Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

đề tài Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.45 KB, 48 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU ... 1 </b>

<b>CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI PHẠM HỢP ĐỒNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ... 2 </b>

1.1 Khái quát chung về hợp đồng thương mại và các chế tài đối với vi phạm hợp đồng ... 2

1.1.1. Hợp đồng thương mại và vi phạm hợp đồng thương mại ... 2

1.1.2. Khái niệm của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ... 5

1.1.3. Đặc điểm của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ... 13

1.1.4. Ý nghĩa của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ... 15

1.2. Khái quát pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại ... 16

1.2.1. Nguồn pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại ... 16

1.2.2. Áp dụng chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ... 17

1.2.3. Phân loại chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ... 28

<b>CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI </b>

2.1.2. Nguyên nhân của những bất cập ... 33

2.2. Thực trạng vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam ... 33

<b>CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI PHẠM HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ... 37 </b>

3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với với việc hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ... 37

3.1.1. Phù hợp với đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ... 37

3.1.2. Đảm bảo sự thống nhất của các văn bản pháp luật ... 38

3.1.3. Đảm bảo sự bình đẳng của các bên trong quan hệ hợp đồng ... 39

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

3.1.4. Đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ... 39

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại ... 40

3.2.1. Bổ sung quy định thống nhất cách hiểu về thời điểm tồn tại của điều khoản phạt vi phạm ... 40

3.2.2. Thống nhất quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại trong mối quan hệ giữa hai chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại. ... 41

3.2.3. Hoàn thiện quy định về quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>LỜI MỞ ĐẦU </b>

Nền kinh tế ngày càng phát triển theo sự phát triển của hoạt động thương mại và cùng với sự gia tăng của các loại hợp đồng thương mại. Khi hợp đồng thương mại được giao kết và có hiệu lực pháp luật địi hỏi các bên chủ thể phải tuân thủ đúng các quy định mà mình đã thỏa thuận. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tạo ra tính chất tuân thủ của các chủ thể trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành. Hợp đồng thương mại được thực hiện dưới nhiều mục đích khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là tạo ra mục đích sinh lợi cho các bên. Do vậy việc thực hiện nghiêm chỉnh những nội dung đã được các bên thỏa thuận trước đó là một điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên trên thực tế, trong quá trình thực hiện hợp đồng thường xảy ra các vi phạm hợp đồng mà sự vi phạm đó có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Để đảm bảo lợi ích cho bên bị vi phạm, pháp luật bao giờ cũng dữ liệu những chế tài do vi phạm hợp đồng.

Ở Việt Nam, các quy định về các chế tài rất được coi trọng bởi chúng là một phần không thể tách rời của pháp luật cộng đồng. Tuy nhiên qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện và cơ bản, nhưng các quy định của các văn bản này và nhiều văn bản khác về chế tài đối với vi phạm hợp đồng nói chung và vi phạm hợp đồng thương mại nói riêng tại cịn có nhiều bất cập.

Xuất phát từ những vấn đề quan trọng này, nhóm chúng em xin phép lựa chọn đề tài: “Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại” để phân tích. Do thời gian và nguồn lực có hạn nên bài luận này khơng tránh khỏi sai sót. Chúng em rất mong được nhận xét và góp ý của cơ để bài luận có thể được hoàn thiện hơn.

<b> </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI PHẠM HỢP ĐỒNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI ĐỐI VỚI VI PHẠM HỢP </b>

Pháp luật hiện hành Việt Nam hiện không đưa ra khái niệm hợp đồng thương mại cũng như khái niệm “thương mại” nói chung mà thông qua khái niệm hoạt động thương mại trong Luật Thương mại 2005 để làm rõ đặc điểm của khái niệm thương mại. Theo đó, khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 giải thích về hoạt động thương mại như sau:

<i>“1. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” </i>

Theo quy định trên, có thể hiểu hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên để thực hiện hoạt động thương mại nhằm mục đích sinh lợi.

<i>Cũng theo Luật Thương mại 2005, hoạt động thương mại gồm: Mua bán hàng </i>

<i>hóa; cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. </i>

Khái niệm về hợp đồng: Điều 385 BLDS 2015

<i>“Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” </i>

<i><b>Điều 116. Giao dịch dân sự </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” </i>

Tóm lại, có thể hiểu hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên (trong đó có ít nhất một bên tham gia là thương nhân) về việc xác lập thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc thực hiện các hoạt động thương mại"

Một số loại hợp đồng thương mại phổ biến hiện nay gồm:

Hợp đồng mua bán hàng hóa, gồm: Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước; hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; hợp đồng mua bán qua Sở giao dịch hàng hóa.

Hợp đồng dịch vụ, gồm: Hợp đồng cung ứng dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hóa; hợp đồng cung ứng dịch vụ chuyên ngành (hợp đồng dịch vụ tài chính, bảo hiểm,...). Hợp đồng trong các hoạt động đầu tư thương mại khác…

<i><b>b.Vi phạm hợp đồng thương mại </b></i>

<i>Vi phạm hợp đồng </i>

Vi phạm hợp đồng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng là những nghĩa vụ đã được ghi nhận trong các điều khoản của hợp đồng hoặc được pháp luật điều chỉnh hợp đồng đó quy định.

Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý để áp dụng đối với tất cả các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Hành vi vi phạm hợp đồng là xử sự của các chủ thể hợp đồng không phù hợp với các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng. Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm hợp đồng là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Cần lưu ý, các bên không chỉ thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng mà còn phải thực hiện cả những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật (nội dung thường lệ của hợp đồng). Vậy nên, khi xem xét một hành vi có là

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

hành vi vi phạm hợp đồng hay không phải căn cứ vào các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng và cả quy định pháp luật có liên quan.

<i>Hành vi vi phạm hợp đồng thương mại </i>

<i>Căn cứ theo khoản 12 Điều 3 LTM 2005, "Vi phạm hợp đồng là việc một bên </i>

<i>không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này." </i>

Trong thực tiễn để xác định việc có hay khơng một hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phải chứng minh được hai vấn đề. Đó là, quan hệ hợp đồng hợp pháp giữa các bên và có hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ theo hợp đồng. Hợp đồng hợp pháp là cơ sở phát sinh nghĩa vụ giữa các bên và là căn cứ quan trọng để xác định hành vi vi phạm. Cần đối chiếu giữa thực tế thực hiện hợp đồng với các cam kết trong hợp đồng hoặc các quy định pháp luật có liên quan để xác định chính xác hành vi vi phạm hợp đồng.

Mặt khác, khi xem xét hành vi vi phạm hợp đồng thương mại với tư cách là căn cứ để áp dụng chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại cần phải có sự đánh giá về vi phạm cơ bản và không cơ bản. Vấn đề này mới được đưa vào Luật thương mại năm 2005

<i>“Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên bị vi phạm khơng được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng đối với vi phạm không cơ bản” (Điều 293). </i>

<i>Luật thương mại năm 2005 còn đưa ra khái niệm “Vi phạm cơ bản là sự vi phạm </i>

<i>hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng” (Khoản 13 Điều 3). </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>1.1.2. Khái niệm của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại </b>

Chế tài là các biện pháp cưỡng chế nhà nước dự kiến áp dụng đối với các chủ thể vi phạm pháp luật để đảm bảo việc thực hiện pháp luật. Các chế tài do nhà nước đặt ra, được quy định trong các quy phạm pháp luật và mang tính cưỡng chế thi hành.

Trong quá trình ký kết, thực hiện các hợp đồng trong thương mại, việc một bên vi phạm nghĩa vụ đã giao kết, thỏa thuận trong hợp đồng có thể dẫn đến ảnh hưởng, gây thiệt hại tới bên cịn lại. Khi đó, bên bị ảnh hưởng, thiệt hại có thể yêu cầu bên vi phạm một số trách nhiệm ràng buộc, như buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại,…

Theo quy định tại Điều 292 Luật Thương mại năm 2005 gồm các chế tài sau:

Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.

<i><b>a. Buộc thực hiện đúng hợp đồng. </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.

Căn cứ để áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là: có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm. Biểu hiện cụ thể của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên vi phạm phải ngừng ngay việc vi phạm và thực hiện đúng các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện (tự sửa chữa khuyết tật của hàng hố, thiếu sót của dịch vụ, mua hàng hóa, nhận cung ứng dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng…) và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh.

Những trường hợp bên bị vi phạm và bên vi phạm thỏa thuận gia hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc thỏa thuận thay thế nghĩa vụ này bằng nghĩa vụ khác, không được coi là áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng.

Theo Luật Thương mại (Điều 297), khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có thể lựa chọn hoặc yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc lựa chọn các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng theo Luật Thương mại được đặt ra khi có vi phạm các điều khoản về số lượng, chất lượng hàng hóa, yêu cầu kỹ thuật của công việc. Khi bên vi phạm giao hàng thiếu, cung ứng dịch vụ không đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đủ hàng, cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu bên vi phạm giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm loại trừ khuyết tật của hàng hố, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm không thực hiện yêu cầu của bên bị vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải bù đắp phần chênh lệch về giá. Bên bị vi phạm cũng có thể tự sửa chữa khuyết

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tật của hàng hóa, thiếu sót của dịch vụ và yêu cầu bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý.

<i><b>b.Phạt vi phạm. </b></i>

Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này.

Chế tài phạt hợp đồng có mục đích chủ yếu là trừng phạt, tác động vào ý thức của các chủ thể hợp đồng nhằm giáo dục ý thức tôn trọng nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng, phòng ngừa hành vi vi phạm hợp đồng. Với mục đích như vậy, phạt hợp đồng là hình thức được áp dụng một cách phổ biến đối với các vi phạm hợp đồng.

Theo Luật Thương mại, chế tài phạt vi phạm hợp đồng chỉ được áp dụng nếu (trong hợp đồng có thoả thuận về việc áp dụng chế tài này). Mặt khác, để áp dụng hình thức chế tài phạt hợp đồng, cần có hai căn cứ là:

+ Có hành vi vi phạm hợp đồng; + Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng.

Mức tiền phạt vi phạm hợp đồng bị giới hạn bởi pháp luật (các bên có quyền thỏa thuận về mức phạt nhưng không được vượt quá mức phạt do pháp luật quy định). Theo Luật Thương mại năm 2005, mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

<i><b>c.Buộc bồi thường thiệt hại. </b></i>

Khác với phạt vi phạm hợp đồng, bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài được áp dụng nhằm khơi phục, bù đắp những lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Với mục đích này, bồi thường thiệt hại chỉ được áp dụng khi có thiệt hại xảy ra. Theo

• Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại

• Có lỗi của bên vi phạm (khơng thuộc các trường hợp được miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật)

Về nguyên tắc, bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi phạm. Tuy nhiên, như đã phân tích, các khoản thiệt hại địi bồi thường phải nằm trong phạm vi được pháp luật ghi nhận.

Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh được mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được nhưng nếu khơng có hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm. Khi xảy ra vi phạm hợp đồng, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại khơng áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá tiền bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.

Khi áp dụng trách nhiệm bồi thường, cần lưu ý mối quan hệ giữa phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Với bản chất của hợp đồng, các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về các hình thức; chế tài phù hợp với quy định của pháp luật. Các bên có quyền thỏa thuận về việc bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng vừa phải bồi thường thiệt hại. Theo Luật Thương mại, trong trường hợp các bên của hợp đồng không thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

thiệt hại; trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại.

<i><b>d.Tạm ngừng thực hiện hợp đồng. </b></i>

Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này; tạm ngừng thực hiện hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng;

2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

<i><b>Điều 309. Hậu quả pháp lý của việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng </b></i>

<i>1. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn cịn hiệu lực. </i>

<i>2. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này. </i>

<i><b>e .Đình chỉ thực hiện hợp đồng. </b></i>

Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:

1) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;

2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Khi một trong các bên vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng; trong hợp đồng có thỏa thuận rằng sự vi phạm đó là điều kiện để đình chỉ thực hiện hợp đồng; thì các bên sẽ đình chỉ thực hiện hợp đồng theo như thỏa thuận trong hợp đồng.

Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng nghĩa là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Lúc này việc thực hiện hợp đồng sẽ bị đình chỉ.

<b>Điều 311. Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ thực hiện hợp đồng </b>

1.Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên khơng phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền u cầu bên kia thanh tốn hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.

<i>2.Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này. </i>

<i><b>f.Huỷ bỏ hợp đồng. </b></i>

Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm:

<small>• </small> Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng: Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với tồn bộ hợp đồng.

<small>• </small> Hủy bỏ một phần hợp đồng: Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

<i><b>Điều 314. Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng </b></i>

1.Trừ trường hợp quy định tại Điều 313 của Luật này, sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.

2.Các bên có quyền địi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa vụ của họ phải được

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

thực hiện đồng thời; trường hợp khơng thể hồn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền.

3.Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật

Luật thương mại 2005

<b>Khái niệm Là việc một bên </b>

- Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

hiệu lực từ thời điểm giao kết (trừ trường hợp hủy bỏ hợp đồng giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần).

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

cầu bên kia thanh tốn hoặc

- Các bên khơng phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp;

- Các bên có quyền địi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hồn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp khơng thể hồn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hồn trả bằng tiền;

- Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này.

(Điều 314)

<b>1.1.3. Đặc điểm của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại </b>

Với cách hiểu là chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại, chế tài trong thương mại có đặc điểm pháp lý sau đây:

<i>Thứ nhất, chế tài trong thương mại ln mang tính cưỡng chế nhà nước đối với </i>

người vi phạm pháp luật thương mại. Các chế tài thể hiện thái độ, phản ứng của Nhà nước đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, các biện pháp cưỡng chế này chỉ

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

áp dụng đối với các nhà kinh doanh và những người có quan hệ hợp đồng với họ khi vi phạm các nghĩa vụ theo hợp đồng và theo pháp luật.

<i>Thứ hai, chế tài trong thương mại được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp </i>

luật thương mại. Những chế tài trong thương mại được luật hoá và quy định tại Luật Thương mại năm 2005 (Mục 1 Chương VII). Việc quy định trong văn bản quy phạm pháp luật đảm bảo tính cưỡng chế nhà nước của các chế tài này thông qua các thiết chế nhất định trong trường hợp không được bên vi phạm hợp đồng tự nguyện thi hành. Các chế tài trong thương mại chỉ được áp dụng khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định. Do được quy định trong các văn bản pháp luật nên các chế tài trong thương mại được áp dụng theo mức bằng nhau đối với những vi phạm cùng loại, không phân biệt chủ thể hành vi vi phạm là ai, nhằm đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của các chủ thể quan hệ pháp luật thương mại.

Ví dụ, nếu đáp ứng đủ căn cứ thì có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm với mức tối đa là 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, không phân biệt bên vi phạm là cá nhân hay pháp nhân, doanh nghiệp vốn trong nước hay vốn nước ngoài (Điều 301 Luật Thương mại năm 2005)...

<i>Thứ ba, chế tài trong thương mại là hình thức trách nhiệm của một bên trong quan </i>

hệ hợp đồng trong thương mại đối với bên kia của hợp đồng, trách nhiệm của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Quan hệ hợp đồng trong thương mại được xây dựng trên nguyên tắc là quan hệ bình đẳng giữa các bên với nhau, việc vi phạm nghĩa vụ của bên này chính là vi phạm quyền của bên kia và ngược lại. Vì thế, trách nhiệm trước hết là của một bên đối với bên kia trong quan hệ hợp đồng trong thương mại, của bên vi phạm đối với bên bị vi phạm. Chế tài trong thương mại chỉ có thể được áp dụng khi có yêu cầu của một bên trong hợp đồng, đó là bên có quyền và lợi ích bị vi phạm. Các chế tài hình sự hay hành chính có thể được áp dụng dựa trên yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khơng xuất phát từ các bên nhưng đối với chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại (chế tài trong thương mại), điều kiện đầu tiên để xem xét áp dụng phải là có yêu cầu của một bên trong hợp đồng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<i>Thứ tư, chế tài trong thương mại chủ yếu mang tính tài sản. Vì các quan hệ được </i>

điều chỉnh bởi pháp luật thương mại là quan hệ tài sản nên chế tài trong thương mại trước hết thực hiện chức năng tác động về tài sản đối với bên vi phạm. Các chế tài tài sản áp dụng đối với bên vi phạm dưới hình thức khác nhau, đều dẫn đến việc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Đó có thể là những nghĩa vụ tài sản tương đương với nghĩa vụ theo hợp đồng như bồi thường thiệt hại thực tế. Đó cũng có thể là những nghĩa vụ tài sản bổ sung so với nghĩa vụ theo hợp đồng như tiền phạt, lãi suất tiền chậm thanh toán, khoản lợi nhuận bị bỏ lỡ... Tuy nhiên, theo pháp luật thực định Việt Nam, có những chế tài khơng mang tính tài sản như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng.

<b>1.1.4. Ý nghĩa của các chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại </b>

Khi hợp đồng trong hoạt động thương mại được giao kết hợp pháp sẽ phát sinh nghĩa vụ ràng buộc các bên giao kết. Các bên phải nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên nào vi phạm, bên đó phải chịu trách nhiệm đối với bên bị vi phạm dưới những hình thức chế tài khác nhau. Như vậy, các chế tài trong thương mại trước hết thúc đẩy các nhà kinh doanh tuân thủ khung pháp lý gồm các quy định, thủ tục, tiêu chuẩn, yêu cầu đã được xác định trước và thực hiện hoạt động thương mại trong khn khổ đó.

Bên cạnh đó, chế tài trong thương mại có khả năng trừng phạt đối với nhà kinh doanh khơng thực hiện các nghĩa vụ của mình. Nếu như quy định pháp luật tạo khuôn khổ pháp lý gồm các quy tắc xử sự cho mọi tổ chức, cá nhân và được nhà nước đảm bảo thực hiện, thì trong trường hợp tổ chức, cá nhân nào vượt ra khỏi khn khổ pháp lý đó, tức là vi phạm các quy tắc xử sự chung, sẽ phải chịu sự trừng phạt, chịu những hậu quả bất lợi vì hành vi của mình. Nếu vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng thì bên vi phạm cũng phải chịu sự trừng phạt theo quy định của pháp luật và của hợp đồng. Sự trừng phạt do vi phạm hợp đồng này chủ yếu mang tính tài sản, tính bằng tiền, được áp dụng nhằm buộc bên vi phạm phải trả giá cho hành vi vi phạm hợp đồng của mình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Chế tài trong thương mại có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại. Nếu bên nào bị vi phạm hợp đồng, bên đó có quyền yêu cầu bên vi phạm khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp hoặc bù đắp những thiệt hại mà bên vi phạm đã gây ra do hành vi vi phạm hợp đồng của mình. Đây là mục đích chủ yếu của chế tài trong thương mại vì quan hệ hợp đồng thương mại được thiết lập trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi của các bên; do hợp đồng bị vi phạm dẫn đến quyền và lợi ích của bên bị vi phạm không được đảm bảo nên chế tài được đặt ra chủ yếu nhằm hướng tới khôi phục các quyền và lợi ích bị vi phạm, bù đắp những thiệt hại chứ khơng phải nhằm mục đích chính là trừng phạt. Pháp luật sẽ can thiệp để đảm bảo những quyền và lợi ích hợp pháp này của họ. Nếu bên vi phạm không tự nguyện thi hành thì sẽ có cơ chế cưỡng chế thi hành từ phía các cơ quan nhà nước trên cơ sở các quy định pháp luật.

Ngoài ra, chế tài trong thương mại còn nhằm ngăn ngừa và hạn chế vi phạm hợp đồng từ phía các nhà kinh doanh cũng như những người có quan hệ hợp đồng với họ. Các chủ thể hợp đồng lường trước được sự trừng phạt hay hậu quả bất lợi dự kiến sẽ được áp dụng nếu mình có hành vi vi phạm pháp luật, từ đó nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, tuân thủ hợp đồng và chủ động phòng tránh vi phạm.

<b>1.2. Khái quát pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại </b>

<b>1.2.1. Nguồn pháp luật về chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại </b>

Nguồn của pháp luật chính là hình thức biểu hiện của pháp luật, nguồn của pháp luật về chế tài thương mại đối với vi phạm hợp đồng thương mại là các văn bản chứa đựng các quy phạm pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại. Trong pháp luật hiện hành của Việt Nam chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại chủ yếu được quy định trong các văn bản sau:

<i>Bộ luật dân sự </i>

Bộ luật dân sự với tư cách là một nguồn chung điều chỉnh tất cả các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng, hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng là một quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

hệ được Bộ luật dân sự điều chỉnh. Trong mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng người ta tìm tới những quy định của Bộ luật dân sự khi các văn bản pháp luật chun ngành khơng có giải pháp điều chỉnh. Bộ luật dân sự được coi là nguồn chung khi mà Luật thương mại khơng có quy định. Nếu luật thương mại quy định không đầy đủ về các chế tài, điều kiện áp dụng, trường hợp miễn trách nhiệm, bất khả kháng,... thì ta tìm tới các quy định trong Bộ luật dân sự để giải quyết vấn đề.

<i>Luật thương mại 2005 </i>

Luật thương mại 2005 là văn bản tập chung điều chỉnh chính về chế tài cho vi phạm hợp đồng thương mại. Luật Thương mại 2005 tại Chương VII mục 1 quy định về chế tài gồm 15 điều từ điều 292 đến điều 316. Các điều luật này nói về 6 loại chế tài thương mại cụ thể và những quy định về trường hợp miễn trách nhiệm…

<i>Các văn bản pháp luật chuyên ngành khác </i>

Trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau có quy định về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại: Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật kinh doanh bất động sản,... Các văn bản này quy định những chế tài trong lĩnh vực chuyên biệt như kinh doanh bảo hiểm, hàng hóa,... Ngồi ra, chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại cịn có thể được quy định trong các hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

<b>1.2.2. Áp dụng chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại </b>

<i><b>a. Cơ sở áp dụng chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại </b></i>

Các chế tài áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng thương mại là những hình thức của trách nhiệm hợp đồng bởi vậy khi muốn áp dụng ta cần phải có đủ điều kiện là căn cứ, cơ sở cho việc áp dụng. Đối với trách nhiệm do vi phạm hợp đồng thì cơ sở của nó chính là có hành vi vi phạm hợp đồng, lỗi, mỗi quan hệ nhân quả giữa các hành vi vi phạm hợp đồng và hậu quả xảy ra

<i>Vi phạm nghĩa vụ hợp đồng </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Trách nhiệm hợp đồng chỉ có thể đặt ra khi có hành vi vi phạm hợp đồng, như không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, thực hiện không đúng hoặc chậm trễ trong việc thực hiện nghĩa vụ… Tuy nhiên không phải người vi phạm nghĩa vụ luôn phải chịu trách nhiệm cho việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng mà hành vi đó phải trái pháp luật hay thỏa thuận của các bên và không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm do bất khả kháng, do lỗi hồn tồn của người có quyền… Hợp đồng trên nguyên tắc cơ bản khi mà được tại ra một cách hợp pháp thì nó được coi là có hiệu lực như luật đối với các bên giao kết. Những ràng buộc các nghĩa vụ trong hợp đồng được pháp luật bảo vệ, người có nghĩa vụ phải thi hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ đã cam kết. Những xử sự không phù hợp với thỏa thuận của các bên, trái với pháp luật, tập quán sẽ là bất hợp pháp và là cơ sở của trách nhiệm hợp đồng. Bộ luật dân sự 2015 và Luật thương mại 2005 điều quy định vi phạm hợp đồng là không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hợp đồng. Điều 351 Bộ luật dân sự 2015 và khoản 12 điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”. Như vậy theo pháp luật Việt Nam, khi một bên không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ bị coi là vi phạm và là cơ sở của trách nhiệm hợp đồng.

<i>(2) Có thiệt hại </i>

Có thiệt hại vật chất đối với bên bị vi phạm mà thiệt hại có thể là những tổn thất về tài sản, giảm sút uy tín, những chi phí hợp lý mà bên bị vi phạm phải bỏ ra để ngăn chặn thiệt hại, khoản lợi nhuận bị mất. Đối với biện pháp bồi thường thiệt hại thì mục đích là nhằm đặt nguyên đơn vào vị trí mà họ có thể được hưởng nếu khi khơng có sự vi phạm hợp đồng hoặc ít ra cũng là khơi phục lại tình trạng ban đầu nếu mà ngun đơn không giao kết hợp đồng do tin vào lời hứa của bị đơn. Luật thương mại 2005 không nhắc tới những thiệt hại về tinh thần do vi phạm hợp đồng gây ra có được bồi thường. Trong một vụ việc thực tế mà trọng tài đã giải quyết, tổn thất về uy tín cũng được bồi thường. Trong vụ tranh chấp hợp đồng mua bán giày nữ, trọng tài cho rằng: “Uy tín thương mại của một thương nhân sẽ bị ảnh hưởng khi họ không thể thỏa mãn được phần

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

lớn các đơn hàng đã ký với khách hàng và xem xét những suy giảm về lợi nhuận và những số liệu kinh doanh với các khách hàng đã có đơn hàng với nguyên đơn trong thời gian bị vi phạm so với trước đó”

<i>(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại </i>

Không phải tất cả vi phạm nào cũng đều là cơ sở của trách nhiệm hợp đồng và không phải bất kỳ thiệt hại nào xảy ra trong quan hệ nghĩa vụ cũng đều do bên vi phạm gánh chịu.

Quan hệ nhân quả là mối quan hệ tất yếu tự nhiên của một số sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội, trong đó có những sự vật hiện tượng này là nguyên nhân và những sự vật hiện tượng kia là kết quả. Trong khoa học luật, quan hệ nhân quả là quan hệ giữa hành vi vi phạm nghĩa vụ và hậu quả xảy ra, trong đó hành vi vi phạm nghĩa vụ là nguyên nhân còn thiệt hại là kết quả tất yếu. Hành vi phải xuất hiện trước khi thiệt hại xảy ra, quan hệ giữa hành vi và hậu quả xảy ra đặt trong mối quan hệ nội tại tất yếu của sự vật hiện tượng. Bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ chỉ phải bồi thường những thiệt hại có nguyên nhân trực tiếp từ hành vi vi phạm. Tuy nhiên một mối quan hệ không thể đi quá xa vời một các không hợp lý để bắt người vi phạm phải bồi thường hay nói cách khác những hành vi vi phạm nghĩa vụ và hậu quả (thiệt hại) chỉ có thể dự đốn được trước bởi một người bình thường, minh mẫn, cẩn trọng thì người bị vi phạm mới phải bồi thường. Trong nhiều trường hợp thiệt hại xảy ra bắt nguồn từ nhiều hành vi khác nhau bởi vậy, để có thể xác định chính xác trách nhiệm của bên có nghĩa vụ thì nhất thiết phải xem xét một cách thận trọng những gì là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả của thiệt hại xảy ra.

<i>(4) Có lỗi </i>

Điều 364 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định lỗi trong trách nhiệm dân sự như sau:

<i>“Điều 364. Lỗi trong trách nhiệm dân sự </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i>Lỗi trong trách nhiệm dân sự bao gồm lỗi cố ý, lỗi vô ý. </i>

<i>Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. </i>

<i>Lỗi vô ý là trường hợp một người khơng thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. </i>

Mặc dù pháp luật không định nghĩa về lỗi nhưng trong khoa học pháp lý lỗi được hiểu là thái độ tâm lý chủ quan của người vi phạm nghĩa vụ dân sự, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Theo luật La Mã, lỗi là sự không tuân thủ hành vi mà pháp luật yêu cầu. Pháp luật Việt Nam là sự kế thừa pháp luật La Mã, coi lỗi trong dân sự là lỗi suy đoán tức là người vi phạm có nghĩa vụ chứng minh khơng có lỗi, cịn người có quyền thì chứng minh người có nghĩa vụ khơng thực hiện, hãy thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ.

Lỗi là hành vi của chủ thể gây thiệt hại cho người khác, dựa theo ý chí của chủ thể phạm lỗi pháp luật phân lỗi thành 02 loại là lỗi vô ý và lỗi cố ý.

<i> -Lỗi cố ý: Cố ý được hiểu là ý chí chủ quan của một người, bằng hành vi của </i>

mình mong muốn sự việc xảy ra. Căn cứ quy định trên, lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ ràng hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

<i> -Lỗi vô ý: Vô ý được hiểu là ý chí của một người khơng biết trước được, cũng </i>

khơng mong muốn hành vi của mình sẽ gây thiệt hại. Theo quy định trên, lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của minh có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có thể gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Bất kỳ cũng biết nếu bị hành vì đó tác động thì thiệt hại sẽ xảy ra, nhưng bên vi phạm lại không thấy trước điều đó mặc dù phải thấy. Vì vậy, bên vi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình tùy theo mức độ vi phạm mà pháp luật quy định.

Trong trách nhiệm hợp đồng nói chung thì yếu tố lỗi được suy đoán. Những cam kết, nghĩa vụ đặt ra trong hợp đồng là cái mà pháp luật buộc các bên phải thực hiện đúng do vậy khơng thực hiện đương nhiên bị coi là có lỗi, khơng cần biết là hình thức lỗi gì, trừ trường hợp chứng minh rằng không thể thực hiện được do bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên có quyền

Luật thương mại 2005 khơng có lỗi là cơ sở duy nhất phát sinh trách nhiệm hợp đồng tại Điều 294 và Điều 303. Một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình đã cam kết trong hợp đồng và khơng thuộc trường hợp miễn trách nhiệm thì đương nhiên phải chịu trách nhiệm hợp đồng. Đây là trường hợp trách nhiệm khách quan, dựa trên lỗi mặc nhiên.

<i><b>b. Nguyên tắc áp dụng chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại </b></i>

<i>Chế tài do các bên lựa chọn và áp dụng </i>

<i> Xuất phát từ nguyên tắc tự do khế ước, các bên có quyền thỏa thuận về mọi thứ </i>

mà không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội nên các bên trong quan hệ hợp đồng có quyền thỏa thuận về mọi biện pháp trách nhiệm, chế tài áp dụng khi mà hợp đồng bị vi phạm. Những thỏa thuận hợp pháp của các bên có hiệu lực, được pháp luật bảo vệ, và người thứ ba cũng như các cơ quan tài phán tòa án, trọng tài tôn trọng. Trên nguyên tắc tự định đoạt của đương sự tòa án hay trọng tài chỉ xem xét, giải quyết khi có bên yêu cầu cho nên tịa án, trọng tài khơng thể tự mình áp dụng chế tài đối với bên vi phạm hợp đồng khi mà các bên khơng có u cầu. Tịa án hay trọng tài chỉ có thể xem về tính hợp pháp của biện pháp chế tài được yêu cầu áp dụng, phạm vi thiệt hại phải bồi thường hay số tiền phạt vi phạm hợp lý… Bên bị vi phạm áp dụng biện pháp chế tài nào là do tự họ

<i>quyết định để bảo vệ lấy quyền lợi của mình </i>

</div>

×