Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.36 KB, 11 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>TRƯỜNG HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN *** </small>
TÌNH TRẠNG XÃ HỘI, TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỔ XƯA VÀ KHỔNG TỬ TRONG TÁC PHẨM “NHO GIÁO”
Họ và tên: Nguyễn Minh Châu Lớp: Thông tin đối ngoại K42 Mã sinh viên: 2256100010 Khóa: 2022 - 2026
Giảng viên hướng dẫn: Lưu Văn Thắng
Hà Nội, ngày 5 tháng 12 năm 2022
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">LỜI MỞ ĐẦU
Việc học không chỉ là nghe giảng và ghi chép lại kiến thức mà còn là quá trình tự học và tiếp thu. Một trong những phương pháp tự học đó là đọc sách, đọc sách để biết chọn lọc và có cái nhìn thực tế đúng đắn hơn.
Dựa theo yêu cầu của đề tài bài thu hoạch, em đã đọc “Nho giáo” của Trần Trọng Kim. Thơng qua phần tìm hiểu, em xin trình bày cảm nhận và phần hiểu của em về tình trạng xã hội Tàu và cái triết học thuở xưa trong Thiên I: Thượng cổ thời đại; về Khổng Phu Tử trong Thiên II: Xuân thu thời đại thuộc quyển thượng của “Nho giáo". Nội dung Bài thu hoạch gồm 3 phần:
1. Mở đầu 2. Nội dung
2.1. “Nho giáo” và Lệ thần Trần Trọng Kim 2.2. Xã hội Tàu và triết học thuở xưa 2.3. Khổng Phu Tử
<small>3.</small>Kết luận
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">NỘI DUNG
1. “Nho giáo” và lệ thần Trần Trọng Kim
Nho giáo hay còn được gọi là đạo Nho hoặc đạo Khổng, là một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, giáo dục, chính trị do Khổng Tử sáng lập ra, với mục đích tạo dựng một xã hội tốt đẹp với những con người có đạo đức và lễ nghi chuẩn mực từ đó tạo thành nền móng vững chắc để phát triển đất nước. Nho giáo có tầm ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và xã hội của các nước Đông Á. Những người thực hành theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.
Nho giáo của Trần Trọng Kim được in lần đầu vào những năm 30 của thế kỷ XX, là cơng trình nghiên cứu nghiêm túc của ông. Trong những bộ khảo luận về Nho học xuất bản ở nước ta cho tới nay, bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim vẫn được đánh giá cao. Đây là một trong số không nhiều cuốn sách ra đời sớm nhất thời hiện đại nghiên cứu về Nho giáo Trung Hoa và tầm ảnh hưởng lớn lao của nó trong đời sống văn hóa Việt Nam ta hàng nghìn năm nay.
Trần Trọng Kim là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần, từng làm thủ tướng của chính phủ Đế quốc Việt Nam vào năm 1945 (chính phủ này được Đế quốc Nhật Bản thành lập trong thời kỳ chiếm đóng
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Việt Nam) và cũng là thủ tướng đầu tiên của Việt Nam. Ơng xuất thân trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ ông học chữ Hán. Vào năm 1897, ông theo học tại Trường Pháp-Việt Nam Định và học chữ Pháp. Ơng tốt nghiệp trường Thơng ngơn năm 1903 và năm 1904 ơng làm Thơng sự ở Ninh Bình. Ơng là nhà giáo mẫu mực, có uy tín trong xã hội, từng giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh tra các trường tiểu học Pháp-Việt (1921), Trưởng ban Soạn thảo Sách giáo khoa Tiểu học (1924), giáo viên Trường Sư phạm thực hành (1931), Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1933). Ngồi ra ơng cịn là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức và Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ. Bắt đầu về hưu năm 1942 khi vừa trịn 60 tuổi.
Ơng là người tiên phong cho một số cơng trình biên khảo có giá trị lâu dài thuộc nhiều lĩnh vực học thuật khác nhau, như Việt Nam sử lược, Nho giáo, Truyện Thúy Kiều… Các tác phẩm của Trần Trọng Kim bao quát một phạm vi rất rộng, từ giáo khoa nhiều môn học sang các lĩnh vực Văn, Triết, Sử, Tôn, và đều có tính cách tiên phong đi đầu trên mỗi lĩnh vực học thuật trong giai đoạn chuyển giao từ nền cựu học sang tân học, trong số đó riêng Việt Nam sử lược từ khi ra đời đã được đánh giá là một trong những quyển sử quy mô đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, vừa có phong cách ngắn gọn, súc tích, vừa đầy đủ dễ hiểu, đọc rất hấp dẫn, và được tái bản cho đến nay có đến chục lần.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Trong phần Tựa của Nho giáo (quyển thượng) ông có nói: “Việc làm quyển sách nói về Nho giáo tức là việc vẽ lấy cái bản đồ của Nho giáo. Đáng lẽ là việc của những người đã sinh trưởng trong cái khơng khí Nho giáo, đã tiêm nhiễm cái tinh thần Nho giáo. Nhưng khốn thay, người đời lãnh đạm, ai nấy thấy cái học cũ đã đổ thì thơi, khơng ai lưu ý đến nữa. Vậy nên chúng tơi vì chút lịng hồi cổ, khơng quản sự khó khăn, khơng sợ việc to lớn, đem cái sức nhỏ mọn mà tự nhận lấy việc làm sách này, đêm ngày tìm kiếm, nghĩ ngợi, cố tả cho rõ cái chân tướng của Nho giáo, để họa may có bổ ích cho sự học của người mình được chút nào chăng. Dẫu tả không được đúng cái chân tướng ấy cho lắm, nhưng cũng là một việc làm để giữ lấy di tích về sau.” Mục đích làm ra quyển sách của ông là để lưu giữ cũng như truyền lại và dung hòa cái mới với cái cũ trong học thuyết của Nho giáo để thích hợp với hồn cảnh hiện tại. Qua Nho giáo, ơng muốn bày tỏ lại cái đạo của các bậc thánh hiền phục vụ cho việc học của người đời sau này.
2. Xã hội Tàu và triết học thuở xưa
Trong xã hội thượng cổ, người Tàu cho rằng đã cóĐế(sau là Thiên tử) và Hậu (sau là Chư hầu). Có nhiều hậu, mỗi hậu trị một nước nhưng phải phục tòng mệnh lệnh của đế - trị cả thiên hạ và hằng năm phải triều cống. Cũng như trong nhà cha làm chủ, coi các
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">con. Anh lớn hơn thì có quyền sai bảo em. Con thì u kính cha, dân thì tơn kính vua. Về cơ bản việc chính trị rõ ràng và giản dị.
Vì có người, có quỷ, có thần nên người Tàu tin có một thế lực lớn hơn và nghĩ ra ông Trời. Họ cho rằng Trời và con người luôn tương thông với nhau. Từ đó sinh ra tín ngưỡng kính Trời, sợ Trời, coi Trời là lý làm chủ muôn vật và chỗ nào cũng có. Kính sợ Trời là cơ bản đạo đức và khi Trời là chí tơn thì chỉ có thiên tử là người đã chịu mệnh Trời trị dân. Ngồi Trời thì thờ tổ tiên là trọng hơn cả, từ vua cho tới dân đều phải thờ còn Trời thì chỉ Thiên tử mới tế được. Quỷ cũng thiêng liêng như thần, con người ta tin rằng khi chết đi thân thể khơng cịn nhưng phần hồn cịn sẽ thành ra quỷ, có thể can thiệp vào cuộc sống của người và phù hộ con cháu.
Đến tận nay, việc thờ Trời, thờ quỷ thần và tổ tiên, thực chất cũng theo một lý và chuyển thành tông giáo được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và với người Việt Nam ta việc thờ tổ tiên cũng là một truyền thống lâu đời, là một minh chứng cho sự ảnh hưởng của Nho giáo từ trước.
Vì mọi việc đều theo thiên đạo và sùng tổ tiên nên các thế hệ vua đều lấy kinh nghiệm phép tắc của bậc cố nhân đi trước làm chuẩn trên học vấn, ln lý, chính trị. Và dưới vua có hai chức vụ quan Chúc (coi thiên sự) và quan Sử (coi nhân sự). Sử dụng những người phi thường đảm nhiệm các công việc liên quan đến việc Trời và nhân sự (con người) - lấy kinh nghiệm thời xưa mà áp dụng vào
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">thời nay. Hai chức vụ này là cái nền cho chính trị và luân lý, hầu hết các mối học thuyết đều xuất phát từ hai cái chức vụ này.
Cái đạo của các đế vương được lấy làm chính đạo nhưng khơng phải ai cũng được học nên cũng phải chịu khổ sở lắm điều. Dân được yên cư lạc nghiệp hay chịu nhiều hà khốc đều do vua. Do khơng có học nên khơng tránh khỏi điều mê tín. Và dựa vào thời thế bọn vu hích chuyên sử dụng những điều quái lạ, lấy thần thánh, ma quỷ đánh lừa người dân.
Khổng Tử là người theo đạo Nho, Ngài phát huy học thuyết của Nho gia làm cốt yếu cho tông giáo, có sức ảnh hưởng đến tư tưởng và hành động của nhân chúng. Nhưng tiếc một nỗi là thời ấy những học thuyết và tư tưởng ấy đi chệch so với tính chuộng thực tế, coi Trời là lý của người đời cổ nên thành ra không được phổ thơng và người dân thì tiếp tục đắm đuối mụ mị vào những điều mê tín. Dẫn đến thiên hạ rối loạn, nhà nước sụp đổ.
3. Khổng Phu Tử
Trong sử Tàu có một thời đại nhà Chu lên ngơi Thiên tử, khi cịn thịnh thì trật tự vẫn được phân minh, nhưng khi rơi vào thời kì suy nhược, mệnh lệnh Thiên tử cũng không ai theo, chiến tranh giữa các nước Chư hầu xảy ra kịch liệt. Thể chế chính trị của bộ máy nhà nước thời cổ cũng theo đó mà loạn lạc, nước này toan tính nước kia, Thiên tử cũng không đủ uy quyền mà ngăn cản. Thời đó được gọi là Xuân Thu thời đại. Nhưng theo đó, vì muốn cứu vớt thiên hạ, các
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">học thuyết mới hưng thịnh lên. Khổng Tử lấy cái đạo thánh hiền lập thành một học thuyết có hệ thống.
Khổng Tử là một vĩ nhân có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của xã hội, đạo Khổng của Ngài đã góp phần rất lớn đến tư tưởng văn hóa kể cả thời hiện đại. Khổng Tử họ Khổng tên Khâu, tự Trọng Ni nguyên quán ở Làng Xương Bình, nước Lỗ đời Chu. Nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Cha tên Hột, là một lực sĩ trứ danh đương thời. Có lần nước Tề tiến công nước Lỗ, quân Lỗ bị vây. Vào đêm, Khổng Hột chỉ huy 300 dũng sĩ phá được vịng vây, cứu thốt quan Đại Phu là Tạng Hột. Sau đó, cưới bà Nhan Thị, thân sinh Khổng Tử.
Khổng Tử sống trong thời đại phong kiến nhà Chu bắt đầu sụp đổ, từ khi còn trẻ Ngài đã nổi tiếng là người giỏi. Ngài vốn ni chí đi tìm minh chúa nhưng sự học của Ngài lại khơng được vua nước Lỗ trọng dụng. Ngài phải bỏ sang nước Tề khi trong nước có loạn nhưng đến năm 35, 36 tuổi Ngài về nước nhà dạy học trò và suy xét cho tường tận cái đạo của thánh hiền đời trước.
Tư tưởng của Khổng Tử khiến bao người suy tâm khổ tứ để nghiên cứu, cái đạo của Khổng Tử khiến ai học cho ai học cũng thành người có phẩm giá tơn q. Trong hành trình đi chu du thiên hạ, Ngài gặp vô vàn những trắc trở, nhưng cái tâm minh đức của Ngài không bị lay chuyển. Với Ngài đã à có tài trí thì phải dùng cho đời, chứ không phải vật vô dụng chỉ để trưng bày: “Ta há lại là quả
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">dưa chỉ để treo mà không ăn được hay sao”. Nhưng dù Ngài đi đến đâu cũng không thực hiện được cái đạo của mình. Thực chất việc ngài đi chu du mà không thực hiện được cái đạo ấy khơng phải vì cái học thuyết lúc bấy giờ không phù hợp mà do thời thế loạn lạc. Vua các nước chư hầu người thì đổ tại tuổi tác, họ ngại, ngại làm theo và truyền bá cái đạo ấy, người muốn trọng dụng Ngài thì bị quan Đại phu tìm cách ngăn trở. Người đời cũng phó mặc thiên hạ, khơng thiết gì đến cái lễ nghĩa ấy nữa, họ khởi xướng lên những cái chủ nghĩa tiêu cực, dẫu cho loạn lạc không phải ngày một ngày hai nhưng Khổng Tử muốn dùng cái tâm tích cực để vãn hồi. Cũng chính cái tâm sáng của Ngài không nhịn được trước điều ngang trái, không thể cúi trên luồn dưới và ngoảnh mặt làm ngơ trước cơ sự của thiên hạ nên chu du khắp nơi cũng khơng tìm được mái nhà tinh thần. Với Ngài địa vị cao thượng khơng phải là cái mục đích hướng đến, trong khi người đời khơng thốt khỏi trần tục thế gian, hướng đến tài sản vật chất, hướng đến cái đẹp hương hoa phù du, thì Ngài muốn thay đổi thiên hạ. Sau cùng do tuổi tác cũng đã già, Ngài chỉ cịn có thể đưa cái sự học mà mình có vào việc dạy học, đưa vào sách vở để bày tỏ cái đạo của Ngài về con đường chính trị.
Về hình dáng và cái đức độ của Ngài thì khơng cịn từ gì để miêu tả ngồi từ nhân hậu, từ đường nét khn mặt đều mang sự hiền hậu cao minh của một bậc thánh nhân, phong thái dáng đi đều thể hiện sự ung dung vẻ tự nhiên nhưng lại rất đỗi khoan thai. Dáng
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">vẻ mấy ai có được của những bậc hiền tài với sự học sâu, hiểu rộng. Nhưng cùng với vẻ ung dung ấy là con người cẩn thận, lễ nghi, là một tấm gương cho người ta học theo.
Ngài có tài cũng lại có đức, tấm lòng nhân hậu hễ ai đau đớn Ngài cũng thương xót. Tự hỏi thời nay mấy ai thương được hồn tồn cho người khác khi ai cũng có cái khổ của bản thân mà mãi chưa thoát ra được. Nhờ sự ơn hịa và thành thực như thế nên Ngài có đơng học trị và ai cũng kính trọng và yêu mến Ngài.
Và kể cả khi Ngài mất thì cái đức vọng của Khổng Tử vẫn được lưu truyền và cái đạo của Ngài cũng được tiến hóa cải thiện theo thời thế.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">KẾT LUẬN
Qua “Nho giáo”, em hiểu được thêm về xã hội thời cổ với những tư tưởng và tín ngưỡng của người Tàu, rất nhiều tư tưởng và tín ngưỡng có ảnh hưởng đến người Việt Nam ta và còn được lưu truyền đến bây giờ. Cái tài đức của Khổng Tử cũng được chúng nhân lưu lại nhưng có lẽ Nho giáo cũng là theo sự cần dùng của thời đại mà xuất hiện, y như cái luật nhân quả, nên đến cuối cuộc đời ông cũng không đạt được cái đạo mà mình muốn.
</div>