Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 33 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN</b>
<b>Đề tài: CÁC GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊPHƯƠNG TÂY THỜI KÌ CỔ ĐẠI</b>
<b>Sinh viên: ĐỖ CAO DƯƠNGMã sinh viên: 2156100018Lớp:Thơng tin đối ngoại K41Lớp tín chỉ: CT11</b>
<i><b>Hà nội, năm 2021</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">2 Hạn chế của những tư tưởng chính trị Hy Lạp - La Mã cổ
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tài</b>
Các học thuyết chính trị đóng một vai trị quan trọng trong hệ thống các môn khoa học xã hội. Đó là lịch sử đang tiến triển nhằm nhận thức các hình thái chính trị của đời sống xã hội. Hệ tư tưởng chính trị gắn bó chặt chẽ với sự tồn tại của xã hội và nhà nước có giai cấp bởi vì nó phản ánh trước hết mối quan hệ giữa các giai cấp, đảng phái, các nhóm xã hội với chế độ nhà nước. Ý nghĩa của các tư tưởng chính trị có thể khác nhau, chúng có thể đóng vai trị tích cực hoặc tiêu cực, tuỳ thuộc vào việc chúng phản ánh lợi ích của giai cấp nào trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Việc tìm hiểu và nghiên cứu tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại cũng thuộc các học thuyết chính trị trên thế giới, bởi lẽ Hy Lạp – La Mã được coi là các nền văn minh ra đời sớm nhất ở phương Tây nên các tư tưởng chính trị nơi đây có thể coi là “nền móng” cho sự phát triển các tư tưởng cũng như học thuyết chính trị sau này. Chính vì lẽ đó, tính cấp thiết của việc tìm hiểu là vơ cùng quan trọng. Trong quá trình làm tiểu luận, em đã kết hợp những kiến thức được học cùng với việc nghiên cứu, tìm kiếm tài liệu. Tuy nhiên, bài tiểu luận của em vẫn không thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, em kính mong nhận được sự góp ý của thầy cơ để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>2. Mục đích nghiên cứu</b>
- Đưa đến cái nhìn tổng quan về bối cảnh cũng như đặc điểm chính trị - xã hội của Hy Lạp – La Mã cổ đại, từ đó nghiên cứu về các tư tưởng chính trị nổi bật. - Hiểu được sự tạo thành căn bản cơ sở hình thành của
các tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại. - Trang bị kiến thức về các sự việc và quy luật phát
triển tư tưởng chính trị. Từ đó, có kĩ năng khám phá ra bản chất của các sự việc và hiện tượng.
<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>
- Bối cảnh và những đặc điểm chính trị - xã hội của Hy Lạp và La Mã cổ đại.
- Tư tưởng chính trị nổi bật của các triết gia đại diện cho Hy Lạp và La Mã cổ đại. Từ đó, đưa đến nhận xét về đóng góp và hạn chế của các tư tưởng chính trị này mang lại.
<b>4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu</b>
- Cơ sở lý luận
Dựa trên phương pháp luận, đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lenin.
- Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp logic kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, so sánh…
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn</b>
- Về mặt lý luận: Đề tài nhằm góp phần tổng kết, đưa ra những quan điểm chung về những tư tưởng chính trị nổi bật của các triết gia Hy Lạp – La Mã cổ đại. - Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần tổng hợp và đưa
đến những giá trị lịch sử qua quá trình nghiên cứu, nhằm xem xét những vấn đề cơ bản nhất, nguồn gốc nhất về tư tưởng chính trị nói chung và đặc biệt là ở Hy Lạp – La Mã cổ đại nói riêng.
<b>6. Kết cấu</b>
Kết cấu đề tài gồm 2 chương
Chương 1: Những tư tưởng chính trị nổi bật giai đoạn Hy
<b>1. Khái lược về điều kiện tự nhiên; tình hình kinh tế,chính trị - văn hóa - xã hội.</b>
<i>1.1 Điều kiện tự nhiên</i>
Hy Lạp là quốc gia rộng lớn có khí hậu ơn hịa. Bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng (Balcans), miền ven biển phía Tây Tiểu Á và nhiều hòn đảo ở miền
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Egee. Hy Lạp được chia làm ba khu vực: Bắc, Nam và Trung bộ.
Trung bộ có nhiều dãy núi ngang dọc và những đồng bằng trù phú, có thành phố lớn như Athen. Nam bộ là bán đảo Pelopongnedơ với nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía Đơng của bán đảo Ban Căng khúc khuỷu nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Êgiê (Egée) là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á và Bắc Phi. Vùng ven biển Tiểu Á là đầu mối giao thương giữa Hy Lạp và các nước phương Đông. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi như vậy nên Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có một nền cơng thương nghiệp phát triển, một nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng.
<i>1.2 Về kinh tế </i>
Hy Lạp cổ đại nằm ở một vị trí vơ cùng thuận lợi về khí hậu, đất đai, biển cả và lòng nhiệt thành của con người là những tài vật, tài lực vô giá để cho tư duy bay bổng, mở rộng các mối bang giao và phát triển kinh tế.
Thế kỷ VIII –VI TCN, đây là thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử Hy Lạp cổ đại là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Lúc bấy giờ đồ sắt được dùng phổ biến, năng xuất lao
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở hữu tư nhân được cũng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động trong nông nghiệp, giữa ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Xu hướng chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, thủ công nghiệp từ cuối thế kỷ VIII TCN là lực đẩy quan trọng cho trao đổi, buôn bán, giao lưu với các vùng
<i>lân cận. Engels đã nhận xét: “Phải có những khảnăng của chế độ nơ lệ mới xây dựng được một quymô phân công lao động lớn lao hơn trong côngnghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nướcHy Lạp giàu có. Nếu khơng có chế độ nơ lệ thì cũngkhơng có quốc gia Hy Lạp, khơng có khoa học vàcơng nghiệp Hy Lạp”.</i>
<i>1.3 Về chính trị - văn hóa - xã hội</i>
Từ điều kiện kinh tế đã dẫn đến sự hình thành chính trị -xã hội, xã hội phân hóa ra làm hai giai cấp xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động chân tay và lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh nhất, nồng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Thành Sparte nằm ở vùng bình ngun, đất đai rất thích hợp với sự phát triển nông nghiệp. Chủ nô quý tộc thực hiện theo lối cha truyền con nối. Chính vì thế Sparte đã xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ, thực hiện sự áp bức rất tàn khốc đối với nô lệ. Thành bang Athen nằm ở vùng đồng bằng thuộc Trung bộ Hy Lạp, có điều kiện địa lý thuận lợi nên đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa của Hy Lạp cổ đại, và là cái nôi của triết học Châu Âu. Tương ứng với sự phát triển kinh tế, văn hóa là thiết chế nhà nước chủ nô dân chủ Athen.
Do sự tranh giành quyền bá chủ Hy Lạp, nên hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Athen. Cuộc chiến tàn khốc đã lưu lại sự suy yếu nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và quân sự của đất nước Hy Lạp. Chiến tranh, nghèo đói đã nảy sinh các cuộc nổi dậy của tầng lớp nô lệ. Nhưng lại thất bại vì họ xuất phát từ nhiều bộ lạc khác nhau, không có ngơn ngữ chung, khơng có quyền hạn, khơng được tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị. Chớp lấy thời cơ, Vua Philíp ở phía Bắc Hy Lạp đã đem quân xâm chiếm toàn bộ bán đảo Hy Lạp thế kỷ thứ II TCN, Hy Lạp một lần nữa bị rơi vào tay của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hy Lạp, nhưng lại bị Hy Lạp chinh phục về văn hóa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><i>Engels đã nhận xét “Khơng có cơ sở văn minh HyLạp và đế quốc La Mã thì khơng có Châu Âu hiện đạiđược”. Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao</i>
đổi hàng hóa mà các chuyến vượt biển đến với các nước phương Đơng trở nên thường xun. Chính vì thế tầm nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn đều được người Hy Lạp đón
<i>nhận, “Những người Hy Lạp mãi mãi là đứa trẻ nếukhơng hiểu biết gì về Ai Cập”.</i>
Trong thời đại này Hy Lạp đã xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương Tây hiện đại.
<i>Về văn học, người Hy Lạp đã để lại một kho tàng văn</i>
học thần thoại rất phong phú, những tập thơ chứa chan tình cảm, những vở kịch hấp dẫn, phản ánh cuộc sống sôi động, lao động bền bỉ, cuộc đấu tranh kiên cường chống lại những lực lượng tự nhiên, xã hội của người Hy Lạp cổ đại.
<i>Về nghệ thuật, đã để lại các cơng trình kiến trúc,</i>
điêu khắc, hội họa có giá trị.
<i>Về luật pháp, đã sớm xây dựng một nền pháp luật và</i>
được thực hiện khá nghiêm tại thành bang Athen.
<i>Về khoa học tự nhiên, những thành tựu toán học,</i>
thiên văn, vật lý... được các nhà khoa học tên tuổi
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">như Thalés, Pythago, Heraclite sớm phát hiện ra. Và đặc biệt, người Hy Lạp cổ đại đã để lại một di sản triết học vô cùng đồ sộ và sâu sắc.
<b>2. Nội dung tư tưởng</b>
Văn minh Hy Lạp-La Mã cổ đại đã tạo tiền đề hình thành và phát triển khá sớm những tư tưởng chính trị của nhân loại. Những vấn đề căn bản chính trị, tư duy chính trị đã được đặt ra và luận giải trên những nét chính yếu ngay ở thời kỳ này. Trong quá trình phát triển từ chế độ cộng sản nguyên thủy sang chiếm hữu nô lệ, ở Hy Lạp xuất hiện các quốc gia thành thị chiếm hữu nô lệ. Mâu thuẫn xã hội giữa các tập đoàn trong giai cấp chủ nô nhằm tranh giành quyền lực và mâu thuẫn giữa chủ nô với nô lệ và tầng lớp thị dân tự do ngày càng gay gắt dẫn đến hình thành các phe phái chính trị và xuất hiện những chính trị gia xuất sắc.
<i>2.1 Herodotos (484-425 TCN)</i>
Herodotos được coi là <i>“người cha của chính trị học”</i>. Ơng là người đầu tiên phân biệt và so sánh các loại hình thể chế chính trị khác nhau.
2.1.1Qn chủ
- Là thể chế độc quyền của một người- đó là vua. Vua có cơng lập quốc, sống vì nước, vì dân. Vua có quyền cấm tất cả những ý kiến phản diện, phản kháng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">- Ưu điểm: Vua là người anh minh, có cơng lập quốc, sống vì nước, vì dân.
- Nhược điểm: Đặc quyền và quá lạm dụng quyền lực khiến vua dễ trở thành tội lỗi.
2.1.2Quý tộc
- Là thể chế được xây dựng trên cơ sở một nhóm những người ưu tú nhất của đất nước, vì lợi ích chung.
- Ưu điểm: Ý kiến đưa ra được bàn luận, cọ xát thường đúng đắn hơn, tránh được những sai sót
- Nhược điểm: Thể chế này dễ có sự khác biệt, bất hòa, chia bè phái dẫn đến tranh giành, tàn sát lẫn nhau.
2.1.3Dân chủ
- Là thể chế mà quyền lực do đông đảo nhân dân nắm - Ưu điểm: Bỏ phiếu để trao những chức vụ công cộng một cách đúng đắn và ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực, xây dựng nhà nước trên nguyên tắc cơ bản: tất cả đều bình đẳng trước pháp luật.
- Nhược điểm: Khi dân chúng có trình độ thấp thì dễ bầu ra những người lãnh đạo kém hiểu biết. Họ dễ bị kích động bởi các cá nhân cầm quyền, từ đó xảy ra tình trạng vơ chính phủ.
Herodotos thiên về loại hình thể chế quân chủ, song khi chỉ ra những điểm mạnh, yếu của mỗi loại hình, ơng cho rằng, thể chế chính trị tốt nhất là thể chế
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">chiếm hữu nô lệ lung lay đến tận gốc rễ. Kế tục sự nghiệp bảo vệ chế độ này cùng với chính quyền của nó là Aristotle. Ông là nhà bác học vĩ đại của văn minh Hy Lạp. Trong hai công trình nghiên cứu về
<i>chính trị là “Chính trị”</i> và <i>“Hiến pháp Aten”</i>, ông đã tổng kết và phát triển tài tình các kết luận của các bậc tiền bối về nguồn gốc và bản chất, hình thức và vai trò của nhà nước pháp quyền.
- Quan điểm về nhà nước
+ Theo Aristotle, nhà nước xuất hiện tự nhiên, được hình thành do lịch sử. Nhà nước, quyền lực nhà nước như là kết quả của sự thỏa thuận giữa mọi người với nhau dựa trên ý chí của họ.
+ Sứ mạng của nhà nước là lãnh đạo tập thể các công dân, quan tâm tới các quyền chung của cơng dân. Điều đó lại chính là bản chất và chức năng của pháp luật.
+ Thể chế chính trị điều hành và quản lý xã hội về ba phương diện: lập pháp, hành pháp và phân xử. + Công lý là các quy phạm pháp luật, là mối tương quan của pháp luật với các công dân của quốc gia. Công lý là các quy phạm pháp luật, là mối tương quan của pháp luật với các công dân của quốc gia. Công lý được phân chia phù hợp với vị trí và phẩm giá của từng cá nhân, mặt khác công lý được thể hiện trong việc cào bằng mọi thứ có thể trao đổi.
- Phân loại thể chế
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">+ Ông cho rằng, khơng có một loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù hợp với tất cả các thời đại và các nước. Ơng phân chính phủ theo tiêu chuẩn số lượng (số người cầm quyền) và chất lượng (mục đích của sự cầm quyền). Kết hợp hai mặt đó, các chính phủ có thể xếp theo hai loại:
Loại chính phủ chân chính là: quân chủ, quý tộc, cộng hịa
Loại chính phủ biến chất là: độc tài, quả đầu, dân trị.
+ Trong số các hình thức nhà nước, Aristotle nhiệt thành ủng hộ chế độ quân chủ, coi đó như hình thức tổ chức nhà nước thần thánh và ưu việt nhất. Bởi vì, với hình thức này, trong xã hội có một người nắm mọi quyền hành tối cao, thậm chí đứng trên pháp luật tựa như thượng đế giữa mọi người. + Tiếp theo chế độ quân chủ mới đến chế độ quý tộc rồi đến chế độ cộng hịa. Ơng phê phán mạnh mẽ các chế độ bạo chúa vì chúng khơng phù hợp với bản chất con người.
- Mặc dù bị hạn chế bởi lợi ích giai cấp, bởi quan niệm cổ đại hẹp hòi về quyền tự do cá nhân những người nô lệ và nhân dân lao động…, bởi quan điểm chiết trung và điều hòa trong nhận thức hầu hết các vấn đề chính trị xã hội, song với sự mẫn cảm về chính trị, với sự ham mê nghiên cứu chính trị của một bộ óc thiên tài, Aristotle để lại cho chúng ta những khái
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">quát và tổng kết có giá trị về chính trị. Nội dung cơ bản của những tổng kết ấy được thể hiện trong những mệnh đề hết sức cơ đọng sau đây:
+ Con người có khuynh hướng tự nhiên gắn bó với nhau thành xã hội. Do đó, con người là động vật cơng dân, động vật chính trị, sống có trách nhiệm với cộng đồng.
+ Chính trị là làm sao trong đời sống cộng đồng, cái chung cao hơn cái cá nhân riêng biệt, con người sống ngày càng tốt hơn.
+ Chính trị phải giáo dục đạo đức và phẩm hạnh cao thượng cho công dân.
+ Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội của mọi công dân.
+ Chế độ dân chủ sẽ chuyển thành chế độ mị dân hoặc độc tài nếu: ý chí cá nhân thay thế pháp luật; chế độ bị trao cho những tên nịnh bợ, gian xảo, ham quyền lực…
+ Không thể hoạt động chính trị nếu bị dục vọng của cải chi phối và sự dốt nát chế ngự.
+ Chế độ quân chủ là hình thức sơ khai vì khơng có ai uy tín bằng lãnh tụ chiến thắng. Nhưng khi xã hội phát triển, người tốt, người giỏi có nhiều thì chế độ chính trị phải thay đổi.
Tuy nhiên, chế độ chính chính trị nào cũng đều có mầm mống của sự biến chất, và chế độ dân chủ chính trị cũng khơng ngoại lệ. Qua những cuộc cách
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">mạng, theo Aristotle luôn luôn đi ra từ những nguyên nhân lớn dù cho rằng nó sinh ra tức thời từ những sự kiện nhỏ. Đó là q trình của sự bất bình đẳng hoặc bình đẳng. Do hồn cảnh địa lí, do thiếu tầng lớp trung lưu; do sự thoái hoá của các cá nhân cai trị và có thể cịn do sự tự do cịn hạn chế do chế độc hiếm hữu nơ lệ đem lại.
Mặc dù hạn chế bởi mục tiêu giai cấp, bởi quan điểm cổ đại hẹp hòi về quyền tự do của cá nhân những người nô lệ và lao động…, xong với nhãn quan uyên thâm và sâu sắc, tư tưởng chính trị của Aristotle có ý nghĩa là sự tổng kết và khái quát hóa những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại.
<i>2.5 Polybe (khoảng 201-120 TCN)</i>
Polybe vốn không phải là một nhà chính trị học. Song qua các cơng trình lịch sử của ông lại thấy rõ nhiều tư tưởng chính trị quan trọng. Đặc biệt và bao
<i>trùm là tư tưởng về thể chế chính trị hỗn hợp.</i>
- Polybe theo cách phân loại chính phủ truyền thống của Aristotle: Các loại chính phủ gồm: Quân chủ, Quý tộc, Dân chủ. Ông tiếp nhận quan điểm về sự kết hợp giữa những nguyên tắc Quý tộc và Dân chủ trong nền Cộng hòa quý tộc, lý tưởng của Aristotle. Song ông nhấn mạnh, phát triển và đi tới khẳng định rõ rệt hơn: Chính phủ tốt nhất khơng phải là chính phủ theo
</div>