Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nông nghiệp Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.83 KB, 106 trang )

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thu hút vốn FDI là một cách tạo vốn có hiệu quả đối với các nước đang
phát triển và những nước nghèo trên thế giới(trong đó có nước ta). Để đạt được
mục tiêu tăng trưởng kinh tế do Đảng và Chính phủ đề ra trong giai đoạn 2000
-2010 là 7,2%/năm và đưa GDP bình quân đầu người tương đương mức 2000
-3000USD vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu đó thì cần giải quyết một cách
đồng bộ các vấn đề, trong đó vốn đầu tư là một trong những thách thức lớn và
khó giải quyết nhất. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để đạt được tốc độ tăng
trưởng kinh tế 7 - 8%/năm trong 10 năm tới thì nhu cầu vốn đầu tư trong giai
đoạn 2001 -2005 cần có 53 -55 tỷ USD, giai đoạn 2006 - 2010 cần 75 tỷ USD.
Con số này là một số lượng lớn so với khả năng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế
Việt Nam, do vậy cần phải tính đến khả năng huy động các nguồn vốn đầu tư từ
bên ngoài, đặc biệt là vốn FDI.
Đối với nước ta, tiến trình phát triển kinh tế xã hội theo những yêu cầu mới
từ một xuất pháp điểm thấp thì FDI có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng
trong thời kỳ sự nghịêp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được tầm quan
trọng của FDI, Chính phủ ta liên tục ban hành những chính sách thu hút vốn
FDI. Những chính sách đó đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài rất chú ý. Tuy
nhiên trong thời gian qua, FDI mới chỉ tập trung chủ yếu đối với một số ngành
công nghiệp, dịch vụ, còn đối với nông nghiệp, vốn FDI có tăng trong những
năm gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn FDI vào nền kinh tế,
chưa xứng với tiềm năng phát triển của ngành trong nền kinh tế.Trong khi đó,
GDP do nông nghiệp tạo ra vẫn giữ vị trí hàng đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu là
nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn sống chính dựa vào nông
nghiệp.
1
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
Chính vì vậy làm thế nào để thu hút và sử dụng một cách có hiệu quả vốn
FDI trong nông nghiệp trở thành một vấn đề hết sức quan trọng. Xuất phát từ


thực trạng FDI trong nông nghiệp và tính cấp thiết của vấn đề này, tôi chọn đề
tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nông nghiệp Việt Nam - Thực
trạng và giải pháp” làm khoá luận cho mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Khoá luận tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ những lý luận về FDI
- Nghiên cứu sự cần thiết thu hút vốn FDI vào trong ngành nông nghiệp
- Phân tích tình hình thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI trong ngành nông
nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1988 – 9/2003
- Từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường khả năng thu
hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI trong ngành nông
nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Khoá luận nghiên cứu tình hình hoạt động FDI vào ngành nông nghiệp
Việt Nam ở tầm vĩ mô và đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng khả năng
thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI trong ngành nông nghiệp
Việt Nam trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận đã vận dụng kết hợp phương pháp thống kê, phân tích hệ
thống, phương pháp đồ thị và các phương pháp nghiên cứu khác như: phương
pháp so sánh, phương pháp tổng hợp…để giải quyết các nội dung nghiên cứu
của khoá luận. Các phương pháp đó được kết hợp chặt chẽ với nhau dựa trên cơ
sở các quan điểm, chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách sử dụng nguồn vốn
FDI của Đảng và Nhà nước.
2
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
5. Bố cục của khoá luận.
Tương ứng với nội dung nghiên cứu, ngoài phần lời mở đầu, kết thúc, tài
liệu tham khảo, mục lục, các từ viết tắt, khoá luận được kết cấu như sau:
Chương I: Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành

nông nghiệp
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển vào ngành
nông nghiệp Việt Nam ở giai đoạn 1988 -9/2003
Chương III: Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành nông nghiệp Việt Nam.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian chuẩn bị không nhiều
nên khoá luận không tránh khỏi thiếu sót, kính mong thầy cô và các bạn đóng
góp ý kiến để em có thể học hỏi, rút kinh nghiệm, hoàn thiện khoá luận cũng
như trau dồi kiến thức cho bản thân.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Nguyễn Xuân Nữ về sự hướng dẫn tận
tình trong quá trình viết khoá luận. Em cũng xin cảm ơn các cán bộ công tác tại
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ, cung cấp các tài liệu cần thiết để em có thể
hoàn thành khoá luận này.
3
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
C HƯƠNG I
SỰ CẦN THIẾT THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO TRONG NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
“Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi”(theo luật doanh nghiệp năm 1999). Xuất
phát từ khái niệm về kinh doanh trên đây chúng ta có thể hiểu về kinh doanh
quốc tế như sau: kinh doanh quốc tế là toàn bộ các hoạt động giao dịch kinh
doanh có liên quan từ hai quốc gia trở lên nhằm thoã mãn các mục tiêu của các
doanh nghiệp, của cá nhân, chính phủ và các tổ chức kinh tế xã hội tham gia
kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh quốc tế xuất hiện cùng với sự ra đời và phát triển
của Chủ nghĩa trọng thương(từ thế kỷ XV). Giai đoạn đầu, kinh doanh quốc tế
chỉ đơn thuần là hoạt động xuất nhập khẩu(thương mại quốc tế thời kỳ chủ nghĩa
trọng thương) nhưng cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là sự

phát triển của chủ nghĩa tư bản tài chính và sự xuất hiện của các rào cản thương
mại thì kinh doanh quốc tế cũng xuất hiện những phương thức, loại hình mới.
Một trong những phương thức hoàn thiện nhất của kinh doanh quốc tế đó là: đầu
tư quốc tế. Đầu tư quốc tế là một quá trình kinh doanh, trong đó có vốn đầu tư
được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm mục đích sinh lời.
Như vậy, quá trình đầu tư quốc tế là di chuyển của các dòng vốn vượt ra khỏi
biên giới quốc gia nhằm khai thác những lợi thế của quốc gia sở tại thu lợi cho
chủ đầu tư. Hoạt động đầu tư quốc tế được tiến hành theo hai hình thức đó là:
đầu tư trực tiếp (FPI) và đầu tư gián tiếp. Sự khác nhau cơ bản của hai hình thức
này là: FDI tạo tài sản cho quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư. Trong phạm vi của đề
tài này, chúng ta đi tìm hiểu về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
4
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1. Khái niệm, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
1.1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong
đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt
động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết
quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế.
Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư nước ngoài.
Theo hiệp hội luật quốc tế(1966) “Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn từ
nước ngoài của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó
xí nghiệp kinh doanh hay dịch vụ”. Cũng có quan điểm cho rằng “Đầu tư nước
ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử
dụng nhưng không phải để mua hàng hoá tiêu dùng của nước này mà dùng để
chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Theo luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và được bổ sung hoàn thiện sau 4 lần
sửa đổi(1989, 1992, 1996, 2000) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ

chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc
bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh
trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100%
vốn nước ngoài”.
Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động di chuyển vốn của các cá
nhân và tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ
toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.
1.2. Đặc điểm
Xuất phát từ khái niệm, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của đầu tư
trực tiếp nước ngoài như sau:
5
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
- Một là, các chủ đầu tư nước ngoài phải góp một số vốn tối thiểu vào vốn
pháp định, tuỳ theo luật đầu tư nước ngoài (ví dụ: tại Việt Nam, khi liên doanh,
số góp vốn của bên nước ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30%)
- Hai là, quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Đối với
doanh nghiệp liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh thì quyền quản lý
doanh nghiệp và quản lý đối tượng hợp tác tuỳ thuộc vào mức góp vốn của các
bên khi tham gia, còn đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thì người
nước ngoài (chủ đầu tư) toàn quyền quản lý xí nghiệp.
- Ba là, lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài phụ thuộc vào kết quả hoạt
động kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
- Bốn là, đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây
dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang
hoạt động hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
- Năm là, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với di chuyển vốn
mà còn với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản
lý, đồng thời tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.
- Sáu là, đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay gắn liền với các hoạt động
kinh doanh quốc tế của các công ty đa quốc gia.

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố từ bên
trong nước chủ nhà cũng như các yếu tố từ bên ngoài:
a) Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong của nền kinh tế bao gồm tổng hoà các nhân tố chính
trị, kinh tế – xã hội và điều kiện tự nhiên.
- Thứ nhất: Sự ổn định chính trị tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế của đất nước. Nền chính trị ổn định sẽ tạo điều kiện để các nhà đầu tư
mở rộng kinh doanh. Đây là cơ sở để phát triển các ngành trong nền kinh tế.
6
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
Đồng thời, trình độ của nền kinh tế đặc biệt là tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc
dân cao, thu nhập bình quân đầu người được cải thiện là yếu tố hấp dẫn các nhà
đầu tư di chuyển vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý vào các ngành có khả
năng sinh lợi cao để thu lợi ích.
- Thứ hai: Nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng trong sự phát triển và thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với dân số trẻ và có học vấn khá, dễ tiếp
thu khoa học công nghệ, lao động của Việt Nam, nhất là lao động đã qua đào tạo
thực sự là một nguồn lực to lớn để phát triển và phát huy vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
- Thứ ba: Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là những nhân tố quan trọng
cho sự hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn tài nguyên phong phú với
trữ lượng lớn, chất lượng cao sẽ là yếu tố thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
- Thứ tư: Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định như tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao và ổn định lâu bền, kiềm chế đựơc lạm phát, ổn định giá trị nội tệ và tỷ giá
hối đoái sẽ là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh và lợi nhuận
của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, nó ảnh hưởng rất lớn đến thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước chủ nhà.
- Thứ năm: Khuôn khổ thể chế và pháp lý thuận tiện như nền kinh tế mở,

hướng xuất khẩu, đồng tiền có khả năng chuyển đổi dễ dàng, chương trình tư
nhân hoá quy mô lớn, tham gia các khối thương mại khu vực và thế giới, cơ sở
hạ tầng vật chất thuận lợi và hiện đại, hoàn thuế quan nhập khẩu, có các biện
pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài… là các yếu tố ảnh hưởng lớn đến thu hút
và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài.
-Thứ sáu: Bên cạnh các yếu tố trên đây, chính sách bảo hộ của chính phủ,
chính sách thay thế nhập khẩu, chính sách độc quyền, chính sách ngoại thương
(như thuế quan, hạn ngạch…) của nước chủ nhà đôi khi cũng khiến các nhà đầu
7
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
tư nước ngoài tìm cách đặt cơ sở sản xuất kinh doanh ngay tại nước chủ nhà để
tránh những chính sách này của nước chủ nhà.
b) Các nhân tố bên ngoài
- Thứ nhất: Tình hình kinh tế xã hội, chính trị của nước đi đầu tư, chính
sách đầu tư ra nước ngoài của nước đi đầu tư (như chính sách miễn thuế sản
phẩm chế biến tại một số cơ sở chế biến của họ tại nước ngoài) ảnh hưởng rất
lớn đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực vừa qua cho ta thấy rõ vấn đề này.
- Thứ hai: Quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư làm cho các công ty
xuyên quốc gia phải cạnh tranh gay gắt với nhau trong việc tìm kiếm thị trường
mới. Do vậy đây chính là động lực để các nhà đầu tư nước ngoài đi đầu tư ở
nước khác.
-Thứ ba: Bên cạnh những yếu tố trên việc các nhà đầu tư nước ngoài phân
tán rủi ro bằng cách đầu tư tại nhiều địa điểm khác nhau ở các nước cũng là yếu
tố để các nhà đầu tư đầu tư ra nước ngoài.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được phân chia theo nhiều tiêu chí khác
nhau.
Nếu căn cứ vào tính pháp lý của đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể chia
FDI thành các loại: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh,

doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong các hình thức trên thì doanh nghiệp
liên doanh, doanh nghiệp vốn 100% vốn nước ngoài là hình thức có thành lập
pháp nhân mới và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gọi chung là xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
8
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
Nếu căn cứ vào lĩnh vực đầu tư có thể chia đầu tư trực tiếp nước ngoài
thành các loại: đầu tư vào công nghiệp, đầu tư vào nông nghiệp, đầu tư vào dịch
vụ….
Theo luật đầu tư nước ngoại tại Việt Nam, các hình thức đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam gồm ba hình thức sau:
a) Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để
cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trên cơ
sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà
không thành lập pháp nhân mới. Thời hạn cần thiết của hợp đồng hợp tác kinh
doanh do các bên hợp tác thoã thuận phù hợp với tính chất, mục tiêu kinh
doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được người có thẩm quyền của các bên
hợp doanh ký.
b) Doanh nghiệp liên doanh
Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và nghị định 24/2000/NĐCP
ngày 31/072000 của Chính phủ Việt Nam thì: doanh nghiệp liên doanh là doanh
nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết
giữa các bên(bên nước ngoài và bên Việt Nam). Doanh nghiệp liên doanh có tư
cách pháp nhân, các bên tham gia liên doanh cùng góp vốn, cùng tham gia quản
lý, cùng phân chia lợi nhuận, rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn pháp
định của liên doanh.
c) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở
hữu của các tổ chức, cá nhân nước ngoài do họ thành lập và quản lý. Xí nghiệp

này là một pháp nhân mới ở Việt Nam dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu
9
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
hạn. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn do chủ sở hữu chịu
trách nhiệm.
Ngoài ra đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn được tiến hành theo cơ sở các
hình thức hợp đồng sau:
d) Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT): là văn bản ký
kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước
ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn
nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoàI chuyển giao không bồi hoàn công
trình đó cho nhà nước Việt Nam.
e) Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh (BTO) là văn bản ký kết
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài
để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam
dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất
định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
f) Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT) là văn bản ký kết giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo
điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư
và lợi nhuận hợp lý.
II. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Tính tất yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thế giới hiện nay
Trong lịch sử thế giới, đầu tư nước ngoài đã từng xuất hiện ngay từ thời
tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những
công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước Châu

10
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
Á để khai thác đồn điền và cùng với ngành khai thác đồn điền này là ngành khai
thác khoáng sản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp ở chính
quốc.
Trong thế kỷ XIX, do quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh
mẽ, các nước tư bản lúc bấy giờ đã tích lũy được những khoản tư bản khồng lồ.
Khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất
hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển sức sản xuất
xã hội đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành
nên quy mô sản xuất trên toàn thế giới. Việc tích tụ, tập trung và xuất khẩu tư
bản là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan của nền kinh tế hiện
đại.
Sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước phát triển lại rơi vào một
cuộc suy thoái kinh tế, chính lúc này để vượt qua giai đoạn khủng hoảng nhằm
tạo ra những điều kiện phát triển đòi hỏi phải đổi mới tư bản cố định. Thông qua
hoạt động đầu tư nước ngoài, các nước công nghiệp phát triển có thể chuyển
máy móc thiết bị cần thay thế sang các nước kém phát triển hơn và thu hồi được
một phần giá trị để bù đắp những khoản chi phí khổng lồ cho việc mua sắm máy
móc thiết bị. Bên cạnh đó những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày càng phát
triển mạnh mẽ và nhanh chóng đi vào ứng dụng trong sản xuất và đời sống, các
chu kỳ kinh tế ngày càng rút ngắn lại vì vậy yêu cầu đổi mới máy móc t hiết bị
ngày càng cấp bách hơn. Do đó các nước tiên tiến tất yếu phải tìm nơi tiêu thụ
các công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công
nghệ kỹ thuật mới.
Nguyên tắc lợi thế so sánh mà P.Vernon đã chứng minh rằng không có
nước nào mạnh toàn diện và cũng không có nước nào yếu toàn diện. Nếu
chúng ta biết hợp tác thì sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp cho tất cả các
nước. Qua hàm sản xuất: Y= f (K,L), Giáo sư P.Vernon gợi ý rằng với các nước
tư bản phát triển nên tận dụng lợi thế so sánh sao cho tỷ lệ K/L ngày càng cao.

Với các nước đang phát triển nên sử dụng lợi thế so sánh với những mặt hàng có
11
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
hàm lượng lao động cao. Theo nguyên tắc này cho phép hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài lợi dụng được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại lợi
ích cho cả hai bên, bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư. Các doanh nghiệp nước
ngoài có lợi thế so sánh về vốn và kỹ thuật, còn các nước nhận đầu tư có lợi thế
về lao động dồi dào với giá rẻ… Do đó để khai thác được lợi thế so sánh này
tất yếu phải có quan hệ kinh tế quốc tế mà trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài
là một nhân tố quan trọng.
Nhà kinh tế học P.Samuelson cho rằng, để phát triển kinh tế các nước đang
phát triển phải có biện pháp thu hút được FDI. Trong lý thuyết “ cái vòng lẩn
quẩn” và “ cú hích ” từ bên ngoài, Samuelson cho rằng: “ Đa số các nước đang
phát triển đều thiếu vốn, mức thu nhập thấp, chỉ đủ sống ở mức tối thiểu, do đó
khả năng tích lũy vốn hạn chế. Những nước dẫn đầu trong cuộc chạy đua tăng
trưởng phải đầu tư ít nhất 20% sản lượng vào việc tạo vốn. Trái lại, những nước
nông nghiệp nghèo nhất thường chỉ có tiết kiệm được 5% thu nhập quốc dân.
Hơn nữa, phần nhiều trong khoản tiết kiệm nhỏ bé này phải dùng để cung cấp
nhà cửa và những công cụ đơn giản cho số dân đang tăng lên. Phần còn lại hầu
như rất ít cho phát triển.”
Mặt khác, theo Samuelson, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực bị
hạn chế bởi tuổi thọ và dân trí thấp, kỹ thuật lạc hậu, tài nguyên khan hiếm và
đặc biệt là gặp trở ngại trong việc kết hợp chúng. Do vậy, ở nhiều nước đang
phát triển ngày càng khó khăn và càng tăng “ cái vòng lẩn quẩn”.
Samuelson cho rằng: “ Để phát triển kinh tế phải có ‘cú hích’ từ bên ngoài
nhằm phá vỡ cái vòng lẩn quẩn”. Đó là phải có đầu tư của nước ngoài vào các
nước đang phát triển. Theo ông, “ Nếu có quá nhiều trở ngại như vậy đối với
việc đi tìm tiết kiệm trong nước để tạo vốn thì tại sao không dựa nhiều hơn vào
các nguồn từ bên ngoài?” Chẳng phải lý thuyết kinh tế đã từng nói với chúng ta
rằng, một nước giàu sau khi đã hút hết những dự án đầu tư có lợi nhuận cao cho

mình, cũng có thể làm lợi cho chính nó và nước nhận đầu tư bằng cách đầu tư
những dự án lợi nhuận cao ra nước ngoài đó sao?....
12
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
Ngày nay, xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội, kết quả của quá trình
phân công lao động xã hội mở rộng trên phạm vi toàn thế giới đã lôi kéo tất cả
các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Trong xu thế đó, chính sách biệt lập đóng cửa là không thể tồn tại vì chính sách
này kìm hãm quá trình phát triển của xã hội. Một quốc gia hay vùng lãnh thổ
khó tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu khoa học kỹ thuật đã kéo con
người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới tác động của quốc
tế hoá khác buộc các nước phải mở cửa với bên ngoài. Vì vậy, đầu tư trực tiếp
nước ngoài là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế hữu hiệu nhất hiện
nay, đã và đang trở thành phổ cập như một phương thức tiến tạo.
2. Những lợi ích của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Việc huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia hay một
vùng lãnh thổ đã và đang trở thành phương thức hữu hiệu nhất, một yếu tố quan
trọng trong cơ cấu ngân sách phát triển của một quốc gia, một hình thức phổ
biến trong quan hệ kinh tế quốc tế vì nó mang lại lợi ích cho hai bên, bên chủ
đầu tư và bên nhận đầu tư.
2.1. Đối với chủ đầu tư
- Thứ nhất: FDI giúp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tăng cường
bành trướng sức mạnh kinh tế và vai trò ảnh hưởng trên thế giới. Phần lớn các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước về thực chất hoạt động như
là chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc bằng việc xây dựng các nhà máy
sản xuất, chế tạo hoặc lắp rắp ở nước sở tại. Sự mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm của các công ty mẹ ở nước ngoài, đồng thời còn là biện pháp thâm nhập
thị trường hữu hiệu tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
- Thứ hai: FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất rút ngắn
thời gian thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao.

Do sự phát triển không đồng đều về trình độ sản xuất và mức thu nhập…
giữa các nước nên đã tạo ra chêch lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố đầu vào
13
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
của sản xuất. Do đó đầu tư nước ngoài cho phép lợi dụng chênh lệch này để
giảm bớt chi phí sản xuất, trước hết đó là chi phí lao động; việc tổ chức sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm ở các nước sở tại cũng giúp các chủ đầu tư giảm được chi
phí vận chuyển hàng hoá, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị …
- Thứ ba: FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được nguồn cung cấp nguyên
liệu.
Mục tiêu của nhiều dự án đầu tư nước ngoài là nhằm tìm kiếm nguồn
nguyên liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư. Trong
khi đó, ở các nước phát triển nguồn tài nguyên có nhiều nhưng không có điều
kiện khai thác chế biến do thiếu vốn, công nghệ. Do đó, đầu tư vào các lĩnh vực
này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận
cao.
- Thứ tư: FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài đổi mới cơ cấu sản xuất, áp
dụng công nghệ mới nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đổi mới thường xuyên công nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh,
do đó các nhà đầu tư nước ngoài thường chuyển máy móc, công nghệ đã lạc hậu
so với trình độ chung của thế giới để đầu tư sang các nước khác. Điều đó, một
mặt giúp các chủ đầu tư thực chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm
đổi mới thiết bị công nghệ, kéo dài được chu kỳ sống của sản phẩm của hãng ở
các thị trường mới.
Đối với nước nhận đầu tư.
- Thứ nhất: FDI là nguồn vốn quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát
triển.
FDI, là nguồn vốn bổ sung quan trọng để thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, bù đắp cho sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước, đặc biệt là
đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam vì hầu hết các nước này

đều có nhu cầu vốn. Hơn nữa, các nước đang phát triển có tỷ lệ vốn tích lũy
trong nước ở mức thấp là một trở ngại lớn cho sự phát triển nền kinh tế xã hội.
14
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần huy động vốn để hỗ trợ cho nhu cầu đầu
tư của nền kinh tế. Bên cạnh đó FDI còn có những ưu thế hơn hẳn so với các
hình thức huy động vốn khác như việc vay vốn nước ngoài đôi khi trở thành
gánh nặng cho nền kinh tế. Hoặc như các khoản viện trợ thường đi kèm với điều
kiện về chính trị, can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia. Điều này ít
xảy ra đối với FDI.
FDI cũng bổ sung sự thiếu hụt về ngoại tệ đối với các nước đang phát triển,
bởi vì FDI góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất
khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài,
thu ngoại tệ từ các hoạt động dịch vụ cho FDI.
- Thứ hai: FDI góp phần nâng cao năng lực công nghệ.
Song song với việc tạo nguồn vốn bổ sung, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn
là một kênh quan trọng để đưa kỹ thuật mới, kỹ năng quản lý mới vào các nước
đang phát triển. Thông qua FDI chúng ta có thể tiếp nhận được những công nghệ
này. Qua đó, FDI có thể thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật của nước nhận đầu tư như
góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành sản phẩm,
xuất khẩu. Hơn nữa thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi
hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là đối với
các nước nhận đầu tư. Cùng với chuyển giao công nghệ “phần cứng” tiên tiến,
đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chuyển giao các công nghệ “phần mềm” như kỹ
năng quản lý,bí quyết công nghệ….cho nước nhận đầu tư. Qua chuyển giao
công nghệ, làm trình độ công nghệ của nước chủ nhà ngày một cao hơn, từ đó
nâng cao dần năng lực của nước chủ nhà. Đến một mức độ nào đó nước chủ nhà
không những chỉ tiếp thu công nghệ mà còn “làm chủ” công nghệ và phát minh,
cải tiến công nghệ mới điển hình về lĩnh vực này là các nước công nghiệp mới,

15
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
nổi bật là Hàn Quốc. Đứng về lâu dài thì đây chính là lợi ích căn bản nhất đối
với các nước nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển.
- Thứ ba: FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự
phát triển nội tại nền kinh tế mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời
sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là
một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua đó các quốc
gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế. Để
hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên kết
kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay đổi cơ
cấu kinh tế trong nước phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với sự phát triển chung trên thế
giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính
sách đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, bởi vì:
+ Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và
ngành kinh tế mới ở nước nhận đầu tư.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ
công nghệ ở nhiều ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở
các ngành này và tăng tỷ trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân.
+ Một số ngành được kích thích phát triển từ hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài, nhưng cũng sẽ có một số ngành suy giảm.
- Thứ tư: FDI góp phần giải quyết công ăn việc làm.
Thực ra đây là một tác động kép: tạo thêm công ăn việc làm cũng có nghĩa
là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong
nước. FDI cung cấp việc làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
đồng thời cũng tạo ra việc làm trong các tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước
ngoài mua hàng hoá dịch vụ trong các hợp đồng gia công chế biến. Tuy nhiên,

16
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
sự đóng góp của FDI đối với việc làm còn phụ thuộc vào chính sách và khả năng
kỹ thuật của nước đó.
Ngoài những tác động trên đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác
động khác đến nước nhận đầu tư như : đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu
của ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế, tiền thu từ việc cho thuê nhà
đất…, FDI góp phần vào cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; FDI giúp các
nước nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế giới…Hơn nữa nó còn góp
phần cải thiện mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, các quan hệ về hợp tác
thương mại, vấn đề môi trường, các quan hệ văn hoá xã hội khác, tạo lên tiếng
nói chung giữa các cộng đồng và khu vực. Như vậy, có thể nói rằng đầu tư trực
tiếp nước ngoài là một tất yếu khách quan.
III. SỰ CẦN THIẾT THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀO PHÁT TRIỂN NGÀNH NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
1. Vị trí, vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
Ngành nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân của mỗi nước. Nó không phải là một hệ thống kinh tế đơn
thuần, mà là hệ thống sinh vật - kỹ thuật, bởi vì một mặt là cơ sở để phát triển
nông thôn và mặt khác là việc sử dụng những tiềm năng sinh vật, cây trồng, vật
nuôi. Chúng phát triển theo quy luật sinh vật nhất định, con người không thể
ngăn cản quá trình phát sinh, phát triển, phát dục và diệt vong của chúng mà
phải trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật, để có những giải pháp tác
động, nhằm thích nghi với chúng. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho
người sản xuất có sự quan tâm thoã đáng, gắn lợi ích của họ với sử dụng các quá
trình sinh vật đó, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm cuối cùng hơn.
Nông nghiệp giữ vai trò rất to lớn trong việc phát triển kinh tế, nhất là ở
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Ở những nước này còn nghèo,
đại bộ phận sống bằng nghề nông. Tuy nhiên, ngay cả những nước có nền công
nghiệp phát triển cao, mặc dù giá trị sản phẩm nông nghiệp không lớn, nhưng

17
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
khối lượng sản phẩm nông nghiệp vẫn không ngừng tăng lên và giữ vai trò quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào
cho công nghiệp và cho khu vực thành thị. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp
hoá, phần lớn dân cư sống bằng nghề nông nghiệp, khu vực nông thôn thực sự là
nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực công nghiệp và thành thị. Nhà kinh
tế học Lewis đã xây dựng một mô hình chuyển dịch lao động từ khu vực nông
thôn sang khu vực công nghiệp, ông coi đó là quá trình tạo ra tiết kiệm, thúc đẩy
đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Mô hình Lewis dựa trên giả thiết một mặt nguồn
cung cấp lao động từ cận biên khu vực nông nghiệp rất thấp, nên chuyển dịch
lao động diễn ra trong một thời kỳ dài với tiền công không thay đổi, sang công
nghiệp với tiền công cao hơn, đời sống tốt hơn. Việc chuyển dịch từ nông
nghiệp sang công nghiệp để khắc phục tình trạng lạc hậu về kinh tế. Khu vực
nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp, chủ yếu là
công nghiệp chế biến nông sản, nhằm tạo ra nguồn thu nhập lớn. Song việc
cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp hoá là đại lượng biến thiên, ở giai
đầu của công nghiệp hoá, các yếu tố đầu vào chiếm tỷ trọng lớn và sẽ giảm
xuống ở giai đoạn sau nhất là khi công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp nặng) đã
phát triển ở trình độ cao.
Nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các
loại nông, lâm, thuỷ sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng
hoá công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có
ngoại tệ chủ yếu dựa vào các loại nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Xu hướng chung
ở các nước trong quá trình công nghiệp hoá, ở giai đoạn đầu giá trị xuất khẩu
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kinh ngạch xuất khẩu
và tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế.
Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước
ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu

vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện
18
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm
để phát triển vượt qua các thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh,
Pháp trước đây, các nước đi sau có thể mượn sức của những nước đi trước để
thực hiện thành công chiến lược rượt đuổi. Song vốn đầu tư không bao giờ tự
chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia
nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong
việc huy động nguồn lực phát triển to lớn nói trên.
2. Đặc điểm của ngành nông nghiệp ở Việt Nam
2.1 Đặc điểm chung
Là một ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã hội. Khác với công nghiệp,
sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng bởi sự chi phối của điều kiện tự
nhiên, kinh tế xã hội.
- Thứ nhất: Ruộng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản
xuất nông nghiệp.
Đất đai là yếu tố cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng mỗi ngành
nội dung kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong nông nghiệp đất đai là tư liệu
sản xuất không thể thiếu được. Tuy nhiên, ruộng đất bị giới hạn về mặt diện
tích, con người không thể tăng thêm theo ý muốn chủ quan, nhưng sản xuất của
ruộng đất, độ phì nhiêu để tăng sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích là vô hạn.
Nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất, nhằm thoã mãn nhu
cầu tăng lên của mình về nông sản phẩm. Chính vì thế, trong quá trình sử dụng
phải biết tiết kiệm, tìm mọi biện pháp để cải tạo và bỗi dưỡng ruộng đất, làm
cho ruộng đất ngày càng màu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm trên mỗi đơn
vị diện tích, với chi phí thấp nhất, hạn chế việc chuyển ruộng đất sang xây dựng
cơ bản.
- Thứ hai: Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao.
Đây là nét đặc thù mang tính thời vụ cao sản xuất nông nghiệp, bởi vì mỗi

loại cây trồng có sự thích ứng nhất định với sự biến thiên về điều kiện khí hậu
19
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
-thời tiết dẫn đến những vụ mùa khác nhau. Đối tượng của sản xuất nông
nghiệp là những loại cây trồng, vật nuôi có vai trò tích cực to lớn, là những sinh
vật có khả năng hấp thụ và tàng trữ nguồn năng lượng của mặt trời để biến chất
vô cơ thành chất hữu cơ, tạo nguồn thức ăn cho con người và vật nuôi. Mặt
khác, thời gian lao động tách rời thời gian sản xuất của các loại cây trồng trong
nông nghiệp. Như vậy tính thời vụ rất quan trọng đối với người sản xuất nông
nghiệp. Tạo hoá đã cung cấp những yếu tố đầu vào thiết yếu cho nông nghiệp
như ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa, không khí….Lợi thế tự nhiên đã ưu ái rất lớn
cho con người, nếu biết lợi dụng hợp lý có thế sản xuất những nông sản với chi
phí thấp. Để khai thác và lợi dụng nhiều nhất tặng vật của thiên nhiên đối với
nông nghiệp đòi hỏi khắt khe trong việc thực hiện những khâu công việc trong
thời vụ tốt nhất, như thời vụ làm đất, gieo cấy phân bón, làm cỏ tưới tiêu, thu
hoạch….
Việc thực hiện kịp thời vụ cũng dẫn đến tình trạng căng thẳng về lao động
đòi hỏi phải có giải pháp tổ chức lao động hợp lý, cung ứng vật tư – kỹ thuật
kịp thời, trang bị công cụ, máy móc thích hợp, đồng thời phải coi trọng việc bố
trí cây trồng hợp lý, phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những
thời kỳ nông nhàn.
-Thứ ba: Sản xuất nông nghiệp gắn với cơ thể sống (cây trồng, vật nuôi).
Cây trồng, vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học nhất định( sinh trưởng, phát
triển, phát dục và diệt vong). Chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh, mọi sự
thay đổi về thời tiết khí hậu, đều tác động trực tiếp đến sự phát triển và phát dục
của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây trồng,
vật nuôi với tư cách là một tư liệu sản xuất đặc biệt, được sản xuất trong bản
thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản
xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Để chất lượng giống
cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường xuyên chọn lọc, bồi dục, lai

tạo để ra những giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt.
20
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
- Thứ tư: Sản xuất nông nghiệp mang tính khu vực rõ nét do được tiến hành
trên địa bàn rộng lớn, phức tạp còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Ở đâu
có đất đai và lao động thì ở đó có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp. Song ở
mỗi vùng, mỗi quốcgia có đất đai và thời tiết khí hậu khác nhau. Lịch sử các
loại đất, quá trình khai phá, và sử dụng các loại đất trên các địa bàn có địa hình
khác nhau, ở đó cũng diễn ra các hoạt động nông nghiệp cũng không giống
nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng mưa, độ ẩm, ánh sáng…. trên các địa
bàn gắn rất chặt chẽ với các điều kiện hình thành và sử dụng đất. Vì vậy, việc
lựa chọn và bố trí cây trồng, vật nuôi ứng dụng kỹ thuật canh tác phải phù hợp
với điều kiện từng vùng, nhằm tạo điều kiện cho cây trồng, vật nuôi phát triển
tốt, đem lai năng suất cao.
2.2 Một số đặc điểm cơ bản của ngành nông nghiệp ở Việt Nam
- Thứ nhất: Điều kiện tự nhiên.
Việt Nam nằm trong vành đai nhiệt đới Châu Á, nhiệt đới ẩm thuộc khu
vực gió mùa Đông Nam Á, được trải rộng trên 4 vùng lớn phức tạp: trung du,
đồng bằng, miền núi, ven biển. Đất đai nông nghiệp, địa bàn nông thôn trải trên
nhiều vĩ độ cao, nhiều độ cao, nhiều vùng khí hậu khác nhau, gắn liền với sự
hình thành và cấu tạo của đất. Vì vậy trong quá trình xây dựng và phát triển
ngành nông nghiệp chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản đồng thời có những khó
khăn lớn.
Thời tiết, khí hậu Việt Nam có những thuận lợi cơ bản, đó là hàng năm có
lượng mưa trung bình theo mùa, cường độ ánh sáng lớn, nhiệt độ trung bình
23C, hệ sinh thái phong phú và đa dạng. Nhờ những thuận lợi cơ bản đó mà
nước ta có thể gieo trồng và thu hoạch quanh năm với nhiều giống cây trồng vật
nuôi phong phú có giá trị kinh tế cao: cây công nghiệp lâu năm (cao su, cà phê,
chè, điều…), cây công nghiệp ngắn ngày(lạc, đậu tương, đay, mía…), cây ăn
quả (dừa, cam, bưởi, chuối….). Không những Việt Nam có thể sản xuất những

21
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
loại cây trồng vật nuôi nhiệt đới gió mùa mà có thể nuôi trồng những giống ở xứ
lạnh như xúp lơ, cải bắp, xu hào, cà rốt…
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện tự nhiên Việt Nam cũng gây
nhiều khó khăn lớn như: lượng mưa lớn, mưa nhiều tập trung vào một vài
tháng(tuỳ theo vùng) trong năm, gây lũ lụt, ngập úng. Mùa khô thường gây khô
hạn thiếu nước không chỉ cho nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến đời sống sinh
hoạt của người nhất là ở các tỉnh miền Trung Việt Nam. Khí hậu ấm, ẩm ướt dễ
phát sinh và lây lan sâu bệnh, dịch bệnh gây ra tổn thương lớn với mùa màng và
vật nuôi. Ngoài ra do 3/4 nước ta là đồi núi nên diện tích đất nông nghiệp thấp ít
có khả năng mở rộng và đang là trở ngại lớn trong quá trình phát triển của ngành
nông nghiệp.
- Thứ hai: Nền nông nghiệp Việt Nam chịu nhiều hậu quả do chiến tranh
gây ra.
Trong nhiều thập kỷ qua, nền nông nghiệp nước ta chịu sự tàn phá nặng nề
của chiến tranh. Nhiều vùng đất, cây cối bị tàn phá bởi chất độc hoá học, nhiều
công trình cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp bị bom đạn tàn phá cần
được hồi phục và nâng cấp. Đó là một hạn chế lớn dẫn đến sự phát triển của
nông nghiệp. Do đó nông nghiệp cần một lượng vốn lớn để đầu tư khắc phục
hậu quả của chiến tranh. Mặt khác nề nếp quản lý thời chiến cũng ảnh hừởng
không nhỏ đến việc quyết định lựa chọn sử dụng các nguồn lực phù hợp với cơ
chế thị trường.
- Thứ ba: Trình độ phát triển ngành nông nghiệp ở Việt Nam còn lạc hậu.
Phần lớn các vùng sản xuất nông nghiệp của Việt Nam chủ yếu độc canh
cây lúa, sản phẩm hàng tiêu dùng mới chỉ ở mức sản phẩm thô không qua chế
biến. Sản xuất nông nghiệp ở nông thôn còn lạc hậu, manh mún nhất là ở những
vùng sâu, vùng xa, điều kiện khó khăn, thị trường còn bấp bênh và không ổn
định. Đời sống nông dân còn nghèo, cơ sở hạ tầng thấp, sự hỗ trợ cho nông
nghiệp của ngành công nghiệp chế biến chưa cao và không bền vững. Tuy đã có

22
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
sản phẩm dư thừa để xuất khẩu như hiện nay còn khó khăn trong việc tìm thị
trường tiêu thụ. Đây chính là yếu tố cơ bản làm cho sự phát triển nông nghiệp
Việt Nam còn thấp.
- Thứ tư: Nền nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang
nền nông nghiệp theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Từ những năm cuối của thập kỷ 80 dưới ánh sáng của chính sách đổi mới
của Đảng và nhà nước nền nông nghiệp Việt Nam được chuyển từ sản xuất tập
trung bao cấp sang cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay nền nông
nghiệp nước ta bao gồm nhiều thành phần kinh tế tham gia như: kinh tế quốc
doanh, kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài….Các
thành phần kinh tế được bình đẳng, được khuyến khích phát triển theo luật định.
Sự chuyển đổi này đã tạo cho người dân có quyền quyết định về sản xuất nông
nghiệp phù hợp với mục tiêu, lợi ích của mình. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp
đang được chuyển dịch theo chiều hướng phù hợp với cơ chế thị trường đồng
thời lại chịu sự chi phối riêng do các đặc điểm xã hội, chính trị của Việt Nam.
3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển ngành
nông nghiệp ở Việt Nam
3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào sự phát triển của ngành
nông nghiệp ở Việt Nam
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế nói chung, vào nông nghiệp
nói riêng là một hoạt động kinh tế đối ngoại có vai trò ngày càng to lớn. Đặc biệt
là ở những nước nông nghiệp có xuất phát điểm thấp thì đầu tư trực tiếp nước
ngoài có ý nghĩa to lớn trong việc tạo nguồn vốn đầu tư, tiếp thu khoa học công
nghệ tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp và là một giải pháp tạo việc làm có hiệu
quả trong nông nghiệp nông thôn.
Trải qua một thời kỳ dài, nền kinh tế nước ta nằm trong cơ chế quản lý kế
hoạch hoá tập trung gần như là một nền kinh tế đóng đã làm cho lực lượng sản
xuất trong ngành nông nghiệp bị kìm hãm, các hoạt động đối ngoại trong đầu tư

23
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
chưa có điều kiện mở rộng. Từ sau đại hội Đảng VI và nhất là từ sau năm 1988,
thực hiện nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, ngành
nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Cho đến nay nước
ta đã là một trong những cường quốc xuất khẩu một số lượng nông sản chủ lực
như gạo, cà phê….Tuy nhiên hiện nay nông nghiệp Việt Nam vẫn trong tình
trạng sản xuất manh mún, nhiều tiềm năng phát triển vẫn chưa được khai thác và
có hiệu quả do thiếu vốn đầu tư, trình độ sản xuất còn thấp và chênh lệch khá xa
so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu
hạ tầng nông thôn còn thấp kém. Chính vì vậy việc thu hút FDI là rất cần thiết
và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp nước nhà.
3.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc tạo
nguồn vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay 80% lực lượng lao động nước ta tham gia sản xuất nông nghiệp.
Song đa số nông dân nước ta đều trong tình trạng thiếu vốn sản xuất. Do thiếu
vốn nên nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp, đặc biệt là ở vùng miền núi,
trung du chưa có điều kiện khai thác để sản xuất ra của cải. Mặc dù những năm
gần đây Đảng và Chính phủ ta đã có nhiều chủ trương quan trọng ưu tiên đầu tư
cho phát triển nông nghiệp song nguồn vốn đầu tư của chính phủ còn hạn hẹp,
chưa thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành nông nghiệp trong tình hình
mới. Chính vì vậy việc tìm đến các đối tác đầu tư nước ngoài để thu hút vốn đầu
tư cho nông nghiệp trong những năm vừa qua và trong những năm tới là thật sự
quan trọng. Đặc biệt là cần nguồn vốn FDI vào các dự án lai tạo giống ; dự án
sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu ; dự án chế biến ; vào lĩnh vực nuôi trồng…
3.3 Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một biện pháp nâng cao trình độ công
nghệ sản xuất và chất lượng nguồn nhân lực trong nông nghiệp.
Mặc dù trong những năm gần đây nông nghiệp nước ta đã đạt được những
thành tựu quan trọng, song so với các nước có nền nông nghiệp phát triển trên
thế giới và trong khu vực thì nông nghiệp nước ta vẫn còn một khoảng cách khá

24
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển ngành Nông nghiệp ở VN - Thực trạng & giải pháp
xa. Năng suất cây trồng, vật nuôi, chất lượng nông sản phẩm của chúng ta đều
kém nên sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế còn thấp.
Nguyên nhân của tình trạng này là do công nghệ sản xuất của ta vẫn còn quá
thấp kém, cơ sở vật chất chưa tốt.
Việc thu hút vốn FDI vào nông nghiệp thông qua trang bị công nghệ khoa
học kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất sẽ góp phần to lớn trong việc nâng cao năng
suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của hàng nông sảnViệt Nam trên thị
trường quốc tế và góp phần đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong
nông nghiệp. Bởi vì, đầu tư trang thiết bị hiện đại cho sản xuất nông nghiệp cần
phải có lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao để vận hành nó. Mặt
khác khoa học công nghệ ngày càng hiện đại đòi hỏi phải nâng cao năng lực
lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý trong nông nghiệp. Thông qua hợp
tác sản xuất kinh doanh với nước ngoài chúng ta cần có điều kiện thuận lợi để
đào tạo nâng cao năng lực, chất lượng một bộ phận lao động kỹ thuật và lao
động quản lý trong nông nghiệp. Chính vì vậy thu hút FDI là cần thiết để phát
triển nền nông nghiệp nước ta cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
3.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp tạo điều kiện
khám phá thị trường tiêu thụ nông sản phẩm của nước ta.
Các nhà đầu tư lớn thường có thị trường tiêu thụ truyền thống để tiêu thụ
sản phẩm. Do vậy, bằng các hình thức liên doanh liên kết với nước ngoài trong
sản xuất nông nghiệp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để tìm kiếm thị
trường tiêu thụ nông sản phẩm của nước ta trên trường quốc tế. Vốn FDI vào
nông nghiệp nước ta có thể đầu tư trực tiếp sản xuất thông qua các hợp đồng liên
doanh với nước ngoài, có thể đầu tư vào công nghệ chế biến hoặc công nghệ sau
thu hoạch bằng các hình thức liên doanh với nước ngoài, các đối tác nước ngoài
phải góp phần trách nhiệm trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm của
liên doanh.
25

×