Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Quan hệ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.86 KB, 20 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM </b>

<b>CÂU HỎI: </b>

<b>Quan hệ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xây dựng, phát huy </b>

<b>khối đại đoàn kết dân tộc</b>

<b>Họ và tên học viên: - NGUYỄN HOÀNG HÀ </b>

<b>- HUỲNH MINH PHÚC HẬU - NGUYỄN THÁI BÌNH </b>

<b>- LÊ TRUNG KIÊN Lớp: Cao học Chính trị phát triển K29.1 </b>

<b>NĂM 2023 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>PHẦN 1. MỞ ĐẦU </b>

<b>PHẦN 2. NỘI DUNG </b>

<b>I. Quan hệ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội II. Xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc </b>

<b>1. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc </b>

<b>2. Về phát huy vai trò nòng cốt, quyết định của quần chúng nhân dân trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc </b>

<b>3. Những giải pháp, nhiệm vụ để phát huy hơn nữa vai trò khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm xây dựng đất nước ngày càng giàu, mạnh, văn minh</b>

<b>PHẦN 3. KẾT LUẬN </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>PHẦN 1: MỞ ĐẦU </b>

Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xác định rõ: “Chúng ta cần sự phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội” và cho rằng, phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là một trong những “giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta chủ trương phát triển trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt q trình phát triển”. Như vậy, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, cùng với những chính sách nhân văn, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu sống, lao động, cống hiến và thụ hưởng của mỗi người và mọi người dân là mục tiêu phấn đấu, là tính chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân dân ta chủ trương và đang tiến hành xây dựng.

<b>Xuất phát từ yêu cầu đó, nhóm chúng tôi chọn đề tài “Quan hệ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc”. </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>PHẦN 2: NỘI DUNG </b>

<b>I. Quan hệ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội</b><i> Tiến bộ và công bằng xã hội là một chỉnh thể thuộc về tính chất của một xã </i>

hội, từ lâu đã là khát vọng của con người, là đích hướng tới và đã trở thành một trong những nội dung đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, dân tộc. Định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng và nhân dân ta xác định và đang nỗ lực phấn đấu thực hiện cũng thể hiện tinh thần đó. Thực chất của tiến bộ và công bằng xã hội là giải quyết hài hòa giữa sự phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hịa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội cịn thể hiện tính ưu việt, nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa hơn hẳn những chế độ xã hội trước, đồng thời phát huy tính năng động, khắc phục những bất cập cố hữu của cơ chế thị trường. Vì thế, quan điểm này cần được quán triệt sâu sắc, triển khai có hiệu quả trong từng bước đi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

<i>Tiến bộ xã hội là con đường tiến lên của xã hội. Các nhà sáng lập chủ nghĩa </i>

xã hội khoa học xác định rằng, tiến bộ xã hội là quá trình phát triển của xã hội lồi người từ thấp lên cao, từ một hình thái kinh tế - xã hội này đến một hình thái kinh

<i>tế - xã hội khác cao hơn, đem lại những giá trị vật chất và tinh thần tốt đẹp hơn cho sự hoàn thiện bản chất con người. Như vậy, nội hàm của tiến bộ xã hội phải </i>

thể hiện đồng thời tương ứng từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, đến sự phát triển của quan hệ sản xuất; từ sự phát triển của cơ sở hạ tầng, đến sự phát triển của kiến trúc thượng tầng; từ sự phát triển của tồn tại xã hội, đến sự phát triển của ý thức xã hội; từ việc nâng cao mức sống của con người, làm cho con người thốt khỏi mọi áp bức bóc lột, bất cơng, đến phát triển tồn diện và tự mình làm chủ cuộc sống của mình. Quá trình vận động tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội diễn ra hết sức phức tạp, song luôn theo hướng tiến bộ, đi từ thấp đến cao, từ chưa hồn thiện đến hồn thiện, theo đó, đời sống xã hội lồi người cũng ln theo xu thế ngày càng được nâng lên. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở thời đại đế quốc chủ nghĩa, đối với các dân tộc bị áp bức thì tiến bộ xã hội còn phản ánh mục tiêu độc

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Người giải thích: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc uống, già khơng lao động thì được nghỉ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hành quá trình tiến bộ xã hội văn minh nhất so với tất cả những xã hội trước đó mà lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua.

Nhận thức sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của tiến bộ xã hội, trong quá trình lãnh đạo cách mạng cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta xác định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục…, giải quyết tốt vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”. Các đại hội Đảng gần đây đều xác định con người vừa là trung tâm chiến lược, vừa là mục tiêu, động lực của phát triển; thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển. Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân”. Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng phát triển tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, bảo vệ môi trường”.

Hơn 35 năm đổi mới, cùng với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, việc thực hiện tiến bộ xã hội ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu: Lực lượng sản xuất phát triển với hàm lượng khoa học ngày càng cao và với quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa;

đối với mọi mặt đời sống xã hội được bảo đảm; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng hồn thiện theo hướng trong sạch, vững

dục - đào tạo, khoa học - công nghệ được mở mang, trình độ dân trí phát triển; những thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội được đấu tranh loại bỏ dần; môi trường sinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

thái được quan tâm bảo vệ hơn; con người có điều kiện hơn để phát triển về thể chất, trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp, có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc;

tới của tiến bộ xã hội nhằm phát triển toàn diện con người đã đạt được những bước tiến dài. Tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Đảng ta đánh giá: “Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam,… có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật”.

trạng phân hóa giàu nghèo, tỷ lệ thất nghiệp cao, giảm nghèo chưa bền vững, bất bình đẳng trong thu nhập, chênh lệch mức sống ngày càng tăng, không ít giá trị văn hóa, đạo đức bị mai một, xuống cấp …

Để khắc phục những hạn chế, bất cập đó, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa sự tiến bộ xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh chủ trương tiếp tục thực hiện tiến bộ xã hội trong từng bước đi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ngày càng thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đang được Đảng, nhân dân đồng thuận xây dựng.

Công bằng xã hội là bảo đảm sự “ngang nhau” giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến với hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ, vinh dự với trách nhiệm. Thực tế phát triển của lịch sử nhân loại, công bằng xã hội là vấn đề mang tính lịch sử, được quy định bởi chế độ xã hội cụ thể. Mỗi xã hội đều đưa ra chuẩn mực riêng về công bằng xã hội, tùy theo tính chất giai cấp nhất định. Trong Phê phán cương lĩnh Gôta, C. Mác đã hình dung ra cơng bằng xã hội dưới chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động. Ông chỉ ra rằng, trong xã hội chủ nghĩa, sau khi đã khấu trừ đi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ số sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội, sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta trong các quỹ xã hội. Cách phân phối này là công bằng, bởi lẽ tất cả những người cùng sản xuất/làm một công việc ngang nhau đều có

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

quyền ngang nhau trong tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội. Tuy vậy, với đặc thù của giai đoạn chủ nghĩa xã hội, C.Mác đã chỉ ra rằng, sự phân phối cơng bằng đó chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn cịn chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội, bởi “với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia,…”. Theo C. Mác, đó vừa là ưu việt, vừa là hạn chế khơng tránh khỏi của nguyên tắc phân phối theo lao động trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Bước vào thời kỳ đổi mới, trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để bảo đảm vừa tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện công bằng xã hội, Đảng ta chủ trương phân phối theo lao động. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991), nguyên tắc phân phối đã được bổ sung hoàn thiện và xác định: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả sản xuất, kinh doanh là chính. Ba năm sau, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng 1 năm 1994), Đảng nêu nguyên tắc “phân phối theo lao động là chủ yếu, khuyến khích và đãi ngộ xứng đáng các tài năng; đồng thời phân phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất, kinh doanh”. Đến Đại hội IX (năm 2001), Đảng tiếp tục bổ sung: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”. Đây là nguyên tắc phân phối công bằng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua cho thấy, việc thực hiện các nguyên tắc phân phối ngày càng cơng bằng này đã kích thích mọi người, mọi nguồn lực tham gia sản xuất, kinh doanh, đó là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh. Đây chính là ưu việt về sự thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Bên cạnh nguyên tắc phân phối ngày càng hài hòa giữa phát triển và công bằng xã hội, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thể hiện tính ưu việt, công

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

bằng xã hội của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định:“Hệ thống an sinh xã hội… có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ, bảo đảm bền vững, công bằng; Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu đãi người có cơng và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội”. Trên cơ sở thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực tế những năm qua, nhiều chính sách xã hội lớn được Đảng, Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện đạt kết quả khả quan:

<i>- Chính sách giải quyết việc làm, tăng thu nhập và giảm nghèo đạt được nhiều </i>

thành quả tích cực,đã góp phần quan trọng bảo đảm tỷ lệ cao dân số từ 15 tuổi trở lên có việc làm (trên 77%) và giảm nghèo bền vững. Trong 10 năm qua, nước ta ln duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp (từ 2% - 3%) và thuộc nhóm các quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới. Thu nhập bình quân của người lao động được cải thiện, tăng bình quân 8,7%/năm trong giai đoạn 2013 - 2018.Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 11,76% năm 2011 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015) xuống còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).

- Chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã mở rộng cơ hội tham gia, thụ

<i>hưởng của người dân, thu hút người lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã </i>

hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng nhanh, đặc biệt bảo hiểm y tế cả nước có 85,39 triệu người tham gia, chiếm 90% dân số năm 2019, cơ bản bao phủ tồn dân.

- Cơng tác trợ giúp xã hội cho người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn, từng bước chuyển sang hướng tiếp cận dựa trên quyền con người, lấy con người là

<i>trung tâm góp phần ổn định cuộc sống cho các đối tượng yếu thế. Ví dụ, những </i>

chính sách trợ giúp xã hội đột xuất hỗ trợ kịp thời người dân bị rủi ro do thiên tai bão lụt, hạn hán, rét đậm, rét hại, cứu đói giáp hạt và nhân dịp Tết Nguyên đán hằng năm... Đặc biệt, trước những khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra, Chính

<i>phủ đã ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 9-4-2020, “Về các biện pháp hỗ </i>

trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” và Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg, ngày 24-4-2020, “Quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” với gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng... Những trợ giúp đó khơng chỉ tạo điều kiện cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

những hồn cảnh khó khăn vượt qua đại dịch mà cịn tạo nên sự cơng bằng tương đối trong cộng đồng lúc hoạn nạn, thể hiện tính tương thân của dân tộc, tính ưu việt của chế độ.

<i>- Hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu được chú trọng đầu tư, phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và thụ hưởng, được thể hiện trong việc phổ cập giáo dục; chương trình đào tạo nghề cho lao động nông </i>

thôn; xây dựng hệ thống y tế cơ sở và y tế dự phòng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chương trình nhà ở cho các nhóm đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, cho công nhân khu công nghiệp; mạng lưới cấp nước sạch

<i>nông thôn; hệ thống thông tin truyền thông cơ sở… được triển khai hiệu quả. </i>

- Tài chính cho an sinh xã hội được tăng cường, trong đó ngân sách nhà nước

<i>giữ vai trò chủ đạo và phát huy sự tham gia đóng góp của doanh nghiệp, người </i>

dân và cộng đồng xã hội như thực hiện chính sách ưu đãi người có cơng với cách mạng; chi thực hiện an sinh xã hội; chương trình tín dụng ưu đãi… đã góp phần hiện thực hóa quan điểm lấy con người là trung tâm và không ai bị bỏ lại phía sau trong q trình phát triển. Báo cáo phát triển con người của Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) xác nhận chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam ngày càng tiến bộ và đến nay được xếp vào “nhóm nước có thứ hạng cao” trong nhóm nước có mức phát triển con người trung bình. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định “Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

<b>II. Xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc</b>

<b>1. Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc</b>

“Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là cội nguồn sức mạnh để dân tộc ta mãi mãi trường tồn và phát triển, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược, có ý nghĩa sống cịn của cách mạng Việt Nam”. Hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã khẳng định, khi đất nước đứng trước tình thế, hồn cảnh gian lao, thử thách mang tính bước ngoặt, “nếu

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

biết khơi dậy tinh thần yêu nước, lịng tự hào, tự tơn dân tộc, phát huy sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thì con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, phong ba bão táp, để cập bến bờ vinh quang”. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là chủ trương xuyên suốt, thống nhất của Đảng ta, được thể hiện trực tiếp trong nội dung nhiều văn kiện, nghị quyết, quyết định, chỉ thị qua các thời kỳ cách mạng. Đến nay, khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố vững chắc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Trong giai đoạn mới, Đảng ta

<i>xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy </i>

mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Nhìn chung, việc phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc được biểu hiện trực tiếp ở việc nâng cao vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, cụ thể:

Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp

<i>công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Theo đó, yếu tố “quyết định </i>

thành cơng của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Thời gian qua, tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị được đổi mới, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; chú trọng hồn thiện mơ hình tổ chức của hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lý nhằm hoàn thiện thể chế, bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức bộ máy; phương thức lãnh đạo, năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương được đổi mới.

</div>

×