Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu Luận - Kinh Tế Vĩ Mô - Đề Tài - Áp Dụng Mô Hình Tăng Trưởng Solow Vào Phát Triển Nông Nghiệp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.16 KB, 23 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC NGỌAI THƯƠNGKhoa Kinh Tế Quốc Tế</b>

<b>TIỂU LUẬN</b>

<b>Áp dụng mơ hình tăng trưởng Solow vào phát triển Nông nghiệp Việt Nam</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

MỤC LỤ

LỜI MỞ ĐẦU...3

I) Giới thiệu mơ hình tăng trưởng Solow...4

1.1 Ý nghĩa của mơ hình tăng trưởng Solow...4

1.2. Ưu điểm và hạn chế của mơ hình Solow...5

1.2.1Ưu điểm...5

1.2.2 Hạn chế...5

II. Thực trạng phát triển nông nghiệp tại Việt Nam...6

2.1 Điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp tại Việt Nam...6

2.1.1 Điều kiện tự nhiên...6

2.1.2 Điều kiện xã hội...6

2.1.2.1 Dân cư và lao động………..6

2.1.2.2 Quan hệ sở hữu và chính sách nông nghiệp……….7

2.1.2.3 Yếu tố thúc đẩy nông nghiệp………7

2.2 Thực trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam (2008-2012)...7

2.2.1 Sản xuất nông nghiệp...7

2.2.2 Lâm nghiệp………9

2.2.3 Đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản...9

2.3 Sự bất hợp lý trong phát triển nông nghiệp ở Việt Nam...10

2.3.1 Xuất khẩu sản phẩm thô, chất lượng kém, giá rẻ...10

2.3.2 Đầu tư chưa tương xứng...12

1

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

III) Ứng dụng mơ hình Solow vào phát triển nông nghiệp Việt Nam và quan điểm của

3.2 Quan điểm của nhóm thuyết trình………...16

3.2.1 Xuất khẩu thành phẩm thay vi xuất khẩu ngun liệu thơ………...16

3.2.2 Cần có sự đầu tư về thương hiệu ………....17

3.2.3 Nâng cao chất lương sản phẩm………...18

KẾT LUẬN...………….20

TÀI LIỆU THAM KHẢO...21

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

Năm 2008, kinh tế thế giới rơi vào tình trạng suy thoái, nhiều nước phải chịu mức tăng trưởng âm, số nước có chỉ số tăng trưởng dương cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nền kinh tế Việt Nam cũng khơng tránh khỏi việc rơi vào khó khăn, tăng trưởng GDP từ 8- 9%/năm giảm xuống 5- 6%/năm, các ngành công nghiệp xuất khẩu giảm mạnh. Tuy nhiên, trước tác động của cuộc khủng hoảng, trong khi ngành công nghiệp có độ sụt giảm sâu về tốc độ tăng trường thì ngành nơng nghiệp tiếp tục duy trì được nhịp độ tăng trưởng ổn định, thặng dư xuất khẩu cao. Cụ thể, năm 2011, nông nghiệp xuất siêu trên 8 tỷ USD, năm 2012 con số này lên đến 10,6 tỷ USD. Thậm chí ở nhiều thời điểm nó còn thể hiện rõ vai trò trở thành bệ đỡ cho nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế Việt Nam giữ được đà tăng trưởng và có được sự thăng bằng trong cán cân thương mại.

Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều bất cập trong sự phát triển nông nghiệp nơng nghiệp nước nhà. Vì vậy, nhóm chúng em đã chọn đề tài “Áp dụng mơ hình So-low vào phát triên nông nghiệp Việt Nam” nhằm điểm lại những kết quả tích cực mà nơng nghiệp đã mang lại cho nền kinh tế Việt Nam trong thời kì khủng hoảng và nêu lên một số điểm bất hợp lý trong tiến trình phát triển nơng nghiệp nước ta. Đề tài cũng đưa ra một số giải pháp phù hợp giúp giải quyết những vấn đề bất cập nhằm hướng tới mục đích giúp cho nền nơng nghiệp được phát triển bền vững và đạt mức tăng trưởng cao hơn; đồng thời, cũng đưa ra những quan điểm dưới góc nhìn của sinh viên dành cho vấn đề này.

Đề tài của chúng em gồm ba phần với kết cấu như sau:

<b>I.Giới thiệu về mơ hình tăng trưởng Solow</b>

<b>II.Thực trạng phát triển nơng nghiệp tại Việt Nam</b>

<b>III.Ứng dụng mơ hình tăng trưởng Solow vào phát triển nông nghiệp ViệtNam và quan điểm của nhóm thuyết trình.</b>

3

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>I.Giới thiệu về mơ hình tăng trưởng Solow</b>

<b>Mơ hình tăng trưởng Solow là một mơ hình thuyết minh về cơ chế tăng trưởng</b>

kinh tế do Robert Solow và Trevor Swan xây dựng rồi được các học giả kinh tế khác bổ sung. Cống hiến to lớn này đã đem lại giải Nobel về kinh tế năm 1987 cho Solow.

<b>Mơ hình này cịn gọi là Mơ hình tăng trưởng tân cổ điển vì một số giả thiết</b>

của mơ hình dựa theo lý luận của kinh tế học tân cổ điển. Mô hình này cịn có cách gọi

<b>khác, đó là Mơ hình tăng trưởng ngoại sinh, bởi vì khơng liên quan đến các nhân tố</b>

bên trong, rốt cục tăng trưởng của một nền kinh tế sẽ hội tụ về một tốc độ nhất định ở trạng thái bền vững. Chỉ các yếu tố bên ngồi, đó là cơng nghệ và tốc độ tăng trưởng lao động mới thay đổi được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở trạng thái bền vững.

<b>1.1 Ý nghĩa của mơ hình tăng trưởng Solow</b>

 Các nước nghèo có tiềm năng tăng trưởng nhanh. Bởi quy luật hiệu suất giảm dần theo quy mô, các nước nghèo có quy mơ nhỏ hơn vì vốn nhỏ hơn sẽ có tốc độ tăng trưởng cao hơn.

 Khi thu nhập quốc gia tăng lên, tăng trưởng có xu hướng chậm lại.

 Nếu có chung những tính chất quan trọng, các nước nghèo có tiềm năng đuổi kịp các nước giàu.

 Tăng tỷ lệ tiết kiệm không dẫn đến tăng trưởng bền vững dài hạn. Một nước có tỉ lệ cao hơn sẽ đầu tư nhiều hơn duy trì được khối lượng tư bản lớn và tạo ra sản lượng lớn hơn nhưng chỉ trong ngắn hạn.

 Tiếp thu công nghệ mới là yếu tố quyết định để duy trì tăng trưởng bền vững.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b> 1.2 Ưu điểm và hạn chế của mơ hình Solow </b>

<i>1.2.1 Ưu điểm</i>

 Linh hoạt hơn về tỉ lệ của các biến yếu tố sản xuất

 Hiệu suất biên giảm dần của vốn có ý nghĩa thực tế và chính xác hơn  Tập trung vào quá trình di chuyển về trạng thái dừng.

<i> 1.2.2 Hạn chế</i>

 Không phân tích được các ảnh hưởng khác có tác động đến trạng thái dừng (ổn định kinh tế và chính trị, giáo dục và y tế tốt, chính phủ hiệu quả, mở cửa thương mại, vị trí địa lý thuận lợi…)

 Chỉ có một ngành sản xuất

 Giả định rằng tiết kiệm, tăng trưởng lao động, tiến bộ cơng nghệ là yếu tố có sẵn

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>II.Thực trạng phát triển nông nghiệp tại Việt Nam</b>

<b>2.1 Điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp tại Việt Nam</b>

<i>2.1.1 Điều kiện tự nhiên</i>

Nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, đây là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới. Bên cạnh đó, nước ta lại có vị trí ở nơi gặp gỡ nhiều luồng di cư động thực vật vì vậy tài nguyên sinh vật đa dạng, làm phong phú sản phẩm nông nghiệp. Đồng thời việc giáp danh với vùng biển rộng lớn đã cung cấp độ ẩm lớn cho cây cối phát triển quanh năm, có đường biên giới với nhiều nước khiến Việt Nam có điều kiện thuận lợi xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp ra thị trường quốc tế, thu ngoại tệ.

Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, tổng lượng bức xạ lớn làm cho cây trồng sinh trưởng, phát triển quanh năm và năng suất cao. Khí hậu nóng ẩm nên cây ngắn ngày có thể tăng thêm từ 1-2 vụ/ năm; cây dài ngày có thể khai thác được nhiều đợt, nhiều lứa. Riêng miền Bắc có mùa đơng lạnh là tiền đề phát triển cây vụ đông.

<i>2.1.2 Điều kiện xã hội</i>

2.1.2.1 Dân cư và lao động

Việt Nam là một quốc gia đơng dân và `có lịch sử phát triển nông nghiệp lâu đời. Điều này đã cung cấp một nguồn lao động dồi dào, lực lượng lao động bổ sung lớn. Người lao động cần cù, siêng năng và có kinh nghiệm trong việc trồng cây lương thực thực phẩm. Đồng thời, đại bộ phận lao động nước ta sống tập trung ở vùng nông thôn, là nhân tố hàng đầu thúc đẩy sản xuất cây lương thực thực phẩm theo chiều rộng và chiều sâu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

2.1.2.2 Quan hệ sở hữu và chính sách nơng nghiệp

Nơng dân được quyền sử dụng đất trong canh tác với nhiều hình thức khác nhau và khơng phải đóng thuế, được sở hữu tồn bộ sản phẩm làm ra, là động lực thúc đẩy người dân tham gia sản xuất cây lương thực thực phẩm.

2.1.2.3 Yếu tố thúc đẩy nông nghiệp

Hệ thống ngân hàng đầu tư vốn cho sản xuất nông nghiệp hiện nay ngày càng được đầu tư, phát triển. VD: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Các trung tâm tổ chức các lớp đào tạo tay nghề cho người lao động. Ngồi ra cịn có các trung tâm cung cấp giống, dịch vụ nông nghiệp như: Hợp tác xã nông nghiệp, trạm khuyến nông,… Các cơ sở lai tạo giống cây trồng, bảo vệ thực vật.

<b>2.2 Thực trạng phát triển nông nghiệp Việt Nam ( 2008-2012)</b>

Những năm trở lại đây, khi kinh tế rơi vào khó khăn, suy thối, tăng trưởng GDP từ 8-9%/năm giảm xuống 5-6%/năm thì nơng nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng, thặng dư xuất khẩu cao, tính trên các mặt cụ thể như xuất khẩu, giá cả, lao động việc làm, ngành nông nghiệp trong nhiều năm qua đã có những đóng góp đáng kể cho nền kinh tế.

<i> 2.2.1 Sản xuất nông nghiệp</i>

Năm 2008, giá trị sản lượng tăng 5,62%<small>[1]</small> so với năm 2007. Trong sản xuất nơng nghiệp cũng có bước phát triển khá, sản lượng lương thực cây có hạt đạt 43,16<small>[1]</small>

triệu tấn, tăng 3<small>[1]</small> triệu tấn so với năm 2007. Điển hình, diện tích gieo trồng lúa cả năm đạt 7,4<small>[1]</small> triệu ha, sản lượng đạt 38,6<small>[1]</small> triệu tấn. Có 6 mặt hàng kim ngạch đạt trên 1 tỷ

<small>1 Tổng cục thống kê, 2011</small>

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

USD trở lên là cà phê 2 tỷ USD<small>[1]</small>, cao su 1,6 tỷ USD<small>[1]</small>, gạo 2,87 tỷ USD<small>[1]</small>, đồ gỗ 2,8 tỷ USD<small>[1]</small>, tôm 1,5 tỷ USD<small>[1]</small>, cá tra trên 1 tỷ USD.<small>[1]</small>

<b>Năm 2009, sản xuất nông nghiệp phát triển và tăng trưởng khá, giá trị sản</b>

xuất nông nghiệp năm 2009 ước tăng 3,5%<small>[1]</small> so với năm 2008. Trong trồng trọt, sản lượng lúa cả năm ước đạt 39,3 triệu tấn<small>[1]</small>, tăng hơn nửa triệu tấn so với năm 2008, sản xuất ngơ tiếp tục phát triển tồn diện cả diện tích, năng suất nên sản lượng tăng khoảng 400 nghìn tấn<small>[1]</small> so với năm 2008. Chăn ni phát triển tồn diện cả về gia súc, gia cầm. Giá trị sản xuất chăn nuôi năm 2009 ước tăng 7,5%<small>[1]</small> và cao hơn tốc độ tăng năm 2008 (6%<small>[1]</small>) và các năm trước đó.

Năm 2010, tổng kim ngạch XK toàn ngành đạt kỷ lục 19,15<small>[1]</small> tỷ USD, tăng gần 22,6%<small>[1]</small> và vượt 77,3%<small>[1]</small> so với kế hoạch, tốc độ tăng trưởng bình quân 17%/năm<small>[1]</small> trong giai đoạn 2006-2010. Kim ngạch XK các mặt hàng nơng sản chính đạt 9,95 tỷ USD (tăng 24,2%<small>[1]</small>). Cụ thể, sản lượng lúa ước đạt 39,8 triệu tấn<small>[1]</small>

(tăng 2,4%<small>[1]</small> so với năm 2009), ngô ước đạt trên 4,6 triệu tấn<small>[3]</small> (tăng 4,1%<small>[1]</small>), thịt hơi các loại 4,02 triệu tấn<small>[1]</small> (tăng 6,3%<small>[1]</small>), trứng gần 6 tỷ quả (tăng 10%<small>[1]</small>), muối đạt 1,2 triệu tấn (tăng 50%<small>[1]</small>),...

Năm 2011, nông nghiệp xuất siêu trên 8 tỷ USD<small>[1]</small>, tăng 4,8%<small>[1]</small> Về trồng trọt, sản lượng lúa cả năm 2011 ước tính đạt 42,3 triệu tấn<small>[1]</small>, tăng 2,3 triệu tấn<small>[1]</small> so với năm 2010, là mức tăng lớn nhất trong vòng 10 năm trở lại đây. Nếu tính thêm 4,6 triệu tấn<small>[1]</small>

ngơ thì tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2011 ước tính đạt gần 47 triệu tấn<small>[1]</small>, tăng 2,3 triệu tấn<small>[1]</small> so với năm 2010.

Năm 2012, có bảy trong tổng số 21 mặt hàng nông sản đạt kim ngạch xuất khẩu từ một tỷ USD trở lên, trong đó gạo, thủy sản, cà-phê... là những mặt hàng xuất khẩu chiếm vị trí hàng đầu thế giới. Ngồi ra, chỉ tính mười tháng đầu năm, xuất siêu của

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

toàn ngành đạt mức 8,74 tỷ USD<small>[2]</small>, đóng vai trị quan trọng trong cán cân thương mại, kiềm chế nhập siêu của cả nước.

Hơn nữa, nhiều vùng sản xuất hàng hoá tập trung được hình thành, như các vùng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng; vùng cà phê ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ; vùng chè ở các tỉnh miền núi phía Bắc; vùng cao su Đông Nam Bộ; vùng cây ăn quả ở Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh Miền núi phía Bắc; vùng rau Lâm Đồng, các tỉnh đồng bằng sơng Hồng; các vùng mía ở dun hải miền Trung, Khu IV cũ, Nam Bộ… tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng khoa học - kỹ thuật để thâm canh, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến và tiêu thụ sản phẩm làm ra. Việc hình thành các vùng chuyên canh với các sản phẩm chất lượng cao là cơ sở cho việc gia tăng các hoạt động xuất khẩu.

<i> 2.2.2 Lâm nghiệp</i>

Trong 5 năm (2008 – 2012), lĩnh vực lâm nghiệp cũng đạt được nhiều kết quả lớn. Điển hình như năm 2008, trồng rừng tập trung đạt 228.870 ha<small>[1]</small>, đạt 116%<small>[1]</small> so với kế hoạch. Năm 2009, diện tích trồng rừng tập trung đạt trên 220 nghìn ha<small>[1]</small>, tăng 5%<small>[1]</small>

so với năm 2008, sản lượng gỗ khai thác đạt 3.520 nghìn m<small>3[1]</small>. Năm 2010, xuất khẩu lâm sản và đồ gỗ đạt 3,63 tỷ USD<small>[1]</small>. Năm 2011, giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng 5,7%<small>[1]</small>

so với năm 2010. Năm 2012, vẫn giữ đà tăng trưởng của năm 2011, lâm nghiệp tăng 6,4%<small>[1]</small>.

<i>2.2.3 Nuôi trồng và đánh bắt thủy sản</i>

Cũng giống như sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp, ngành nuôi trồng và đánh bắt thủy sản cũng có mực độ tăng trưởng khá đều qua các năm 2008 – 2012. Năm

<small>21 Tổng cục thống kê, 2011</small>

<small> Bộ Nông nghiệp và phát triển Nơng thơn, 2012</small>

9

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

2008, thuỷ sản có tổng sản lượng ước đạt 4,58 triệu tấn<small>[1]</small> (tăng 9,2%<small>[3]</small> so với năm 2007). Trong đó sản lượng nuôi trồng 2,45 triệu tấn, sản lượng khai thác ước đạt 2,13 triệu tấn. Năm 2009, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản vẫn phát triển và tăng trưởng tốt. Sản lượng thủy sản cả năm đạt trên 4,9 triệu tấn, tăng 4,5% so với năm 2008. Sản xuất thủy sản không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn tăng số lượng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả năm ước đạt 4,3 tỉ USD. Từ năm 2010 – 2012, sản lượng khai thác vẫn tăng đều xấp xỉ 5% hàng năm. (Xem biểu đồ : Tổng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy sản Việt Nam (2008-2012)

<b>Tổng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thủy sản (2008-2012)Nguồn: Bô Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2012</b>

<small>sản lượng nuôi trồng Sản lượng khai thác</small>

<b>2.3 Sự bất hợp lý trong phát triển nông nghiệp ở Việt Nam</b>

<i>2.3.1 Xuất khẩu sản phẩm thô, chất lượng kém, giá rẻ </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Trong bối cảnh nền kinh tế tồn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng đang gặp khủng hoảng, sự vươn lên ngoạn mục để sốn ngơi vương về xuất khẩu nông sản trên thị trường thế giới của Việt Nam thực sự là một tín hiệu đáng vui mừng. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, nền nông nghiệp của Việt Nam hiện nay chỉ tập trung khuyến khích sản xuất theo hướng tăng sản lượng, năng suất. Sản phẩm sản xuất ra thì có đến 80 - 90% vẫn là xuất khẩu thô. Hao hụt sau thu hoạch vẫn ở mức cao, trong khi đầu ra cho sản phẩm còn hết sức bấp bênh. Chuỗi giá trị sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa được thực hiện một cách hiệu quả trong các ngành hàng.Chất lượng thấp thì đi kèm giá rẻ, kim ngạch xuất khẩu thu về ít, mức độ hưởng lợi của doanh nghiệp và nơng dân cũng hạn chế hơn rất nhiều. Có chuyên gia kinh tế đã nhận định rằng nếu cứ tiếp tục xuất khẩu nơng sản theo hướng này thì đồng nghĩa với việc ta đang sản xuất và xuất khẩu bao cấp cho nước ngồi. Ðó là điều đáng tiếc cho nông sản Việt Nam.

Chưa phát triển thị trường trong nước song song với xuất khẩu: như gạo, hiện nay xuất khẩu với giá khoảng 10.000 đồng/kg, nhưng tiêu dùng trong nước chịu giá hơn 14.000 đồng/kg. Điều này làm giảm lợi nhuận, mà lại tăng chỉ số CPI, khiến gia tăng lạm phát. Ví như cà phê, Việt Nam vượt Brazil về xuất khẩu bởi vì họ dành lượng lớn cho tiêu dùng trong nước. Trong khi chúng ta lao đao tìm thị trường xuất khẩu và lo mất giá thì họ bình chân như vại, ngay cả lúc xuất khẩu rớt giá.

Theo dự báo, khả năng tốc độ tăng sản lượng nông sản của Việt Nam đang gặp phải thách thức lớn, khi hầu hết các cây trồng đã phát triển đến ngưỡng cả về diện tích và năng suất. Diện tích canh tác của phần lớn các sản phẩm nơng sản xuất khẩu chính đều đã vượt hoặc đạt ngưỡng quy hoạch đến năm 2020.

Nhiều năm liền nông nghiệp liên tục tăng trưởng giảm. Giai đoạn 1995 - 2005, nông nghiệp tăng trưởng sản lượng 4%<small>[4]</small>, đến 2012 giảm xuống chỉ còn khoảng 2,48%<small>[4]</small>.Với tiến độ như vậy, dự báo đến năm 2020, nông nghiệp đất nước sẽ rơi vào tình trạng tăng trưởng âm.Vì vậy, cần có một chiến lược đầu tư dài hạn, năm sau cao hơn năm trước và phải cân đối giữa các vùng miền. Thực tế, trong giai đoạn 2006

<small>-4 Đặng Kim Sơn, 2008</small>

11

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

2011, mức đầu tư của Nhà nước cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân mới chỉ đáp ứng khoảng 55% đến 60% yêu cầu vốn cho phát triển. Số vốn tín dụng Nhà nước đã đầu tư cho tam nông cũng mới đạt gần 25% tổng số vốn tín dụng đầu tư cho nền kinh tế. Nguồn vốn ít, chính sách để đưa vốn đến với nông nghiệp, nông thôn lại vừa thiếu vừa thừa, khó áp dụng vào thực tế cuộc sống, một lần nữa lại là lực cản cho phát triển nông nghiệp.

Mặt hàng cá tra dù có tên trong danh sách được hưởng vốn vay ưu đãi nhưng do chủ trương triển khai chậm và ràng buộc các điều kiện về thế chấp tài sản, cho nên doanh nghiệp và nông dân không thể tiếp cận được nguồn vốn. Mặt hàng lúa gạo cũng không phải là ngoại lệ. Vụ lúa hè thu năm 2012, khi Chính phủ chưa có chính sách thu mua tạm trữ, nông dân đồng bằng sông Cửu Long phải bấm bụng bán giá thấp để lo nhiều khoản chi tiêu hằng ngày. Khi Chính phủ có chính sách tạm trữ, giá lúa tăng thì gần như nơng dân đã bán hết lúa.Chính sách đến chậm, vơ tình chỉ làm lợi cho các doanh nghiệp mua dự trữ hoặc doanh nghiệp xuất khẩu gạo.

Vì vậy, vấn đề làm thế nào gia tăng giá trị hàng nơng sản chính là để giải quyết bài toán tăng thu nhập cho nông dân và phát triển bền vững nông nghiệp.

<i>2.3.2 Đầu tư chưa tương xứng.</i>

Kinh tế nơng nghiệp ln góp phần vào sự phát triển ổn định, giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm việc làm và thu nhập cho đông đảo lao động nông

<b>thôn. Tuy nhiên, đầu tư cho nông nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng. Là ngành</b>

đóng góp cho GDP khoảng 20%, tạo ra nguồn cung lương thực, thực phẩm giá rẻ để hỗ trợ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, nhưng tỷ lệ đầu tư cho nơng nghiệp của Việt Nam cịn khá thấp. Cách đây 10 năm, tỷ lệ đầu tư tồn xã hội cho nơng nghiệp, nơng thơn khoảng 13,85%<small>[5]</small> nhưng đến năm 2008 tụt xuống chỉ còn 6,45%<small>[5]</small> vào năm 2010 và năm 2011 chỉ còn khoảng hơn 6%<small>[5]</small>.

</div>

×