Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Tiểu luận chủ đề tìm hiểu về thời cơ cách mạng tháng tám năm 1945 rút ra nhận xét

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.75 KB, 36 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b> TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI Khoa: Tài Chính – Ngân Hàng</b>

<b> Bộ môn: Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>16Lương Tuấn Dương2.1</small>

<small>17Nguyễn Hải DươngPowerpoint</small>

<small>18 Nguyễn Việt Hà3.1</small>

<small>19</small> <sup>Phạm Việt Hà</sup>

<small>(Nhóm trưởng)</small> <sup>3.2, thuyết trình</sup>

<small>20Ngơ Thị Hồng Hạnh3.3, thuyết trình</small>

<small>21Nguyễn Thị Thúy Hiền Chương 1</small>

<small>22Trịnh Đức HiệpIn tiểu luận</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU...1</b>

<b>CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ THỜI CƠ...2</b>

<b>1.1. Khái niệm thời cơ...2</b>

<b>1.2. Vai trò của thời cơ...2</b>

<b>CHƯƠNG 2. THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM</b>

<b>2.2. Thời cơ trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945...8</b>

<i><b>2.2.1. Dự đoán thời cơ...8</b></i>

<i><b>2.2.2. Xác định thời cơ...9</b></i>

<i><b>2.2.3. Chớp thời cơ...11</b></i>

<b>CHƯƠNG 3. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VÀ BÀI HỌC VỀ THỜICƠ TRONG CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 153.1. Kết quả và bài học...15</b>

<b>3.2. Vận dụng bài học về nắm bắt thời cơ trong giaiđoạn hiện nay...18</b>

<i><b>3.2.1. Bối cảnh đất nước hiện nay...18</b></i>

<i><b>3.2.2. Bài học...19</b></i>

<i><b>3.2.3. Kết quả của việc vận dụng bài học vào giaiđoạn hiện nay...22</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng cực kỳ khó khăn trong quá khứ. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, mọi khó khăn đều được giải quyết một cách tài tình. Đảng đã góp cơng lớn cho nền độc lập dân chủ của nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam ngày nay. Nhóm chúng em muốn viết bài này để nhắc lại một trong những giai đoạn hào hùng và đáng nhớ nhất trong lịch sử Việt Nam là Cách mạng tháng 8 năm 1945. Cách mạng Tháng Tám 1945 đã trôi qua được hơn 75 năm nhưng ảnh hưởng của nó tới sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc chưa bao giờ là điều bàn cãi và vẫn còn nguyên giá trị. Thắng lợi của Cách mạng đã tạo nên một cú huých mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực, trải dài từ chính trị, văn hoá, kinh tế cho tới xã hội. Xây dựng nên một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt Nam, sở hữu đầy đủ bản chất dân chủ và nhân văn, với mục đích hướng tới con người, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc, đất nước Việt Nam bất khuất, kiên cường tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hơm nay. Những bài học, kinh nghiệm được đúc kết từ thắng lợi Cách mạng Tháng Tám đã, đang và sẽ luôn là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển Tổ quốc. Nhận thức được tầm quan trọng của những điều trên, nhóm quyết định chọn đề tài tìm hiểu về “ Thời cơ Cách mạng tháng 8 năm 1945 ” từ đó rút ra nhận xét và liên hệ với Thanh niên Việt Nam hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ THỜI CƠ1.1. Khái niệm thời cơ</b>

Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, đảm bảo một việc nào đó có thể tiến hành có kết quả. Thời cơ, đó là một thành tố khách quan, hồn tồn khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị nào. Nó xuất hiện một cách bất ngờ và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Nói như vậy khơng có nghĩa là thời cơ là một cái gì đó khơng thể biết trước được, khơng thể đốn định được. Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ, nó có mà khơng có và ngược lại. Vì thế, khơng phải ai cũng có thể dự báo được thời cơ, theo dõi, nắm bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để đạt tới cái đích của mình.

Trong ngữ cảnh của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 tại Việt Nam, Đảng ta nhân thức rõ rằng: Thời cơ là sự kết hợp hàng loạt nhân tố chủ ̣quan và khách quan đã đến độ chín muồi. Thời cơ khơng tự đến, một phần là do ta chuẩn bị nó, thúc đẩy nó. Thời cơ đề cập đến thời điểm quyết định cho sự thay đổi lớn trong lịch sử Việt Nam, khi dân tộc và các phong trào đối nghịch tìm cách thực hiện cuộc cách mạng và độc lập.

<b>1.2. Vai trị của thời cơ</b>

Thời cơ cách mạng có vai trị vô cùng quan trọng, quyết định thắng lợi của cách mạng. Cụ thể, thời cơ cách mạng có vai trị sau:

Tạo ra tâm lý sẵn sàng đứng lên đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta: Sự suy yếu của lực lượng áp bức đã làm cho nhân dân ta trải qua những tháng ngày khủng khiếp của đàn áp và bạo lực. Những biểu hiện của chế độ áp bức, như việc ngăn cản tự do ngôn luận và sự kiểm soát chặt chẽ, đã khiến cho tâm lý căm thù trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những cá nhân và tình hình đại diện cho sự bất công và ngược đãi đã thức tỉnh sự tự hào dân tộc, khơi dậy lòng dũng cảm và sẵn sàng đứng lên đấu tranh giành độc lập.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Khi thời cơ cách mạng đến, nhân dân ta sẽ nhận thức rõ hơn về khả năng giành thắng lợi, dựa trên các ví dụ lịch sử của các quốc gia khác đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng tương tự. Sự hiện diện của những nhà lãnh đạo dũng cảm và những nhân vật nổi tiếng có thể truyền đạt thông điệp về hy vọng và tự do sẽ thúc đẩy quyết tâm của nhân dân ta đối với cuộc đấu tranh vĩ đại này.

Tạo ra điều kiện thuận lợi cho cách mạng bùng nổ và phát triển: Sự suy yếu của lực lượng áp bức đã mở ra một cơ hội quý báu cho cách mạng. Sự hủy diệt và sụp đổ của các bộ máy quản lý bất công đã tạo ra một khoảng trống quyền lực và kiểm soát. Khi đối tác áp bức trở nên đổ vỡ, nhân dân ta có cơ hội hiếm hoi để tự quản lý và xây dựng một tương lai tự do và công bằng hơn.

Sự suy yếu của lực lượng áp bức cũng tạo ra điều kiện thuận lợi để tập hợp lực lượng cách mạng và phát triển lực lượng vũ trang. Các nhóm đối lập và các tập đồn cách mạng có thể tổ chức một cách an toàn hơn, thu thập tài nguyên và huy động nhân lực để tiến hành các hoạt động vũ trang. Điều này có thể tạo ra sức ép đáng kể đối với kẻ thù và buộc họ phải đối diện với sự đối kháng mạnh mẽ của nhân dân.

Tạo ra cơ hội cho cách mạng giành thắng lợi: Thời cơ cách mạng là một khoảng thời gian quan trọng và đặc biệt trong cuộc đấu tranh. Đây là thời điểm thuận lợi nhất để cách mạng có thể giành thắng lợi, vì nhân dân đã tích luỹ được kinh nghiệm, tạo ra một mạng lưới hỗ trợ và thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế.

Khi thời cơ cách mạng đến, cách mạng sẽ có được sự ủng hộ đơng đảo của nhân dân, bởi vì họ đã chứng kiến những nỗ lực và hy sinh của những người đứng lên đấu tranh. Ngoài ra, các lực lượng tiến bộ trên thế giới, như các tổ chức quốc tế và chính trị gia, có thể bắt đầu ủng hộ mở cửa sự đấu tranh của nhân dân ta và cung cấp sự hỗ trợ quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh bại kẻ thù và đạt được mục tiêu độc lập và tự do.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

 Trong quá trình tìm hiểu về thời cơ cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng ta có thể rút ra nhận xét về vai trị quan trọng của thời cơ trong cuộc lịch sử quốc gia. Thời cơ cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam cho độc lập và tự do. Điều này chứng tỏ rằng thời cơ có vai trị quyết định trong việc thúc đẩy sự đồn kết của nhân dân và tạo ra điều kiện thuận lợi cho cuộc cách mạng. Thời cơ cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thúc đẩy lòng dũng cảm và quyết tâm của nhân dân Việt Nam, và nó đã là một yếu tố quyết định trong việc giúp đất nước này tiến đến độc lập và tự do.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>CHƯƠNG 2. THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁMNĂM 1945</b>

<b>2.1. Bối cảnh lịch sử nổ ra Cách mạng Tháng 8 năm1945</b>

<i><b>2.1.1. Thế giới</b></i>

Cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 đang diễn ra và đi vào giai đoạn kết thúc. Ở Đông Dương khi Nhật đảo chính, Pháp đầu hàng

Ngày 09/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh kết thúc ở châu Âu. Sau khi tiêu diệt phát xít Đức, thực hiện cam kết với các nước Đồng minh, ngày 8/8/1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với Nhật và chỉ trong vòng một tuần đã tiêu diệt đạo quân Quan Đông tinh nhuệ bậc nhất của quân đội Nhật, giải phóng vùng Đơng Bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.

<i>2-9-1945, trên chiến hạm USS Missouri (BB-63) của Hải quân Hoa Kỳ.Ngoại trưởng Nhật Bản Mamoru Shigemitsu đã văn kiện chấp nhận đầu hàng</i>

<i>chính thức kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (Ảnh tư liệu)</i>

Quân Nhật bị quân đồng minh tấn công mạnh mẽ. Nhằm gây sức ép với Chính phủ Nhật và phơ trương sức mạnh vũ khí hạt nhân, trong hai ngày 6 và 9/8/1945, Mỹ đã ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố của Nhật là Hiroshima và Nagasaki làm hàng chục vạn người chết và để lại những hậu quả nặng nề kéo dài.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>Quả bom mang biệt danh "Gã béo" được thả xuống thành phố Nagasakingày 9/8/1945, 3 ngày sau khi quả bom hạt nhân đầu tiên thả xuống Hiroshima.</i>

 Khủng hoảng tình hình chính trị ở Đơng Dương, xuất hiện tình thế cách mạng nhưng chưa chín muồi.

<i><b>2.1.2. Trong nước</b></i>

Quân Nhật mất hết tinh thần. Chính quyền do Nhật dựng lên hoang mang cực độ. Sự chuẩn bị chu đáo qua 15 năm của Đảng và nhân dân Việt Nam

 Thời cơ Cách mạng xuất hiện

Nguy cơ: Quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa đồng minh kéo vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật. Một số người trong Chính phủ Bảo Đại

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

-Trần Trọng Kim quay sang tìm kiếm sự trợ giúp của một số cường quốc, với hy vọng giữ chế độ quân chủ. Chính phủ Mỹ không ngần ngại quay lưng lại phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

 Thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại trong thời gian từ khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh đến trước khi qn Đồng minh vào Đơng Dương

 Cụ thể

Trước tình hình cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai ngày càng lan rộng và trở nên khốc liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về nước, triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (tháng 5-1941).

Ngày 9-3-1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng Pháp. Trong đêm đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng quyết định phát động một cao trào cách mạng làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho thích hợp.

Tháng 3-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

<i>Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (Ảnh tư liệu)</i>

Tháng 4-1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị tổ chức các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.

Từ tháng 4-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ, phong phú về nội dung, hình thức.

Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân.

Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước.

Tháng 8-1945, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) khẳng định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và quyết định phát động tồn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; đề ra ba nguyên tắc bảo đảm tổng khởi nghĩa thắng lợi, đó là: tập trung, thống nhất, kịp thời.

23 giờ ngày 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1 hiệu triệu toàn dân tổng khởi nghĩa.

<b>2.2. Thời cơ trong Cách mạng Tháng 8 năm 1945</b>

<i><b>2.2.1. Dự đoán thời cơ</b></i>

Để chớp được thời cơ trong cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, với tầm nhìn xa trơng rộng, ln bám sát tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo sớm con đường phát triển của cách mạng và khả năng xuất hiện thời cơ, từ đó kịp thời đề ra chủ trương, phương pháp đấu tranh đúng đắn, phù hợp từng giai đoạn, từ thấp đến cao tiến tới Tổng khởi nghĩa..

Ngay trong hội nghị Trung ương lần thứ 8( tháng 5-1941), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tại Pắc Pó, Cao Bằng, nghị quyết đã dự báo một cách chính xác cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và hệ lụy của nó: “Nếu cuộc đế

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

quốc chiến tranh lần trước đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó cách mạng nhiều nước sẽ thành cơng…”. Đó là một khả năng xuất hiện thời cơ đến với nhiều nước, trong đó có nước ta. Sự phân tích chính xác, khoa học mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù đã tạo thế chủ động cho ta khi xuất hiện tình thế.

Từ Hội nghị Trung ương 8, Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng đã nhận định: Phát xít Nhật và thực dân Pháp nhất định loại trừ nhau. Đúng vậy, ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đơng Dương. Từ ngày 9 đến 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), ra Bản chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định thời cơ Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, kẻ thù chính của dân tộc là phát xít Nhật và bọn tay sai; phát động phong trào chống Nhật, cứu nước.

 Để có thể nhận thức đầy đủ những điều kiện, những thời cơ của cách mạng ấy, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã phải trải qua một quá trình đấu tranh thực tiễn đầy gian khổ và tổng kết lý luận không ngừng, với sự hy sinh của biết bao chiến sĩ, đồng bào, trên cơ sở sự vận dụng, phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và truyền thống đấu tranh của dân tộc, từ đó mà xây dựng nên lý luận cách mạng Việt Nam. Đó là điều kiện quan trọng nhất để những nhận thức về thời cơ và những dự đoán về thời cơ cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn phù hợp với thực tiễn, với xu thế phát triển của hiện thực khách quan.

<i><b>2.2.2. Xác định thời cơ</b></i>

Thời cơ chỉ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Trong cuộc cách mạng tháng Mười Nga, thời cơ chỉ xuất hiện trong vòng 24 giờ. Còn trong cuộc cách mạng Tháng Tám, thời cơ chỉ tồn tại trong vòng 20 ngày, từ khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh (15-8-1945), đến khi quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật (05-9-1945). Nếu đứng lên giành chính quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

trước ngày 15-8-1945 hay sau ngày 5-9-1945 thì khả năng giành thắng lợi là rất ít. Vì, trước ngày 15/8, qn Nhật cịn rất mạnh, ý chí chiến đấu chưa bị đè bẹp. Cịn sau ngày 05/9, khi đó trên đất nước ta sẽ xuất hiện rất nhiều lực lượng bất lợi cho cách mạng như: Quân Tưởng ở miền Bắc, quân Anh ở miền Nam và nhiều lực lượng phản động khác. Chính vì thế, muốn giành thắng lợi chỉ có thể phát động Tổng khởi nghĩa trong khoảng thời gian từ ngày 15/8/1945 đến trước ngày 05/9/1945. Mặt khác, ta nhất định phải giành thắng lợi trước khi quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật để khi đó ta với tư cách là nước chủ nhà đón quân đồng minh vào giải giáp quân Nhật, khẳng định với các nước trên thế giới rằng nước Việt Nam dân chủ cộng hịa đã giành được chính quyền từ tay Nhật. Ngày 17-8-1945, trước đình Tân Trào, thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước…”.

Ngày 18-8-1945, Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Hỡi đồng bào yêu quí! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến! Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dười lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên”.

Đáp lời kêu gọi của Người và Trung ương Đảng, chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 đến ngày 28-8), toàn thể nhân dân Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến đồng bằng, hải đảo… đều nhất loạt đứng lên tổ chức khởi nghĩa, lập ra chính quyền nhân dân. Ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Dân chủ Cộng hịa. Bản tun ngơn đã khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”.

Như vậy, cho đến trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, nhận thức của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh về thời cơ cách mạng, thời cơ của tổng khởi nghĩa giành lại độc lập dân tộc đã được định hình và thể hiện rất cụ thể trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng.

<i><b>2.2.3. Chớp thời cơ </b></i>

<i><b> Thời cơ của cách mạng tháng Tám là thời cơ chín muồi</b></i>

Đến tháng 8-1945, Đảng ta đã có sự chuẩn bị đầy đủ về đường lối và phương pháp cách mạng cho một cuộc Tổng khởi nghĩa. Toàn đảng, toàn dân đã sẵn sàng hành động, kiên quyết hy sinh để giành độc lập.

Về mặt đường lối: Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 họp và đánh giá: tình hình thế giới, tình hình trong nước sẽ có những biến chuyển theo chiều hướng Liên Xơ và các nước Ðồng minh sẽ chiến thắng chủ nghĩa phát xít, chính quyền của phát xít Nhật lung lay, đổ nát; nhân dân ta bị bọn thực dân, phát xít xơ đẩy vào thảm họa diệt vong, sẽ bước vào đường khởi nghĩa vũ trang và giành thắng lợi bằng tổng khởi nghĩa. Hội nghị nhận định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được”.

Về mặt lực lượng: Đảng ta đã thành lập Mặt trận Việt Minh, quy tụ mọi giai cấp, tầng lớp cùng đoàn kết lại thông qua các hội: Nông dân cứu quốc, công nhân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc... tạo thành khối đại đoàn kết tồn dân tộc rộng rãi, vững chắc. Vai trị và sức mạnh to lớn của Mặt trận Việt Minh được thể hiện rõ nét trong thực tiễn, có sức lơi cuốn

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hiệu triệu mạnh mẽ quần chúng đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc. Cùng với đó, để đáp ứng yêu cầu của cách mạng, ngày 22-12-1944, thực hiện chỉ đạo của Bác Hồ, đội tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) được thành lập với nhiệm vụ là hoạt động vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị với quân sự.

Về phía quần chúng nhân dân: Hưởng ứng Lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng và lời kêu gọi của Bác, đồng bào trong cả nước đã đồng loạt đứng dậy khởi nghĩa giành chính quyền.

Về phía tầng lớp trung gian đã ngả về phía cách mạng: Từ khi Nhật đảo chính Pháp, tầng lớp tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ cũng đứng về phía cách mạng. Nhiều nhà tư sản dân tộc sẵn sàng bỏ tiền ra mua phiếu ủng hộ Việt Minh. Bộ phận binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp cũng trở thành quần chúng cảm tình với cách mạng, nhờ đó các cán bộ cách mạng có điều kiện hoạt động tích cực trong thành phố.

Khi Nhật tuyên bố đầu hàng lực lượng Đồng Minh không điều kiện thì thờ cơ cách mạng mới chín mùi bởi vì lúc này đã xuất hiện đầy đủ cả ba nhân tố: (1) phát xít Nhật, kẻ thù cụ thể, duy nhất của nhân dân Đông Dương đã đầu hàng Đồng minh không điều kiện; (2) phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao, các lực lượng trung gian ngã về phía cách mạng, đặc biệt là sau khi Đảng chủ trương phát động phong trào “phá kho thóc”; (3) Đảng Cộng sản Đơng Dương đã chuẩn bị đầy đủ về lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

 <i><b>Thời cơ của cách mạng tháng Tám là thời cơ "ngàn năm có một"</b></i>

o Yếu tố khách quan

Điều kiện quốc tế thuận lợi. Đây là thời điểm kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xơ và các lực lượng dân chủ trên thế giới đánh bại. Ngoài ra, quân Nhật ở Đông Dương đã tan rã, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa phát xít, giữa chủ nghĩa đế quốc và địa chủ. Phong trào cách

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

mạng cả nước sôi sục, những điều kiện cho tổng khởi nghĩa đã chín muồi, Bác nói: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập”. Và "Cần phải tranh thủ từng giây, từng phút tình hình sẽ biến chuyển nhanh chóng, khơng thể để lỡ cơ hội".

“Ngàn năm có một” vì thời cơ cách mạng xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn đó là: Khi Nhật đầu hàng lực lượng Đồng minh (12/8), nhưng trước khi lực lượng Đồng Minh kéo vào nước ta. Dù mang danh nghĩa là quân Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp vũ khí quân đội Nhật nhưng thực chất dù chúng khác màu da, khác tiếng nói đều chung một mục đích là "Diệt Cộng cầm Hồ" tức là "Diệt Cộng sản, bắt Hồ Chí Minh". Vì vậy, chúng ta phải giành được chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào nước ta.

<i>o Yếu tố chủ quan</i>

Sự lãnh đạo của Đảng, đã 15 năm chuẩn bị về chủ trương, lực lượng, diễn tập qua các cao trào kháng Nhật, cứu nước. Các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945, nhất là cao trào cách mạng từ tháng 3 đến tháng 8-1945. Bên cạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp với quần chúng khởi nghĩa, Đảng đã biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta lúc bấy giờ.

Hưởng ứng Lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng và lời kêu gọi của Bác, đồng bào trong cả nước đã đồng loạt đứng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Chỉ trong chưa đầy nửa tháng (từ 14 đến 28-8-1945), cuộc tổng khởi nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn, chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và chế độ phong kiến, chính quyền về tay nhân dân. Có thể khẳng định, cùng với việc phát huy được sức mạnh đại đoàn kết tồn dân thì chớp thời cơ tiến hành khởi nghĩa chính là một yếu tố quan trọng mang lại sự thành công cho cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ðó là lúc 16 nghìn qn Anh chưa vào miền Nam và 200 nghìn quân Tưởng chưa vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật; cũng là lúc quân

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Nhật bại trận mất tinh thần, ngồi chờ Ðồng minh đến tước vũ khí; ngụy quyền tay sai bỏ trốn hoặc đầu hàng chính quyền cách mạng. Nhờ đó, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước được tiến hành một cách nhanh, gọn và thành công triệt để.

Trong thời điểm lịch sử nóng bỏng đó, mặc dù đang ốm nặng, song Hồ Chí Minh vẫn ln theo dõi sát tình hình và khẳng định: “đây là một thời cơ quý và hiếm nếu bỏ qua thì khơng bao giờ có nữa”, và ra lời hiệu triệu: “Dù có phải thiêu cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc”. Người viết: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lến! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên! ”

</div>

×