Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa _ Môn Chủ nghĩa Xã hội Khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.39 KB, 15 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Tham khảo mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáoở Việt Nam</b>

(Bài đọc tham khảo, khơng phải bài dùng để thuyết trình)

<b>Quan hệ dân tộc và tơn giáo ở nước ta trong bối cảnh tồn cầu hố</b>

Như đã biết, khái niệm tồn cầu hố tuy được phổ biến và sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, song sự thống nhất về nội hàm của nó lại là vấn đề khó xác định. Về mặt nội dung, đa phần đều thống nhất đó là “sự mở rộng không gian xã hội ra khắp hành tinh”. Nếu hiểu như vậy, thì tồn cầu hố được bắt đầu từ thế kỉ XV, sau khi Christophe Colomb tìm ra Châu Mỹ, các nước phát triển Châu Âu tiến hành ồ ạt chinh phục phần còn lại của thế giới. Tiếp đó, từ giữa thế kỉ XIX trở đi, các quốc gia Châu Âu lại chinh phục hàng loạt các nước châu Á và biến những vùng đất đai rộng lớn, giàu tài nguyên này thành thuộc địa, thành thị trường của mình.

Sau Chiến tranh thế giới II, việc chủ nghĩa thực dân từng bước sụp đổ, hàng loạt các nước thuộc địa ở Châu Á, Phi, Mỹ Latinh giành được quyền độc lập dân tộc, chính trị; tham gia vào đời sống chính trị quốc tế; hình thành hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô và hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ và các nước Tây Âu là biểu hiện của giai đoạn toàn cầu hố lần thứ ba.

Như vậy, xét về quy mơ, tính chất cả ba giai đoạn tồn cầu hố nói trên đều gắn với cuộc chiến tranh xâm lược, với chính sách thực dân trên mọi lĩnh vực; đồng thời là hệ quả trực tiếp của các cuộc chiến tranh.

Khác hẳn với những gì diễn ra trong lịch sử, xu hướng tồn cầu hố hiện nay diễn ra ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Về bản chất, đó là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất, cụ thể là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nền kinh tế thị trường. Với bản chất như vậy, có thể nói, tồn cầu hoá là hệ quả tất yếu của văn minh nhân loại.

Đứng trước xu thế tất yếu như vậy, mỗi quốc gia dù trình độ phát triển cao hay thấp đều phải hội nhập, tìm chỗ đứng cho mình trong dòng chảy tất yếu của lịch sử. Đối với Việt Nam, do đặc điểm nằm trong khu vực giao lưu Đông - Tây; bên cạnh hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung Quốc, nên quá trình giao lưu, tiếp nhận ảnh hưởng quốc tế diễn ra sớm và có những đặc điểm riêng trong q trình hội nhập. Hiện nay, Việt Nam phải chịu tác động không nhỏ của xu hướng tồn cầu hố đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có sự tác động tới quan hệ dân tộc và tôn giáo. Điều này được biểu hiện ở những xu thế cơ bản sau:

<i><b>Thứ nhất, đồn kết giữa tơn giáo và dân tộc vẫn trở thành xu thế nổi trội_ Trong điều kiện hiện</b></i>

nay, xu thế đồn kết tơn giáo và dân tộc vẫn là dòng chủ lưu xuất phát từ những yếu tố truyền thống, lịch sử và văn hố. Nhìn một cách tổng quát, suốt chiều dài của mấy ngàn năm lịch sử vấn đề nổi trội vẫn là tinh thần yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng. Tinh thần đó trở thành phương cách, đạo lí sống của người Việt Nam. Tinh thần đồn kết đó đã trở thành sức mạnh quật khởi để dân tộc Việt Nam chiến thắng kẻ thù. Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến sự giành lại độc lập dân tộc sau hơn ngàn năm Bắc thuộc, nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên - Mông, nhà Lê đánh thắng quân xâm lược Minh, Quang Trung đại phá quân Thanh. Tinh thần đồn kết đó lại được thử thách qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, để đến hôm nay tinh thần đó lại trở thành sức mạnh vơ địch trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trên nền tảng của sự đồn kết, hưởng ứng chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, các tơn giáo tham gia tích cực vào khối đại đoàn kết dân tộc. Biểu hiện rõ

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

nhất là các tôn giáo xác định đường hướng đồng hành cùng dân tộc, đồng thuận với những mục tiêu chung mà Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, các tín đồ và chức sắc tơn giáo tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội, tham gia xây dựng chính quyền các cấp. Đặc biệt là việc vận động cử tri theo các tôn giáo tham gia bầu cử Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. “Theo số liệu của 44/64 tỉnh, thành trong cả nước có khoảng 779 chức sắc, chức việc trúng cử đại biểu hội đồng nhân dân ba cấp, trong đó cấp tỉnh là 39, cấp huyện có 186, cấp xã có trên 554 người.

Xét về góc độ văn hố, các tơn giáo tích cực hưởng ứng, tham gia xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, xây dựng làng văn hố, xã văn hố, gia đình văn hố. Điều đáng nói, trên bình diện đạo đức, đồng bào theo các tơn giáo đã góp phần quan trọng vào việc kìm hãm sự suy thối đạo đức dưới tác động trực tiếp của mặt trái cơ chế thị trường. Bên cạnh sự đồng thuận đó, trong những năm gần đây chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ngày càng đổi mới từng bước đáp ứng nhu cầu tơn giáo, tín ngưỡng của đồng bào theo các tôn giáo và quần chúng nhân dân -đây là cơ sở quan trọng để phát huy tinh thần đồn kết trong thời kì mới.

Có thể nói, trên tinh thần coi tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với xây dựng con người mới, xã hội mới, các cấp uỷ Đảng và chính quyền cùng với Mặt trận Tổ quốc các cấp và các đoàn thể tạo thuận lợi cho đồng bào theo các tơn giáo sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo của mình. Trong thời gian vừa qua hàng loạt các tổ chức tơn giáo thuộc 6 tơn giáo chính ở nước ta (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hồ Hảo) được cơng nhận, Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo được ban hành, tạo cơ sở pháp lí cho các hoạt đơng tơn giáo. Ở khắp nơi, các cơ sở thờ tự của tôn giáo đã được xây sửa lại khang trang hơn, đáp ứng lòng mong muốn của hàng triệu người đang hàng ngày gắn với đức tin tơn giáo. Khơng ít tín đồ của đạo Cao Đài, của Phật giáo Hoà Hảo thực sự cảm động bày tỏ nỗi vui mừng, sung sướng khi hệ phái tơn giáo của mình trở lại sinh hoạt bình thường, mở Đại hội Nhân sanh hoặc Đại hội toàn phái. Họ thực lịng nói rằng Đảng và Nhà nước đã thấu hiểu lịng mong ước chính đáng của chức sắc, tín đồ các tơn giáo mà chăm lo cho bà con cả về vật chất lẫn tinh thần. Kinh sách của tôn giáo đã được tái bản; ngày lễ trọng của đạo được tổ chức an toàn, trật tự và nghiêm trang; các trường đào tạo của tôn giáo được mở rộng hơn về quy mô; việc phong chức trở nên đều đặn hơn để việc hành đạo ngày càng quy củ, theo giáo luật. Các nhà tu hành và tín đồ tơn giáo mở rộng quan hệ giao lưu, học hành, dự các hoạt động của đồng đạo ở quốc tế. Bên cạnh đời sống tâm linh được đáp ứng, đời sống vật chất ổn định và từng bước được cải thiện. Thực tiễn ấy giúp cho đồng bào theo các tôn giáo tin rằng cả phần đời và phần đạo đều ngày càng tốt đẹp hơn. Bộ mặt nhiều vùng q đã thay đổi: Nhà ngói hố, đường thôn sạch, trường học mới, bệnh xá gắn liền với xã…, cộng thêm nhân tố giữa người với người đồn kết, gắn bó và giúp nhau; làm cho nhiều cơ sở đơng tín đồ tơn giáo ngày càng trở nên bình an, trật tự, vui vẻ làm ăn. Đó chính là nền tảng để đồn kết đồng bào các tơn giáo, đồn kết giữa người theo hoặc khơng theo tôn giáo trên địa bàn dân cư.

<i><b>Thứ hai, sự gắn kết giữa tôn giáo và dân tộc tạo bản sắc văn hố trước xu thế tồn cầu hố_</b></i>

Trở lại lịch sử của dân tộc Việt Nam, yếu tố tôn giáo là sợi dây liên kết giữa người với người trong cộng đồng quốc gia dân tộc, biểu hiện bằng quan hệ Nhà - Làng - Nước. Nhà - quan hệ huyết thống thờ tổ tiên. Tổ tiên được coi như thần bản mệnh dịng họ, tơng tộc, gia đình; Làng - thờ những người có cơng với làng, đó là các vị Thành Hoàng làng, thần bản mệnh của cộng đồng. Những vị thần này có nguồn gốc khác nhau: Có thể là thần núi, thần sơng, thổ thần, thần cây, thần đá,…; có thể là các tổ sư các nghề, người lập làng, dựng làng, người có cơng. Đối với Nước - thờ Vua Hùng. Một đặc điểm của xã hội phương Đơng trong đó có Việt Nam, đó là việc suy tôn cá nhân, coi người ấy là đại diện

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

cho cả cộng đồng quốc gia. Người đó thường là vua - thần (thiên tử) - người đại diện cho Trời để giúp dân lo việc nước. Ơng vua - thần khơng chỉ lo điều hành kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, v.v… ở thế giới hiện hữu, mà còn điều khiển cả thế giới vơ hình như thần thánh, ma quỷ và linh hồn người đã khuất. Chính biểu hiện của quan hệ tôn giáo và dân tộc như vậy đã tạo ra bản sắc văn hoá, là cơ sở tiếp nhận các tôn giáo ngoại sinh: Nho, Phật, Đạo, v.v…

Nho giáo được du nhập vào nước ta những năm đầu Công nguyên theo bước chân của giai cấp thống trị phương Bắc, tuy có tính chất cưỡng chế, nhưng về sau lại chính là sự lựa chọn có ý thức của tầng lớp cầm quyền, nhằm xây dựng một quốc gia phong kiến thống nhất, tập quyền.

Với những căn cứ đã được xác định có thể khẳng định rằng, Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội, song khi được du nhập vào Việt Nam đã mang màu sắc tôn giáo. Với tư cách là một học thuyết mang tính tơn giáo, Nho giáo đã biến đổi phù hợp với tâm thức tôn giáo bản địa, đặc biệt nó “chung sống” hoặc “khúc xạ” trên nền gắn kết với văn hố dân tộc vốn có quan hệ bền chặt.

Cũng như Nho giáo, Phật giáo là tôn giáo ngoại sinh, khi vào Việt Nam, bị “dân tộc hoá” tạo ra những nét, những đặc điểm riêng của Phật giáo Việt Nam. Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã được tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc, quyện chặt với chúng, tạo ra hiện tượng rõ nhất trong hệ thống chùa thờ “Tứ Pháp” (thực ra hiện tượng “Tứ pháp” trong truyền thống dân gian là thờ các vị thần tự nhiên: mây, mưa, sấm, chớp và thờ đá); hay các vị Phật xuất thân từ Ấn Độ vốn là đàn ông, song khi được du nhập vào Việt Nam biến Phật Ông thành Phật Bà, Bồ tát Quán Thế Âm được biến thành Phật Bà Quan Âm với nghìn mắt, nghìn tay...

Đạo giáo Trung Quốc được truyền vào Việt Nam khá sớm, kết hợp với yếu tố tín ngưỡng bản địa hình thành Đạo giáo Việt Nam. Mục đích của Đạo giáo khác hẳn với các tơn giáo khác đó là khơng xây dựng một ảo tưởng về cuộc sống ở cõi Niết Bàn, mà là xây dựng một xã hội sung túc cả về vật chất lẫn tinh thần. Yếu tố này đã bù đắp được những chỗ thiếu của Nho giáo, Phật giáo, tạo nên bộ mặt hồn chỉnh của tơn giáo Việt Nam.

Điểm qua sự du nhập của các tôn giáo như: Nho, Phật, Đạo có thể tạm rút ra một kết luận rằng khi vào Việt Nam các tôn giáo đều phải biến đổi ít nhiều, hay bị khúc xạ bởi những yếu tố văn hoá bản địa để tạo thêm bản sắc văn hoá - đây là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh của dân tộc chống lại hàng ngàn năm Bắc thuộc, giành lại độc lập cho dân tộc.

Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn tới sự hình thành chủ nghĩa tư bản; đồng thời kéo theo là quá trình xâm chiếm, khai thác thuộc địa của chủ nghĩa tư bản diễn ra khắp tồn cầu. Trước bối cảnh đó, Việt Nam lại rơi vào sự xâm chiếm của chủ nghĩa thực dân, cụ thể là thực dân Pháp. Với sự “bắt tay” vơ tình hay cố ý giữa thực dân Pháp và Công giáo lại một lần nữa xảy ra mâu thuẫn giữa dân tộc với những kẻ đi xâm lược và xảy ra xung đột giữa hai nền văn minh. Xung đột này chỉ được giải quyết khi độc lập dân tộc được khẳng định và xác lập, khi những nội dung: đối thoại, hợp tác, bám rễ vào dân tộc của Cơng đồng Vatican II.

Như vậy, nhìn suốt chiều dài lịch sử Việt Nam, yếu tố tôn giáo đã là một bộ phận của văn hoá, gắn kết với dân tộc chống lại mưu đồ đồng hoá dân tộc, xố nhồ bản sắc. Vậy trong xu thế tồn cầu hố này tơn giáo và dân tộc gắn kết với nhau như thế nào? Đó vẫn là xu hướng gắn kết tôn giáo với dân tộc tạo thành bản sắc văn hố Việt Nam, song có điều sự gắn kết đó lại diễn ra dưới hình thức hồn tồn mới mẻ. Đó là “các tơn giáo đang có xu thế biến đổi thích nghi hơn với đời sống và xã hội trong điều kiện mới mở cửa hội nhập và giữ vững căn tính xã hội chủ nghĩa”<small>(2)</small>. Sở dĩ có biểu hiện này theo chúng tơi xuất phát từ khung cảnh tồn cầu hố, trong đó có vấn đề tồn cầu hố tơn giáo. Nhìn một cách khái qt, các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, một mặt đang biến đổi để thích nghi với xu thế lớn của thời đại; mặt khác khơng thể khơng duy trì “căn tính” văn

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

hố của dân tộc mình và cũng khơng thể khơng bám rễ sâu vào đời sống xã hội mình. Nhận xét này được biểu hiện ở góc độ cơ bản sau:

<i><b>Về phía các tín đồ tôn giáo: Do sự phát triển nhanh của yếu tố khoa học - công nghệ và yếu tố</b></i>

thị trường nên đời sống của phần đơng tín đồ được cải thiện rõ rệt, trình độ học vấn ngày càng được nâng lên. Vì vậy ý thức trách nhiệm “song trùng” vừa là tín đồ tơn giáo, vừa là cơng dân nước Việt Nam được xác định rõ nét hơn, mỗi cá nhân có điều kiện suy tư về lối sống đạo của mình. Và thực tế “lối sống đạo cũ cải tiến rất nhiều theo lối chiêm nghiệm cá nhân. Nếu như các tín đồ trước đây nặng về suy tư cứu rỗi và luôn cầu xin Đấng Cứu Rỗi thì thế hệ tín đồ mới ngày càng tiếp cận nghiêng về bình diện văn hố và tâm lí - do họ cần sự cân bằng trong tâm tưởng trước sự căng thẳng đến mức trần trụi của nền kinh tế thị trường và nền văn minh tiêu thụ… đang xâm nhập xã hội nước ta”.

<b>Về phía các giáo hội: Có thể nói trong thời gian gần đây dưới áp lực của yếu tố hội nhập, các tôn giáo</b>

luôn ý thức việc “cải tạo giáo hội” theo chiều hướng ngày càng đồng hành với dân tộc, đồng hành với chế độ mới và xu thế này ngày càng diễn ra sâu sắc hơn. Đó là tinh thần canh tân, nhập thế, đổi mới thần học, sinh hoạt lễ nghi, phụng sự và hội nhập văn hố của Cơng giáo; nhập thế, hiện đại hoá và đạo pháp - dân tộc - chủ nghĩa xã hội của Phật giáo; nước vinh, đạo sáng của đạo Cao Đài; phụng đạo, yêu nước, gắn bó với dân tộc của Phật giáo Hịa Hảo; và đối với đạo Tin Lành thì mục tiêu sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và dân tộc vẫn là mục tiêu thường trực.

Như vậy, có thể khẳng định, trước xu thế tồn cầu hố sự gắn kết giữa tôn giáo và dân tộc tạo nên bản sắc văn hoá vẫn là xu hướng cơ bản, song có điều trong q trình đó các tơn giáo cũng tự phải biến đổi mình để thích nghi, để tồn tại, thậm chí phát triển theo yêu cầu xã hội tiến nhanh trên con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Điều đó cũng đúng như tinh thần của Hội đồng Giám mục Việt Nam ý thức mình là con cháu Lạc Hồng và đều là chủ nhân của đất nước. Ai cũng muốn đất nước mình, Tổ quốc mình thốt khỏi nghèo nàn, lạc hậu, hội nhập với thế giới với tấm căn cước sáng giá. Trong Bức thư chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980 có đoạn: “Là hội thánh trong lịng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện tại của đất nước. Cơng đồng dạy rằng “Hội thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới”. Vậy chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để làm con của Người, Đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, Dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là cơng dân, vừa là thành phần Dân Chúa” .

<i><b>Thứ ba, các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, tộc người nhằm phá vỡ khối đại đồn kết dân tộc_</b></i>

Lợi dụng vấn đề tơn giáo với mưu đồ chính trị ln là bản chất cố hữu, không thay đổi của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay dưới tác động của xu thế tồn cầu hố, sự lợi dụng vấn đề tơn giáo của các thế lực thù địch mang nội dung mới và tính chất phức tạp hơn nhiều. Thực tiễn trong thời gian gần đây sự phát triển nhanh của đạo Tin Lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc đã làm cho đời sống tôn giáo ở khu vực này có nhiều nét mới và những mặt tích cực mà nó đem lại là điều khơng thể phủ nhận. Song, có điều sự phát triển đó lại dẫn tới một hệ luỵ khác là làm suy giảm và lụi tàn văn hố, tín ngưỡng truyền thống của các dân tộc ở những khu vực đó. Điều đặc biệt là cùng với sự phát triển của đạo Tin Lành, các thế lực thù địch đã lợi dụng những vấn đề văn hoá, tộc người của một số dân tộc thiểu số để phục vụ cho những mưu đồ chính trị, ví dụ như dựng lên cái gọi là “Tổ quốc của người Mông” gắn với Tin Lành - Vàng Chứ hay cái gọi là “Nhà nước Tin Lành

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Đềga” ở Tây Nguyên, nhằm mưu đồ li khai khỏi Tổ quốc Việt Nam. Ở những nơi này tình trạng chia rẽ, mất đoàn kết nhiều khi trở thành điểm nóng gây ảnh hưởng khơng nhỏ tới đời sống chính trị - xã hội khu vực, ảnh hưởng tới việc thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là những hiện tượng lợi dụng vấn đề tơn giáo, tộc người phá vỡ khối đại đồn kết dân tộc.

Như vậy, nhìn vào diễn biến phức tạp của tình hình tơn giáo, tộc người ở một số vùng dân tộc thiểu số ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, bước đầu có thể đưa ra một số nhận xét rằng, trong điều kiện hiện nay các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, tộc người làm cái cớ để can thiệp vào công việc nội bộ, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Ở nước ta, từ sau năm 2001 các thế lực thù địch công khai ủng hộ, dựng lên cái gọi là "Nhà nước Đềga", "Tin Lành Đềga" nhằm chia rẽ mối quan hệ giữa người Kinh và người Thượng, chia rẽ và phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, và muốn tách Tây Nguyên ra khỏi Tổ quốc Việt Nam. Mưu đồ này được dựng bởi những kịch bản tương tự như “Tổ quốc của người Mông” với Tin Lành - Vàng Chứ ở các tỉnh miền núi phía Bắc, “Nhà nước Khmer Crơm” gắn với Phật giáo Nam Tông ở khu vực Tây Nam Bộ.

Rõ ràng, cái gọi là “Tổ quốc của người Mông” gắn với Tin Lành- Vàng Chứ ở Tây Bắc, “Nhà nước Đềga” gắn với Tin Lành Đềga ở Tây Nguyên, “Nhà nước Khmer Crôm” gắn với Phật giáo Nam Tông của người Khmer, khơng phải là cái gì khác hơn là sự lợi dụng vấn đề tôn giáo, tộc người nhằm chia rẽ, gây mất đồn kết dân tộc, tơn giáo trong một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo - đây cũng là xu hướng cần được nghiên cứu trong mối quan hệ tôn giáo và dân tộc ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Tóm lại, như đã trình bày, sự vận động, biến đổi của mối quan hệ giữa dân tộc và tôn giáo gắn chặt với sự vận động và biến đổi của tồn tại xã hội. Trong điều kiện hiện nay do tác động của kinh tế thị trường, tồn cầu hố, nên quan hệ dân tộc và tơn giáo có những điểm khác biệt so với trước. Chính sự khác biệt đó là cơ sở để chúng ta nghiên cứu nhằm bổ sung lí luận về tơn giáo và hoạch định chính sách về quản lí tôn giáo nhằm một mặt đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo một cách chân chính, theo đúng hiến pháp và pháp luật; mặt khác, chống lại và làm thất bại mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo, dân tộc của các thế lực thù định nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân, gây mất ổn định chính trị- xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

<i><b>Khái niệm dân tộc</b></i>

Dân tộc là cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, tạo lập một quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngôn ngữ, truyền thống, văn hoá, đặc điểm tâm lý, ý thức về dân tộc và tên gọi của dân tộc. Khái niệm được hiểu:

+ Các thành viên cùng dân tộc sử dụng một ngôn ngữ chung (tiếng mẹ đẻ) để giao tiếp nội bộ dân tộc. Các thành viên cùng chung những đặc điểm sinh hoạt văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc.

+ Dân tộc được hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc, là một cộng đồng chính trị – xã hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ chung, như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Trung Hoa…

<b>Quan điểm chủ nghĩa Má - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giảiquyết vấn đề dân tộc.</b>

<i><b>Quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc:</b></i>

<i>+ Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong quan hệ giữa các dân tộc diễn ra trên</i>

mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động xấu đến mỗi dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc với nhau cần phải giải quyết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Thực chất của vấn đề dân tộc là sự va chạm, mâu thuẫn lợi ích giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

+ Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài. Bởi do dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc khơng đều nhau; do sự khác biệt về lợi ích; do sự khác biệt về ngơn ngữ, văn hố, tâm lí; do tàn dư tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hịi, tự ti dân tộc; do thiếu sót, hạn chế trong hoạch định, thực thi chính sách kinh tế - xã hội của nhà nước cầm quyền; do sự thống trị, kích động chia rẽ của các thế lực phản động đối với các dân tộc.

Vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề dân tộc gắn kết chặt chẽ với vấn đề giai cấp. Giải quyết vấn đề dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của V.I.Lênin.

Đó là các dân tộc hồn tồn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp giai cấp công nhân tất cả các dân tộc.

+ Các dân tộc hồn tồn bình đẳng là các dân tộc không phân biệt lớn, nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên mọi lĩnh vực trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc, và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế ; xoá bỏ mọi hình thức áp bức, bóc lột dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật hố và thực hiện trên thực tế. Đây là quyền thiêng liêng, là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết, xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc.

+ Các dân tộc được quyền tự quyết, là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi dân tộc : quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình, bao gồm cả quyền tự do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù hợp với lợi ích chính đáng của các dân tộc. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng quyền tự quyết để can thiệp, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc.

<i>+ Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là sự đồn kết cơng nhân các dân tộc trong phạm</i>

vi quốc gia và quốc tế, và cả sự đoàn kết quốc tế của các dân tộc, các lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giải quyết tốt vấn đề dân tộc, giai cấp, quốc tế. Đây là nội dung vừa phản ánh bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, vừa phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh và khả năng để giành thắng lợi.

<i><b>Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc:</b></i>

Trung thành với quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, bám sát thực tiễn cách mạng, đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm dân tộc đúng đắn, góp phần cùng tồn Đảng, lãnh đạo nhân dân ta giải phóng dân tộc; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh về nội dung toàn diện, phong phú, sâu sắc, khoa học và cách mạng; đó là những luận điểm cơ bản chỉ đạo, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc; xây dựng quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam và giữa dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc trên thế giới.

Khi Tổ quốc bị thực dân Pháp xâm lược, đơ hộ, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước, cùng Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Khi Tổ quốc được độc lập, tự do, Người đã cùng toàn Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng mối quan hệ mới, tốt đẹp giữa các dân tộc: bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển đi lên con đường ấm no, hạnh phúc. Người rất quan tâm chăm sóc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số. Khắc phục tàn dư tư tưởng phân biệt, kì thị dân tộc, tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi. Người quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc. Lên án, vạch trần mọi âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam.

<b>Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam và quan điểm chính sách dân tộc củaĐảng Nhà nước ta hiện nay:</b>

<i><b>Khái quát đặc điểm các dân tộc ở nước ta hiện nay: Việt Nam là một quốc gia dân tộc</b></i>

thống nhất gồm 54 dân tộc cùng sinh sống. Các dân tộc ở Việt Nam có đặc trưng sau :

<i><b>Một là, các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đồn kết gắn bó xây dựng quốc gia dântộc thống nhất. Đây là đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở Việt Nam. Trong lịch</b></i>

sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, do yêu cầu khách quan của công cuộc đấu tranh chống thiên tai, địch hoạ dân tộc ta đã phải sớm đoàn kết thống nhất. Các dân tộc ở Việt Nam đều có chung cội nguồn, chịu ảnh hưởng chung của điều kiện tự nhiên, xã hội, chung vận mệnh dân tộc, chung lợi ích cơ bản - quyền được tồn tại, phát triển. Đoàn kết thống nhất đã trở thành giá trị tinh thần truyền thống quý báu của dân tộc, là sức mạnh để dân tộc ta tiếp tục xây dựng và phát triển đất nước.

<b>Hai là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ trên địa bàn rộnglớn, chủ yếu là miền núi, biên giới, hải đảo. Khơng có dân tộc thiểu số nào cư trú duy nhất</b>

trên một địa bàn mà không xen kẽ với một vài dân tộc khác. Nhiều tỉnh miền núi các dân tộc thiểu số chiếm đa số dân số như : Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu...

<i><b>Ba là, các dân tộc ở nước ta có quy mơ dân số và trình độ phát triển không đều. Theo số</b></i>

liệu điều tra dân số năm 1999, nước ta có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh có 65,9 triệu người, chiếm 86,2% dân số cả nước, 53 dân tộc thiểu số có 10,5 triệu người chiếm 13,8% dân số cả nước. Dân số của các dân tộc thiểu số dân số cũng chênh lệch nhau. Có hai dân tộc có dân số từ 1 triệu trở lên, có 10 dân tộc có số dân từ dưới 1 triệu đến 100 ngàn người ; 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người ; 16 dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 5 dân tộc có số dân dưới 1 ngàn người là: Sila, Pupéo, Rơmăm, Ơđu, và Brâu_ Trình độ phát triển kinh tế -xã hội giữa các dân tộc không đều nhau. Có dân tộc đã đạt trình độ phát triển cao, đời sống đã tương đối khá như dân tộc Kinh, Hoa, Tày, Mường, Thái..., nhưng cũng có dân tộc trình độ phát triển thấp, đời sống cịn nhiều khó khăn như một số dân tộc ở Tây Bắc, Trường Sơn, Tây Nguyên...

<i><b>Bốn là, mỗi dân tộc ở Việt Nam đều có sắc thái văn hố riêng, góp phần làm nên sự đadạng, phong phú, thống nhất của văn hoá Việt Nam. Các dân tộc đều có sắc thái văn hố về</b></i>

nhà cửa, ăn mặc, ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tơn giáo và ý thức dân tộc riêng, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của văn hoá Việt Nam. Đồng thời các dân tộc cũng có điểm chung thống nhất về văn hố, ngơn ngữ, phong tục tập qn, tín ngưỡng, tơn giáo, ý thức quốc gia dân tộc. Sự thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hoá các dân tộc ở Việt Nam.

<i><b>Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay</b></i>

Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta ln có quan điểm nhất qn : “Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các

<i>dân tộc Việt Nam". Công tác dân tộc ở nước ta hiện nay, Đảng, Nhà nước ta tập trung:</i>

Khắc phục sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc; nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hịi, kì thị, chia rẽ dân tộc, lợi dụng vấn đề dân tộc để gây mất ổn định chính trị - xã hội, chống phá cách mạng; thực hiện bình đẳng, đồn kết, tơn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ giữa các dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho tất cả các dân tộc ở Việt Nam đều phát triển, ấm no, hạnh phúc.

Văn kiện Đại hội X chỉ rõ quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay là: "Vấn đề dân tộc và đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xố đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế- xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt cơng tác dân vận. Chống các biểu hiện kì thị, hẹp hịi, chia rẽ dân tộc”.

<b>Vấn đề chung về tơn giáo</b>

<i><b> Khái niệm tơn giáo_ Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách</b></i>

quan, theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp với tâm lí, hành vi của con người. Trong đời sống xã hội, tôn giáo là một cộng đồng xã hội, với các yếu tố: Hệ thống giáo lí tơn giáo, nghi lễ tôn giáo, tổ chức tôn giáo với đội ngũ giáo sĩ và tín đồ, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động tôn giáo.

<i><b> Cần phân biệt tôn giáo với mê tín dị đoan</b></i>

Mê tín dị đoan là những hiện tượng (ý thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái với lẽ phải và hành vi đạo đức, văn hoá cộng đồng, gây hậu quả tiêu cực trực tiếp đến đời sống vật chất tinh thần của cá nhân, cộng đồng xã hội. Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh hoá đời sống tinh thần xã hội.

<i><b>Nguồn gốc của tơn giáo</b></i>

Có nguồn gốc từ các yếu tố kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lí.

<i><b> - Nguồn gốc kinh tế - xã hội: Trong xã hội nguyên thuỷ, do trình độ lực lượng sản xuất</b></i>

thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối, lệ thuộc và bất lực trước tự nhiên. Vì vậy họ đã gán cho tự nhiên những lực lượng siêu tự nhiên có sức mạnh, quyền lực to lớn, quyết định đến cuộc sống và họ phải tôn thờ.

Khi xã hội có giai cấp đối kháng, nạn áp bức, bóc lột, bất cơng của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động là nguồn gốc nảy sinh tôn giáo. V.I.Lênin đã viết: "Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lịng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia". Hiện nay, con người vẫn chưa hoàn toàn làm chủ tự nhiên và xã

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hội ; các cuộc xung đột giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thiên tai, bệnh tật,... vẫn còn diễn ra, nên vẫn còn nguồn gốc để tôn giáo tồn tại.

<i><b>- Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo. Tôn giáo bắt nguồn từ sự nhận thức hạn hẹp, mơ hồ</b></i>

về tự nhiên, xã hội có liên quan đến đời sống, số phận của con người. Con người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên, tạo ra các biểu tượng tôn giáo. Mặt khác, trong quá trình biện chứng của nhận thức, con người nảy sinh những yếu tố suy diễn, tưởng tưởng xa lạ với hiện thực khách quan, hình thành nên các biểu tượng tơn giáo.

<i><b>- Nguồn gốc tâm lí của tơn giáo. Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu, sợ hãi, buồn chán,</b></i>

tuyệt vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm chủ được bản thân là cơ sở tâm lí để hình thành tơn giáo. Mặt khác, lịng biết ơn, sự tơn kính đối với những người có cơng khai phá tự nhiên và chống lại các thế lực áp bức trong tình cảm, tâm lí con người cũng là cơ sở để tôn giáo nảy sinh.

<i><b>- Tính chất của tơn giáo: Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tơn giáo có tính lịch</b></i>

sử, tính quần chúng, tính chính trị.

sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội. Tơn giáo cịn tồn tại rất lâu dài, nhưng sẽ mất đi khi con người làm chủ hoàn toàn tự nhiên, xã hội và tư duy.

<i>Tính quần chúng của tơn giáo: Tơn giáo phản ánh khát vọng của quần chúng bị áp bức về</i>

một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái (dù đó là hư ảo). Tôn giáo đã trở thành nhu cầu tinh thần, đức tin, lối sống của một bộ phận dân cư. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân tin theo các tơn giáo.

<i>Tính chính trị của tôn giáo: Xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp. Giai cấp thống trị</i>

lợi dụng tôn giáo làm công cụ hỗ trợ để thống trị áp bức bóc lột và mê hoặc quần chúng. Những cuộc chiến tranh tôn giáo đã và đang xảy ra, thực chất vẫn là xuất phát từ lợi ích của những lực lượng xã hội khác nhau lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục tiêu chính trị của mình.

<b>Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo trongcách mạng xã hội chủ nghĩa</b>

Giải quyết vấn đề tơn giáo là một q trình lâu dài gắn với quá trình phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, giáo dục, khoa học cơng nghệ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực hiện các vấn đề có tính ngun tắc sau :

<i>Một là: giải quyết vấn đề tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựngxã hội mớ i- xã hội xã hội chủ nghĩa_ Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chỉ có thể giải phóng</i>

quần chúng khỏi ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của tơn giáo. Đó phải là kết quả của sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó, giải quyết vấn đề tơn giáo phải sử dụng tổng hợp các giải pháp trên tất cả các lĩnh vực nhằm xác lập được một thế giới hiện thực khơng có áp bức, bất cơng, nghèo đói, dốt nát. Tuyệt đối không được sử dụng mệnh lệnh hành chính cưỡng chế để tun chiến, xố bỏ tơn giáo.

<i>Hai là: tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của cơng dân,kiên quyết bài trừ mê tín dị đoan_ Trong chủ nghĩa xã hội, tơn giáo cịn là nhu cầu tinh thần của</i>

một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài. Bởi vậy, phải tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo và quyền tự do khơng tín ngưỡng tơn giáo của công dân. Nội dung cơ bản của quyền tự do

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tín ngưỡng là: Bất kì ai cũng được tự do theo tơn giáo mà mình lựa chọn, tự do không theo tôn giáo, tự do chuyển đạo hoặc bỏ đạo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho mọi cơng dân, khơng phân biệt tín ngưỡng tơn giáo đều được bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Mọi tổ chức và cá nhân đều phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tơn giáo và quyền tự do khơng tín ngưỡng tôn giáo của công dân. Tôn trọng gắn liền với không ngừng tạo điều kiện cho quần chúng tiến bộ mọi mặt, bài trừ mê tín dị đoan, bảo đảm cho tín đồ, chức sắc tơn giáo hoạt động theo đúng pháp luật.

<i>Ba là: quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo_ Tơn giáo có tính</i>

lịch sử, nên vai trị, ảnh hưởng của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng thay đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Bởi vậy, khi xem xét, đánh giá, giải quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo cần phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, tránh giáo điều, máy móc, rập khn cứng nhắc. Những hoạt động tôn giáo đúng pháp luật được tôn trọng, hoạt động ích nước lợi dân được khuyến khích, hoạt động trái pháp luật, đi ngược lại lợi ích dân tộc bị xử lí theo pháp luật.

<i>Bốn là: phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấnđề tôn giáo_ Trong xã hội, sinh hoạt tôn giáo tồn tại hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn đối kháng về</i>

lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp bóc lột và thế lực lợi dụng tơn giáo chống lại cách mạng với lợi ích của nhân dân lao động, đó là mặt chính trị của tôn giáo. Mâu thuẫn không đối kháng giữa những người có tín ngưỡng khác nhau hoặc giữa người có tín ngưỡng và khơng có tín ngưỡng, đó là mặt tư tưởng của tôn giáo.

Cho nên, một mặt phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, mặt khác phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động của các thế lực lợi dụng tôn giáo. Việc phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quần chúng nhân dân, khơng phân biệt tín ngưỡng tôn giáo; Phát huy tinh thần yêu nước của những chức sắc tiến bộ trong các tôn giáo; Kiên quyết vạch trần và xử lí kịp thời theo pháp luật những phần tử lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá cách mạng.

<b>Tình hình tơn giáo ở Việt Nam và chính sách tơn giáo của Đảng, Nhànước ta hiện nay</b>

<i><b>Khái qt tình hình tơn giáo ở Việt Nam hiện nay: Việt Nam là quốc gia có nhiều tơn</b></i>

giáo và nhiều người tin theo các tôn giáo. Hiện nay, ở nước ta có 6 tơn giáo lớn: Phật giáo, Cơng giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hoà Hảo với số tín đồ lên tới trên 20 triệu. Có người cùng lúc tham gia nhiều hành vi tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau.

Trong những năm gần đây các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển tổ chức, phát huy ảnh hướng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội đều tăng cường hoạt động mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ ; tăng cường quan hệ với các tổ chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng mới khang trang đẹp đẽ ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sôi động ở nhiều nơi. Đại đa số tín đồ chức sắc tơn giáo hoạt động đúng pháp luật, theo hướng “tốt đời, đẹp đạo”.

Tuy nhiên tình hình tơn giáo cịn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn có chức sắc, tín đồ mang tư tưởng chống đối, cực đoan, quá khích gây tổn hại đến lợi ích dân tộc ; vẫn cịn các hoạt động tơn giáo xen lẫn với mê tín dị đoan, cịn các hiện tượng tà giáo hoạt động làm mất trật tự an tồn xã hội.

Các thế lực thù địch vẫn ln lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng gắn vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” với cái gọi là “tự do tôn giáo” để chia rẽ tôn giáo,

</div>

×