Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

1 bài thu hoạch quyền của nhóm dễ bị tổn thương theo pháp luật việt nam thực tiễn và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.43 KB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<i><b>Chủ đề: Quyền của nhóm dễ bị tổn thương theo pháp luật Việt Nam: Thực tiễn</b></i>

<b>và những vấn đề đặt ra trong bối cảnh hiện nay.BÀI LÀM</b>

<b>PHẦN MỞ ĐẦU</b>

Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề quyền con người đã trở thành vấn đề phổ quát toàn cầu mà bất kỳ quốc gia, dân tộc nào đều phải tơn trọng và thực hiện. Đó là những giá trị cao quý nhất, kết tinh của văn hóa quyền - thành quả của quá trình đấu tranh của nhân loại qua hàng nghìn năm lịch sử. Điều này có tầm quan trọng không chỉ trong xây dựng các chuẩn mực pháp lý về nhân quyền, mà còn là chỗ dựa cho cuộc đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm nhân quyền, đặc biệt là đối với nhóm người dễ bị tổn thương như trẻ em, người khuyết tật, phụ nữ, người dân tộc thiểu số...

Kể từ khi Liên Hợp Quốc thành lập (1945), nhiều văn kiện quốc tế về nhân quyền đã được tổ chức này thông qua, trong đó có một số lượng ngày càng nhiều văn kiện đề cập đến quyền của các nhóm dễ bị tổn thương. Hiện đã có hàng trăm văn kiện pháp luật quốc tế đề cập đến quyền con người của các nhóm xã hội như phụ nữ, trẻ em, người sống chung với HIV, người lao động di trú, người khuyết tật,...Tuy nhiên, việc đề cập đến nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội trong pháp luật Việt Nam hiện chưa được quan tâm đúng mức. Các nhóm này đang phải đối mặt với nhiều thách thức và rào cản đối với xã hội, liên quan đến tự chủ, lợi ích, trách nhiệm, tự tơn, hỗ trợ cộng đồng, y tế, giáo dục, thông tin, việc làm, vốn và các hệ thống hỗ trợ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay nhóm dễ bị tổn thương đang phải chịu ảnh hưởng nghiêm trọng về mọi mặt trong đời sống, do đại dịch Covid - 19 đang hoành hành, gây tổn thất nặng nề đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

<b>Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề, bản thân xin được trình bày chủ đề: Quyềncủa nhóm dễ bị tổn thương theo pháp luật Việt Nam: Thực tiễn và những vấnđề đặt ra trong bối cảnh hiện nay, để làm bài thu hoạch kết thúc môn Lý luận và</b>

pháp luật về quyền con người. Qua nghiên cứu vấn đề, bản thân cũng nêu lên một số

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

giải pháp, kiến nghị để góp phần thúc đẩy sự bình đẳng giới trong xã hội hiện nay, đặc biệt là đối với quyền của nhóm dễ bị tổn thương.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>PHẦN NỘI DUNG</b>

<b>1. Cơ sở lý luận quyền của các nhóm dễ bị tổn thương theo Pháp luậtViệt Nam</b>

<i><b>1.1. Khái niệm quyền con người</b></i>

Quyền con người là các đặc quyền tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được cộng đồng quốc tế và quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế.

<i><b>1.2. Khái quát hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền con người</b></i>

Hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay là tổng thể các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc, định hướng và mục đích của pháp luật có mối liên hệ mật thiết và thống nhất với nhau, được phân thành các ngành luật và được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những hình thức, trình tự, thủ tục luật định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam.

Hệ thống pháp luật Việt Nam quy định và bảo vệ quyền con người gồm:

<i>Hiến pháp: Là đạo luật cơ bản, quan trọng nhất của đất nước. Xác định thể</i>

chế chính trị, cách thức tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, quy định địa vị pháp lý của cá nhân, công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Đặc biệt Hiến pháp là công cụ quan trọng nhất để bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Do vậy chế định quyền con người, quyền công dân luôn là một nội dung quan trọng cấu thành Hiến pháp.

Bên cạnh việc qui định và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp, quyền con người còn được quy định và bảo vệ trong các ngành luật khác như: Luật hành chính và tố tụng hành chính; Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự; Luật dân sự và Luật tố tụng dân sự; Bộ Luật lao động năm 2019...

<i><b>1.3. Nội dung các quyền của nhóm người dễ bị tổn thương theo pháp luậtViệt Nam</b></i>

Nhóm dễ bị tổn thương là khái niệm chung chỉ những nhóm, cộng đồng có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn những người bình thường khác, khiến

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

họ có nguy cơ bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người cao hơn, do đó, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Theo Phát luật Việt Nam về quyền con người, nhóm người dễ bị tổn thương gồm có: Người khuyết tật, trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi và các nhóm dễ bị tổn thương khác.

<i>1.3.1. Quyền của phụ nữ</i>

Hiến pháp 2013 xác định: Cơng dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển tồn diện, phát huy vai trị của mình trong xã hội. Tất cả những hành vi phân biệt đối xử về giới bị nghiêm cấm.

Luật Bình đẳng giới được ban hành năm 2006 với mục tiêu là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam, nữ, hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển.

Điều 17, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.

<i>1..3.2. Quyền của trẻ em</i>

Khoản 1, Điều 37, HP 2013 khẳng định rõ: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.

<i>1.3.3. Quyền của người khuyết tật</i>

Khoản 1, Điều 4, Luật Người khuyết tật quy định quyền của người khuyết tật: Tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; Sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; Được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; Được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

lý, tiếp cận cơng trình cơng cộng, phương tiện giao thơng, cơng nghệ thơng tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật; Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

<i>1.3.4. Quyền của người cao tuổi</i>

Được bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc sức khoẻ; Quyết định sống chung với con, cháu hoặc sống riêng theo ý muốn; Được ưu tiên khi sử dụng các dịch vụ theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Được tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hoá, giáo dục, thể dục, thể thao, giải trí, du lịch và nghỉ ngơi; Được tạo điều kiện làm việc phù hợp với sức khoẻ, nghề nghiệp và các điều kiện khác để phát huy vai trị người cao tuổi; Được miễn các khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội, trừ trường hợp tự nguyện đóng góp; Được ưu tiên nhận tiền, hiện vật cứu trợ, chăm sóc sức khỏe và chỗ ở nhằm khắc phục khó khăn ban đầu khi gặp khó khăn do hậu quả thiên tai hoặc rủi ro bất khả kháng khác; Được tham gia Hội người cao tuổi Việt Nam theo quy định của Điều lệ Hội.

<i>1.3.5. Quyền của các nhóm dễ bị tổn thương khác</i>

Ngồi những đối tượng trên, một số nhóm đối tượng khác cũng thuộc nhóm những người dễ bị tổn thương như: Người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có cơng, người bị nhiễm chất độc hóa học, người nhiễm HIV/AIDS.

<b>2. Thực tiễn về quyền nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh hiện nay</b>

<i><b>2.1. Những kết quả đạt được</b></i>

Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã rất nỗ lực trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trong phạm vi quốc gia cũng như đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh vì nhân quyền của nhân loại. Thể hiện ở việc Nhà nước ta đã hình thành một hệ thống các văn bản pháp luật tương đối đầy đủ và khá tương thích với luật pháp quốc tế về nhân quyền. Ngay sau khi tham gia Công ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc, Việt Nam đã ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục Trẻ em năm 1991 (được sửa đổi năm 2004 và sau đó được thay thế bằng Luật Trẻ em năm 2016).

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Quyền của nhóm dễ bị tổn thương là điều khoản hiến định trong Hiến pháp. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, Nhà nước ta từng bước ghi nhận ngày càng đầy đủ hơn bằng các thể chế về các quyền dân sự, chính trị, văn hố, xã hội của nhóm người dễ bị tổn thương, tăng cường tiếp cận dựa trên quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xây dựng pháp luật.

Quốc hội đã ban hành mới, sửa đổi nhiều Bộ luật, luật quy định về quyền của phụ nữ. Có thể nói, hệ thống pháp luật hiện hành về quyền của phụ nữ ở Việt Nam tương đối đầy đủ và toàn diện. Phụ nữ Việt Nam tham gia chính trị có tỷ lệ khá cao trên thế giới, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội luôn được duy trì ở mức cao và có xu hướng ngày càng tăng lên.

Việc xây dựng và thực thi pháp luật về trẻ em luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, bảo đảm, nâng cao cơ hội tham gia của trẻ vào các hoạt động liên quan đến quyền và lợi ích của trẻ em. Đặc biệt, Luật Trẻ em đã cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản của Công ước quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên, trong đó nhấn mạnh ngun tắc khơng phân biệt đối xử và vì lợi ích tốt nhất của trẻ; trao cho trẻ em nhiều quyền hơn, đồng thời, đã và đang xây dựng được hệ thống các cơ quan bảo vệ quyền trẻ em bao gồm: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Bảo vệ quyền trẻ em, Hội Cứu trợ trẻ em khuyết tật, Hội Bảo trợ người khuyết tật và trẻ mồ côi Việt Nam.

Người khuyết tật là nhóm đối tượng yếu thế nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước 159 của ILO về Tái thích ứng Nghề nghiệp và việc làm cho người khuyết tật. Công ước đưa ra các yêu cầu về phục hồi khả năng lao động và việc làm cho người khuyết tật, quy định về việc điều chỉnh và đánh giá các tài liệu hướng dẫn nghề nghiệp, dạy nghề, bố trí việc làm và dịch vụ thất nghiệp cho người khuyết tật. Việc tự do đi lại đối với người khuyết tật đòi hỏi phải có những đặc thù. Pháp luật quy định: Đến ngày 01/01/2020, các cơng trình cơng cộng: Trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước; nhà ga, bến xe, bến tàu; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở giáo dục, dạy nghề; cơng trình văn hóa, thể dục, thể thao phải bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật. Đến ngày

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

01/01/2025, tất cả nhà chung cư, trụ sở làm việc, cơng trình hạ tầng kỹ thuật cơng cộng, cơng trình hạ tầng xã hội phải bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật, có nghĩa là phải có lối đi sao cho người khuyết tật có thể đi lại được.

Văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số được quan tâm giữ gìn và phát triển. Tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số đang được chú ý bảo tồn và ngày càng được sử dụng phổ biến hơn.

Nhiều hoạt động hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng dịch bệnh covid-19, đặc biệt là nhóm dễ bị tổn thương ln được quan tâm. Các chính sách hỗ trợ, giảm thiểu tác hại của đại dịch COVID-19 của Chính phủ cập nhật tới tháng 5/2021. Kết quả cho thấy các chính sách được ban hành trong thời gian qua khá kịp thời, đa dạng và bao phủ được nhiều nhóm kể cả các nhóm dễ bị tổn thương.

<i><b>2.2. Những hạn chế và nguyên nhân</b></i>

<i>2.2.1. Những hạn chế</i>

Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc bảo vệ quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội, thời gian qua vẫn còn có một số hạn chế nhất định sau đây:

Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục và bị ngược đãi trong thời gian qua trở nên phổ biến và nghiêm trọng. Việc giao chức năng quản lý nhà nước về gia đình và trẻ em cho hai Bộ khác nhau quản lý không kèm theo các giải pháp hữu hiệu và khả thi nên các hoạt động trong hai lĩnh vực gia đình và trẻ em khơng được tiến hành đồng bộ, nên chưa phát huy được hiệu quả theo mong muốn.

Định nghĩa về trẻ em theo quy định của Luật vẫn có sự giới hạn cơng dân Việt Nam và tuổi dưới 16. Trong khi Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em quy định trẻ em là người dưới 18 tuổi.

Tình trạng phụ nữ bị bạo lực gia đình, bị phân biệt đối xử giữa nam và nữ giới trong nhiều lĩnh vực đời sống vẫn cịn tồn tại và có thiên hướng phức tạp hơn. Thực tế cho thấy người phụ nữ đã và đang chịu nhiều trở ngại, áp lực hơn so với nam giới. Tỷ lệ nữ giới làm công tác quản lý, lãnh đạo tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

thấp so với các vị trí quản lý, lãnh đạo nói chung, so với sự gia tăng của lực lượng lao động nữ nói riêng.

Việc tiếp cận một số quyền cơ bản của người thiểu số cịn gặp nhiều khó khăn. Tình trạng đăng ký khai sinh cho trẻ em dân tộc thiểu số vẫn còn chậm so với quy định, nhiều trẻ khi đi học mới làm thủ tục khai sinh. Hệ thống tư pháp thân thiện với trẻ em bước đầu được xây dựng nhưng chưa được thực hành rộng rãi.

Tình trạng kì thị, phân biệt đối xử đối với người khuyết tật vẫn cịn tồn tại, q trình hịa nhập cộng đồng của người khuyết tật cịn nhiều khó khăn. Dù đã có nhiều tiến bộ nhưng do những nguyên nhân khác nhau mà tình trạng người khuyết tật khơng có việc làm vẫn cịn phổ biến. Đáng chú ý, tình trạng phân biệt đối xử với lao động là người khuyết tật vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi.

Người bị nhiễm HIV/AIDS vẫn phải chịu sự kì thị và phân biệt đối xử, bị ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền nhân thân của họ trong quá trình sinh hoạt, lao động và hòa nhập cộng đồng.

Ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19 tác động tiêu cực đến nhóm dễ bị tổn thương: tập trung điều trị cho các trường hợp nhiễm COVID-19 và đóng cửa các dịch vụ y tế thiết yếu khác đang có một số tác động tiêu cực tới phụ nữ và trẻ em. Trong thời gian giãn cách, số phụ nữ mang thai tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, số trẻ em được tiêm chủng đều giảm. Trong hồn cảnh mất việc làm, khơng có thu nhập và nuôi con nhỏ, nhiều người đã phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của gia đình, người quen để bảo đảm các chi tiêu cơ bản trong gia đình như tiền thuê nhà, tiền ăn, tiền điện nước. Một vấn đề nổi lên trong đại dịch là nhóm trẻ em khơng có được cơ hội học tập bình đẳng và bảo đảm việc học tập có thể làm tăng gánh nặng tài chính cho các gia đình khó khăn.

<i>2.2.2. Nguyên nhân</i>

Nhận thức một bộ phận trong nhân dân và cán bộ công chức, viên chức nhà nước về quyền của nhóm dễ bị tổn thương chưa cao, còn sự phân biệt đối xử, kỳ thị với phụ nữ, người khuyết tật, người nhiễm HIV/AIDS...

Do dịch bệnh covid-19, nên các quyền của nhóm dễ bị tổn thương bị ảnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hưởng đến nhiều mặt trong đời sống xã hội như: việc làm, học tập, các dịch vụ y tế...

Việc nhận thức, hiểu biết các quy định của Pháp luật về các Luật của nhân dân còn hạn chế như: Luật trẻ em 2016, Luật bình đẳng giời, Luật Hơn nhân và gia đình...dẫn đến những vụ việc xâm hại tình dục trẻ em, bạo hành trẻ em, phụ nữ diễn ra trong một thời gian kéo dài, mà người thân không tố giác, dẫn đến các vụ việc ngày càng nghiêm trọng.

<b>3. Giải pháp, kiến nghị nâng cao quyền của nhóm dễ bị tổn thương trongbối cảnh hiện nay</b>

Đổi mới quy trình xây dựng luật, pháp lệnh, tích cực thúc đẩy sự tham gia của các nhóm yếu thế vào quá trình xây dựng luật, pháp lệnh. Cần thường xuyên đánh giá kết quả, tác động của việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với cuộc sống của người dân để chỉ ra được những điểm tích cực, hạn chế, từ đó đề xuất những hướng sửa đổi trong chính sách và pháp luật.

Cần tiếp tục thúc đẩy và xây dựng một nền văn hố pháp luật tơn trọng quyền con người cả từ phía các chủ thể Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, đặc biệt là các nhóm xã hội dễ bị tổn thương để các chủ thể này nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ của mình, nhất là đối với các cán bộ Đảng viên, cán bộ công chức, viên chức nhà nước. Ban hành các đạo luật tổng hợp về chống phân biệt đối xử trên mọi lĩnh vực.

Nhà nước cần có chính sách cụ thể nhằm phát huy tối đa vai trị của nhóm dễ bị tổn thương, đồng thời, nâng cao ý thức của cá nhân họ đối với công việc chung. Theo đó, đối với phụ nữ, cần tiếp tục mở rộng quyền của phụ nữ theo hướng phù hợp với pháp luật quốc tế. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ để người phụ nữ hiểu và nắm được quyền của mình, đặc biệt là phụ nữ có hồn cảnh khó khăn. Cần lựa chọn những chương trình ưu tiên, loại bỏ sự phân biệt về giới, quan niệm “trọng nam khinh nữ” khi đánh giá về vai trò, năng lực của phụ nữ. Tiếp tục triển khai các chính sách, chương trình thúc đẩy bình đẳng giới, trong đó có Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới 2021 - 2030; tăng cường vai trò của phụ nữ trong các lĩnh vực

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

chính trị, kinh tế, xã hội; thúc đẩy xóa bỏ mọi hình thức bạo lực, phịng chống xâm hại với phụ nữ với trẻ em gái; hạn chế tình trạng mất cân bằng giới tính và lựa chọn giới tính thai nhi.

Đối với trẻ em, Quốc hội sớm tiến hành xem xét, sửa đổi Điều 1 của Luật Trẻ em năm 2016 để điều chỉnh độ tuổi pháp lý của trẻ em Việt Nam lên mức tương thích với quy định tại Điều 1 của CRC; Rà soát sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan để tương thích với độ tuổi pháp lý mới nâng lên của trẻ em, cụ thể như các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện Luật Trẻ em; Tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ và cộng tác viên làm cơng tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong giai đoạn hiện nay. Chống lao động trẻ em, tảo hơn và kết hơn cưỡng bức, phịng chống tai nạn và chấn thương ở trẻ em, bạo lực học đường; xem xét thiết lập cơ chế độc lập để giám sát quyền trẻ em.

Đối với người khuyết tật, Nhà nước cần có các quy định rõ về các chế tài xử phạt, đặc biệt là các hành vi ngược đãi, phân biệt đối xử với người khuyết tật, vấn đề kì thị xã hội đối với người khuyết tật, hoặc không thực hiện những vấn đề được quy định trong luật liên quan đến nhu cầu và quyền của người khuyết tật về vấn đề giải quyết việc làm. Tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp cận các nguồn vốn vay hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức tự lực, cơ sở sản xuất kinh doanh của người khuyết tật.

Thúc đẩy và nhân rộng các mơ hình hỗ trợ và khuyến khích sự tham gia của người cao tuổi trong cộng đồng; tăng số người làm công tác xã hội và nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ người cao tuổi.

Dự báo và có phương án phịng, chống có hiệu quả tội phạm bn bán người; triển khai các giải pháp hỗ trợ tái hòa nhập cho nạn nhân bị mua bán. Nghiên cứu, đề xuất Chính phủ trình Quốc hội xem xét việc gia nhập công ước về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di cư và các thành viên gia đình họ năm 1990. Khơng phân biệt kỳ thị đối xử với người nhiễm HIV/AIDS...

Quan tâm nhiều hơn, toàn diện đối với các nhóm dễ bị tổn thương trong bối cảnh dịch bệnh covid-19 hiện nay. Cần có nhiều chính sách hỗ trợ đối với từng nhóm dễ bị tổn thương cụ thể.

</div>

×