*Phân theo cơ cấu vốn :
- Vốn cố định : 4.713.893.093, đồng
- Vốn lưu động : 879.923.790, đồng
* Phân theo nguồn vốn:
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
23
Giám đốc công ty
Bộ phận nghiệp vụ
Bộ phận sản xuất
Chế độ
chính
sách
Tài vụ
Kế
hoạch
kinh
doanh
KT -
KCS

điện
Phân
xưởng
CaCO
3
Phân
xưởng
chế thử

Kế
hoạch
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
- Vốn nhà nước: 4.889.852.144, đồng
- Vốn tự có : 703.964.739, đồng
TT Chỉ tiêu 1998 1999 2000
1 Doanh Thu 4.093.422,5 4.273.190 4.134.739,5
2 Vốn kinh doanh 1.768.416,5 1.819.416,5 4.593.816,5
3 Vốn nhà nước 4.489.851,5
4 Lợi nhuận trước thuế 82.281
5 Lợi nhuận sau thuế 61.710
6 Số lao động ( người) 109 115 120
7 Thu nhập bình quân (người /tháng) 1011,8 1077,6 1.263.600
8 Các khoản nộp ngân sách: Trong đó :
- Thuế giá trị gia tăng
- Thuế thu nhập doanh nghiệp
278.108
74730
94.000
243.238
240.434
32.000
282.752
143.368
46.686
9 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế (Trên vốn
kinh doanh) 1,1%
10 Nợ phải trả
Trong đó: Nợ ngân sách
94.000

-3091
32.000
13.752
2.319.734
-70.138
11 Nợ phải thu
Trong đó: - Nợ khó đòi
918.688 2.431.472 1.609.870
62.920
b. Tình hình tài sản
* Máy móc thiết bị bao gồm cả phương tiện vận tải trị giá trên sổ sách kế toán:
- Nguyên giá : 3.084.325.238
- Giá trị còn lại: 1.661.271.172
* Máy móc thiết bị không còn sử dụng:
- Giá trị trên sổ sách kế toán:
+ Nguyên giá: 13.868.976
+ Giá trị còn lại: 1.570.172
+ Tỷ lệ so với tổng số : (b/a) = 0,08%
* Nhà xưởng - đất đai
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Lớp: Tài chính A – K38
- Diện tích công ty đang sử dụng: 20.450 m
2
Diện tích nhà xưởng : 4.500 m
2
Nguyên giá 4.714.673.702
Giá trị còn lại: 3.457.972.528
c. Tình hình lao động:
 Lao động dài hạn: 120 người

 Lao động dưới một năm : 02 người
 Số lao động có tham gia đóng BHXH: 120 người
 Nghỉ thai sản : 1 người.
Nhờ có sự thống nhất trong lãnh đạo của Hội đồng quản trị và Giám đốc
công ty cùng tinh thần đoàn kết nhất trí của cả tập thể CBCNV mà công ty đã
đạt được những kế hoạch đã đặt ra. Vì vậy, Công ty cổ phần hoá phẩm Ba
Nhất luôn là một đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong ngành công
nghiệp của Thủ đô.
II. Thực trạng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ
phần hoá phẩm Ba Nhất sau cổ phần hoá.
Qua 2 năm hoạt động, với mức lãi cổ phần chia cho các cổ đông cao,
công ty cổ phần hoá phẩm Ba Nhất đã chứng tỏ một khả năng kinh doanh
nhạy bén và hiệu quả. Trong năm 2006, công ty tiếp tục triển khai việc mở
rộng, nâng công suất sản xuất , cải tiến công nghệ nâng cao chất lượng sản
phẩm, thu hút thêm nhiều khách hàng.
Dưới đây sẽ đi sâu vào phân tích một số chỉ tiêu kinh tế của công ty cổ
phần hoá phẩm Ba Nhất qua các năm 2003, 2004 và 2005 để từ đó có thể
đánh giá được hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty sau khi tiến hành cổ
phần hoá một cách khách quan và chính xác.
Nguyễn Diệu Linh MSV: TC380707
25

×