Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

KĨ NĂNG làm bài NGHỊ LUẬN về vấn đề xã hội tư một tác PHẨM văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.5 KB, 22 trang )

CHUYÊN ĐỀ: KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ
HỘI TƯ MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC

Nguyễn Thị Việt Hà
Trường THPT Nguyễn Tất Thành, Yên Bái

Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống, tư duy bằng ngôn ngữ; bày tỏ và bảo vệ chính kiến bản
thân; tranh luận, phản biện một vấn đề; thuyết phục người khác bằng lí lẽ là những
kĩ năng vô cùng cần thiết, thậm chí là một năng lực quan trọng để đến với thành
công trong cuộc sống. Chính vì vậy, trong chương trình Ngữ văn trung học phổ
thông, kĩ năng làm văn nghị luận được đặc biệt coi trọng, nhằm trang bị cho học
sinh những năng lực đã nói ở trên;
Một yêu cầu bức thiết đối với việc dạy - học văn hiện nay là phải hướng đến
thực tế cuộc sống, dạy văn là dạy Người, dạy cách sống, kĩ năng sống. Người học
văn không chỉ cảm nhận, thưởng thức tác phẩm nghệ thuật, quan trọng hơn phải
thấy được ý nghĩa xã hội, vấn đề nhân sinh được gửi gắm trong tác phẩm ấy; biết
liên hệ, vận dụng biến bài học thành kinh nghiệm, vốn sống, kĩ năng cần thiết trong
cuộc sống. Kiểu bài nghị luận vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn học là kiểu bài
gắn chặt mối quan hệ giữa đọc hiểu văn bản văn học với thực tế cuộc sống; nhằm
đáp ứng yêu cầu dạy - học văn nói trên.
Từ thực tế giảng dạy, người viết nhận thấy: So với hai kiểu bài nghị luận về
một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống, kiểu bài này khó hơn,
nhưng lại không có tiết lí thuyết dạy kĩ năng làm bài, học sinh vẫn chưa được học
cách làm dạng bài này. Trong chương trình Nâng cao, học sinh chỉ được học một
tiết: Luyện tập nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học ( Lớp 12);
còn trong chương trình chuẩn, dạng đề này có trong phần bài tập dù học sinh không
được học. Khó khăn nhất đối với học sinh là không phân biệt được đây là nghị luận
văn học hay là nghị luận xã hội, không biết phải bắt đầu triển khai vấn đề từ đâu và
triển khai như thế nào?


1


Xuất phát từ những lí do cơ bản trên, tôi chọn đề tài: "Kĩ năng làm bài nghị
luận vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn học" nhằm hướng dẫn học sinh các kĩ
năng cơ bản nhất để làm tốt kiểu bài nghị luận vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn
học.
2. Mục đích cuả đề tài
Đề tài nhằm cung cấp cho người đọc:
- Một số hiểu biết chung về văn nghị luận xã hội, Đặc điểm, yêu cầu của bài
nghị luận vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn học
- Kĩ năng làm bài nghị luận vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn học
- Vận dụng lí thuyết, hình thành và định hướng một số đề luyện tập dành cho
học sinh thi THPT quốc gia và học sinh giỏi các cấp.
Từ đó góp phần nâng cao kĩ năng làm văn nghị luận, kiểu bài nghị luận vấn
đề xã hội từ một tác phẩm văn học cho học sinh, đáp ứng yêu cầu dạy - học bộ môn
Ngữ văn.

2


Phần hai: NỘI DUNG
I. Một số hiểu biết chung về nghị luận xã hội
1. Nghị luận xã hội là gì?
“Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lí lẽ, phán đoán, chứng cứ
để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết học,
đạo đức). Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ. Luận là
bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta nhận
ra chân lí, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của mình. Sức mạnh
của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính mạch lạc, chặt chẽ của

suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận. Vận dụng các thao tác như giải
thích, phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh…” (Sách giáo khoa Ngữ Văn 11, tập
2).
Nghị luận xã hội là những bài văn bàn về xã hội, chính trị, đời sống. Đề tài
của dạng bài nghị luận xã hội cũng hết sức rộng mở. Nó gồm tất cả những vấn đề về
tư tưởng, đạo lí, một lối sống đẹp, một hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực trong cuộc
sống hàng ngày, vấn đề thiên nhiên môi trường, vấn đề hội nhập, toàn cầu hoá…
Nghĩa là, ngoài những tác phẩm nghị luận văn học (lấy tác phẩm văn học, nhà văn
làm đối tượng), tất cả các dạng văn bản viết khác đều có khả năng được xếp vào
dạng nghị luận xã hội, chính trị.
2. Những yêu cầu của một bài nghị luận xã hội
Một bài văn nghị luận xã hội phải đáp ứng các yêu cầu sau
2.1 Đảm bảo kĩ năng nghị luận nói chung: Hướng đến luận đề, làm sáng rõ
vấn đề nghị luận; luận điểm sáng rõ, nhất quán; lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác
đáng, giàu sức thuyết phục; cảm xúc chân thành.
2.2. Đảm bảo kiến thức mang màu sắc chính trị - xã hội: những hiểu biết về
chính trị, xã hội: những hiểu biết về chính trị - pháp luật, những kiến thức cơ bản về
3


truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, tâm lí - xã hội ... những tin tức thời sự cập
nhật.
2.3. Đảm bảo mục đích, tư tưởng đúng đắn, phù hợp với đạo lí, lẽ phải, tiến
bộ, nhân văn thể hiện trách nhiệm người viết với đất, gia đình, xã hội; tư tưởng
trong bài nghị luận xã hội phải là tư tưởng có cơ sở khách quan, góp phần làm sáng
tỏ một vấn đề có ý nghĩa thực tế. Tư tưởng phải trong sáng, lành mạnh có tính xây
dựng, tán thành hay không tán thành phải có lí do xác đáng; điều gì đúng, điều gì
sai phải chỉ ra cụ thể, nêu dẫn chứng có sức thuyết phục. Đó phải là tư tưởng chân
thật, tự nhiên của học sinh, không sao chép trong tài liệu với những sáo ngữ cũ
mòn.

2.4. Đảm bảo thể hiện chính kiến người viết: những cảm xúc, suy nghĩ chân
thực phù hợp với quan niệm, cá tính của bản thân; thể hiện tình cảm của người viết
đối với người đọc, với vấn đề được bàn.
2.5. Đảm bảo sự trong sáng trong diễn đạt. Lời văn nghị luận cần tự nhiên,
linh hoạt, giản dị, tối kị dùng những từ ngữ xa lạ, những từ ngữ mình không hiểu,
hoặc đưa từ ngữ bằng tiếng nước ngoài vào bài văn một cách không cần thiết.
3. Các dạng đề nghị luận xã hội chính
Đề nghị luận xã hội trong trường phổ thông có ba dạng chính
3.1 Nghị luận xã hội bàn về một tư tưởng, đạo lí
Với học sinh phổ thông, do tâm lí, lứa tuổi, tầm nhận thức nên những vấn đề
đặt ra bình luận không quá phức tạp, lớn lao, thường chỉ là những khía cạnh đạo
đức, tư tưởng gần gũi trong cuộc sống hàng ngày: tình bạn, lòng nhân ái, ý chí,
nghị lực ... Những vấn đề hoặc được nêu trực tiếp, hoặc được nêu dưới dạng câu
danh ngôn, tục ngữ, ngạn ngữ ...
Ví dụ:
Biết tự hào về bản thân là cần thiết nhưng biết xấu hổ còn quan trọng hơn.
Hãy viết một bài văn (khoảng 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý
kiến trên . (Đề thi tuyển sinh đại học khối C năm 2011)
Hoặc:
4


Trong thư gửi thày hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mĩ A. Lin - côn
(1809 - 1865) viết: "xin thày hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự
hơn gian lận khi thi" (Theo Ngữ văn 10, Tập hai, NXB Giáo dục, 2006, tr135).
Từ ý kiến trên, anh/chị hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày
suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống. (Đề thi
tuyển sinh đại học năm 2009 khối C)
3.2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống thường nêu một hiện tượng có

thật trong đời sống. Thường đó là những hiện tượng có ý nghĩa, quan trọng ảnh
hưởng rộng đến đời sống xã hội, thu hút sự quan tâm của dư luận, bao gồm hiện
tượng tích cực (tấm gương người tốt, việc tốt, nghĩa cử cao đẹp...) và tiêu cực (ô
nhiễm môi trường, thói xấu , tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông... )
Ví dụ 1:
Hiện nay, bạo lực học đường đang là tình trạng đáng báo động. Có người cho
rằng cá nhân gây ra bạo lực phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Lại có
người đi tìm nguyên nhân từ gia đình, nhà trường, xã hội. Ý kiến của anh (chị) về
vấn đề trên? (Trình bày trong một bài văn khoảng 600 từ).
Ví dụ 2:
Viết bài văn ngắn (khoảng 600 từ), trình bày suy nghĩ của anh/ chị về hiện
tượng một số bạn trẻ tự tạo scandal để được nổi tiếng.
3.3. Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Đây là dạng đề tổng hợp giữa làm văn và đọc văn, đòi hỏi học sinh phải có
kiến thức về cả hai mảng văn học và đời sống; kĩ năng đọc hiểu, phân tích văn học
và kĩ năng phân tích đánh giá các vấn đề xã hội. Nghĩa là có thể kiểm tra được
người viết cả kiến thức văn học và kiến thức xã hội.
Đây là kiểu bài nghị luận xã hội, tác phẩm văn học chỉ là cái cớ khởi đầu,
được khai thác về giá trị nội dung tư tưởng, ý nghĩa xã hội khái quát trong tác
phẩm. Mục đích chính của kiểu bài này là yêu cầu người viết bàn bạc nghị luận về
một vấn đề xã hội, tư tưởng, nhân sinh, hiện tượng đời sống đặt ra trong tác phẩm
5


văn học. Đó là vấn đề xã hội mang tính thời sự, tính giáo dục sâu sắc, phù hợp với
tâm lí học sinh trung học.
Vấn đề xã hội có khi được nêu sẵn trong đề bài, có khi người viết cần đọc –
hiểu, phân tích văn bản để rút ra vấn đề xã hội và ý nghĩa của vấn đề. Vấn đề xã hội
được lấy từ hai nguồn:
Tác phẩm văn học đã học trong chương trình. Ví dụ:

Từ hình ảnh đồng tiền trong "Truyện Kiều" (Nguyễn Du), suy nghĩ về đồng
tiền trong cuộc sống hiện đại.
Hoặc từ một câu chuyện nhỏ, một văn bản ngắn gọn mà học sinh chưa được
học, đề yêu cầu bàn về ý nghĩa xã hội đặt ra trong đó. Ví dụ:
Quả bóng đen
Một cậu bé da đen đang chơi đùa trên bãi cỏ, phía bên kia đường, một người
đàn ông đang thả nhẹ những quả bóng lên bầu trời, những quả bóng đủ màu sắc
xanh, đỏ, tím vàng và có cả qủa bóng màu đen nữa.
Cậu bé khoái chí, chạy tới chỗ người đàn ông hỏi nhỏ:
- Chú ơi những quả bóng màu đen có bay cao như những quả bóng khác
không ạ?
Người đàn ông quay lại, bất giác giấu đi những giọt nước mắt sắp lăn nhẹ
trên đôi gò má, ông chỉ lên những đám bóng bay lúc này chỉ còn những chấm nhỏ
và trả lời cậu bé:
- ...
Theo anh /chị, người đàn ông đã nói gì với cậu bé? Hãy trình bày những suy
nghĩ của mình về ý nghĩa câu chuyện trên bằng bài văn nghị luận khoảng 600 từ.
II. Những lỗi thường gặp khi làm bài nghị luận xã hội:
Từ thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy khi làm bài nghị luận xã hội, học sinh
hay mắc phải những lỗi sau đây:
Xác định sai vấn đề nghị luận/ dạng đề nghị luận;
Thao tác làm bài thiếu hoặc không rõ các bước;
Không cân đối độ dài các phần;
Lí lẽ sơ sài không thuyết phục;
6


Viết câu rườm rà, quá nhiều yếu tố biểu cảm làm mất sự hàm súc, rõ ràng cần
có của bài nghị luận xã hội.
Dẫn chứng quá ít, chung chung hoặc sa vào kể lể, thiếu dẫn chứng thực tế,

hoặc chỉ đưa ra dẫn chứng chứ không phân tích dẫn chứng.
Liên hệ quá máy móc, khuôn mẫu, chưa đưa được hướng hành động cụ thể
của bản thân.
Đối với dạng đề nghị luận vấn đề xã hội đặt ra từ một tác phẩm văn học, học
sinh thường:
Nhầm lẫn đề nghị luận vấn đề xã hội đặt ra từ một tác phẩm văn học với đề
nghị luận văn học.
Sa vào cắt nghĩa cái hay, vẻ đẹp của yếu tố ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật
trong văn bản, phần nghị luận vấn đề xã hội làm rất sơ sài, dẫn đến sai lệch trọng
tâm bài viết.
Suy diễn, áp đặt chủ quan, hiểu không chính xác nội dung tư tưởng cũng như
vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm.
III. Kĩ năng làm bài nghị luận về vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn học
1. Kĩ năng phân tích đề, tìm ý
Trong các bài nghị luận xã hội, học sinh phải phát biểu những suy nghĩ
nghiêm túc, chín chắn, sâu sắc của mình về một hiện tượng tốt, xấu trong đời sống
xã hội, về những vấn đề của cuộc sống từ chân lí vĩnh hẵng đến thời sự nóng hổi.
Muốn vậy, học sinh phải nhận thức đúng vấn đề mà đề bài yêu cầu, nghĩa là việc
xác định vấn đề phải đúng và trúng. Có thể nói kĩ năng cần thiết đầu tiên trong viết
văn nghị luận là kĩ năng nhận diện, phân tích đề.
1.1. Kĩ năng nhận diện và phân tích đề
Học sinh cần đọc kĩ đề, nhận diện kiểu đề: Nghị luận văn học hay nghị luận
xã hội? Dạng đề nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí? Một hiện tượng đời sống
hay nghị luận về vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn học? Nếu là đề nghị luận về
vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn học thì vấn đề đó là tư tưởng, đạo lí hay hiện
tượng đời sống? vấn đề xã hội cho sẵn trong đề (đề nổi) hay người viết phải tự tìm
ra (đề chìm). Có nhận diện đúng kiểu đề học sinh mới xây dựng cấu trúc bài, hệ
thống ý phù hợp thuận lợi (vì mỗi dạng đề có mô hình riêng)
7



Phân tích đề là xác định: yêu cầu nội dung - vấn đề nghị luận; yêu cầu thao
tác lập luận; Yêu cầu phạm vi tư liệu dẫn chứng. Trong đó, nhận thức và phát hiện
đúng vấn đề là khâu quan trọng, làm được điều này học sinh tránh bị lạc đề, xa đề.
Với kiểu bài nghị luận vấn đề xã hội từ tác phẩm văn học lại càng khó, vì người viết
phải tự xác định vấn đề xã hội trong tác phẩm theo cảm nhận và năng lực chủ quan
của mình.
Muốn vậy, thày cô cần cho học sinh tiếp xúc các dạng đề đưới nhiều hình
thức bài tập để các em rèn luyện năng lực đọc hiểu văn bản, năng lực tư duy, nhận
thức tìm cách giải quyết vấn đề.
1.2. Kĩ năng tìm ý
Ý, là những những nội dung chính tạo nên nội dung cơ bản của một bài viết.
Lập ý là một quá trình suy nghĩ (có ý thức) nhằm định ra các nội dung cơ bản của
bài viết trước khi diễn đạt thành văn.
Lập ý là một kỹ năng quan trọng cần hình thành và rèn luyện. Có thể khẳng
định nếu một học sinh có kỹ năng lập dàn ý tốt thì bài làm của học sinh đó sẽ đạt
kết quả cao, ngược lại nếu một học sinh có kỹ năng diễn đạt tốt nhưng kỹ năng lập
dàn ý không tốt thì có đến 90,8% bài làm của học sinh đó không đạt yêu cầu. Việc
lập ý giúp cho học sinh bao quát được những nội dung chủ yếu, những ý cơ bản cần
triển khai cũng như xác định được phạm vi nghị luận và mức độ triển khai các ý cơ
bản (ý chính) trong bài văn... nhờ đó mà tránh được tình trạng xa đề, lạc đề hoặc lặp
ý; tránh được việc bỏ sót hoặc triển khai không cân đối; phân phối thời gian làm bài
hợp lý. Song học sinh thường ít chú ý rèn luyện kĩ năng và thói quen lập ý trước khi
viết bài. Các bước lập ý bao gồm:
- Xác định luận đề: bằng cách xác định các từ ngữ, chi tiết then chốt (là
nhan đề, những từ ngữ, chi tiết lặp đi lặp lại, gợi hình tượng, những thuật ngữ,
những cụm từ ngữ đóng vai trò là câu chủ đề...) trong đề bài hoặc văn bản.
Giải thích ý nghĩa của các từ ngữ, chi tiết then chốt vừa tìm được.
Đặt ý nghĩa của các từ ngữ, chi tiết then chốt vào trong chỉnh thể của đề bài
và khái quát thành luận đề.


8


Ví dụ 1 (đề cho sẵn vấn đề xã hội cần nghị luận):
Từ hình ảnh đồng tiền trong "Truyện Kiều" (Nguyễn Du), suy nghĩ về đồng
tiền trong cuộc sống hiện đại.
Vấn đề nghị luận là: vai trò, bản chất của đồng tiền, quan niệm, thái độ ứng
xử cuả con người với đồng tiền.
Ví dụ 2 ( đề văn chưa cho sẵn vấn đề xã hội)
Quả bóng đen
Một cậu bé da đen đang chơi đùa trên bãi cỏ, phía bên kia đường, một người
đàn ông đang thả nhẹ những quả bóng lên bầu trời, những quả bóng đủ màu sắc
xanh, đỏ, tím vàng và có cả qủa bóng màu đen nữa.
Cậu bé khoái chí, chạy tới chỗ người đàn ông hỏi nhỏ:
- Chú ơi những quả bóng màu đen có bay cao như những quả bóng khác
không ạ?
Người đàn ông quay lại, bất giác giấu đi những giọt nước mắt sắp lăn nhẹ
trên đôi gò má, ông chỉ lên những đám bóng bay lúc này chỉ còn những chấm nhỏ
và trả lời cậu bé:
- ...
Cần phát hiện các từ ngữ, chi tiết then chốt, đọc hiểu ý nghĩa các từ ngữ, hình
ảnh đó để rút ra ý nghĩa văn bản - vấn đề xã hội cần nghị luận. Dạng đề này yêu
cầu người viết phải có kĩ năng đọc hiểu văn bản tốt, khả năng tư duy suy luận độc
lập, vì vậy dạng đề này thường dành cho học sinh giỏi, trong thi chọn học sinh giỏi
các cấp. Ở văn bản trên, cần chú ý các chi tiết:
Quả bóng đen màu sắc không hấp dẫn bằng quả bóng khác. Đây là hình ảnh ẩn
dụ cho người da đen, vốn bị coi là hèn kém, bị phân biệt đối xử (khi vẫn còn nạn
phân biệt chủng tộc). Bay lên trời cao tượng trưng cho thành công, hạnh phúc. Tuy
nhiên, sự khác biệt bề ngoài không ngăn cản quả bóng đen bay lên trời cao như

những quả bóng khác. Vậy, ý nghĩa văn bản - vấn đề xã hội cần nghị luận là: Hoàn
cảnh xuất thân, giống nòi hay ngoại hình không làm nên giá trị con người, không
phải là yếu tố dẫn đến thành công, hạnh phúc.
- Lập ý bằng cách đặt câu hỏi :
9


Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm là một tư tưởng, đạo lí, quan niệm
nhân sinh, câu hỏi có thể là: Là gì? Như thế nào? Vì sao lại thế? Biểu hiện? Ý
nghĩa?
Ví dụ: đề văn Từ hình ảnh đồng tiền trong "Truyện Kiều" (Nguyễn Du), suy
nghĩ về đồng tiền trong cuộc sống hiện đại.
Câu hỏi sẽ là: Tiền là gì? Vai trò vị trí, bản chất đồng tiền trong Truyện Kiều
cuả Nguyễn Du? Trong đời sống hiện đại? Thái độ ứng xử của con người với đồng
tiền trong thực tế cuộc sống? Bài học nhận thức, cách ứng xử đúng với đồng tiền?
Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một hiện tượng đời sống,
câu hỏi thường là: Hiện tượng đó là tích cực, tiêu cực? Mô tả hiện tượng? Ảnh
hưởng? Đánh giá? Bài học rút ra?
Ví dụ: Đọc truyện Tấm Cám, anh/ chị có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa
người tốt và kẻ xấu, cái thiện và cái ác trong xã hội xưa và nay.
Có thể đặt câu hỏi: cuộc đấu tranh giữa người tốt và kẻ xấu, cái thiện và cái
ác diễn ra như thế nào trong truyện? trong thực tế đời sống? tính chất quyết liệt? kết
quả? nguyên nhân? Thái độ con người với cái ác, cái xấu?
- Lập ý bằng cách xây dựng bản đồ tư duy theo bốn bước
Bước 1, xác định từ khóa, hình ảnh thể hiện ý tưởng trung tâm của bản đồ.
Bước 2, từ ý tưởng trung tâm, triển khai ý tưởng này triển khai ý tưởng này thành
các nhánh. Mỗi nhánh thể hiện một khía cạnh, vấn đề cụ thể hóa cho trung tâm
điểm. Bước 3, tổ chức lại bản đồ tư duy bằng cách lược bỏ bớt những yếu tố không
cần thiết, đánh dấu thứ tự các nhánh theo logic nhất định. Bước 4, Hoàn thiện bản
đồ tư duy.

1.3. Lập dàn ý:
Lập dàn ý là sắp xếp các ý theo trình tự hợp lí, lô gic, chặt chẽ, theo bố cục
cảu một văn bản: Nêu vấn đề, triển khai vấn đề, kết luận về vấn đề ( mở bài - thân
bài - kết bài). Mô hình bài nghị luận vấn đề xã hội từ một tác tác phẩm văn học
thường như sau:

10


a. Mở bài
- Dẫn dắt vấn đề
- Giới thiệu tác phẩm có chứa vấn đề xã hội cần nghị luận
b. Thân bài
* Giới thiệu và phân tích vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học:
Phân tích ngắn gọn văn bản văn học, khái quát chủ đề tác phẩm từ đó rút ra
vấn đề xã hội cần nghị luận.
* Nghị luận về vấn đề xã hội dặt ra trong tác phẩm văn học (tùy thuộc và
vấn đề nghị luận)
- Với vấn đề là một tư tưởng, đạo lí, quan niệm nhân sinh ... cần vận dụng mô
hình:
+ Giải thích khái niệm
+ Phân tích, lí giải
+ Bình luận đánh giá.
- Với vấn đề là một hiện tượng đời sống, cần vận dụng mô hình
+ Giới thiệu thực trạng
+ Phân tích và bình luận nguyên nhân
+ Kết quả (hậu quả)
+ Đề xuất ý kiến (giải pháp)
* Rút ra bài học cho bản thân
- Về nhận thức: hiểu và nhận thức đúng về vấn đề xã hội đó.

- Về hành động: Hành động, thái độ ứng xử của bản thân với vấn đề xã hội:
cần làm gì? lầm như thế nào?
c. Kết bài: Đánh giá ý nghĩa của vấn đề xã hội trong tác phẩm..
2. Kĩ năng xây dựng luận điểm cho bài văn
Nhận thức đề là cơ sở cho việc tìm ý và xây dựng hệ thống ý lớn cho bài văn.
Tư tưởng, suy nghĩ của người viết được thể hiện thông qua các luận điểm. Luận
điểm là sợi chỉ đỏ là xương sống của bài nghị luận. Hệ thống luận điểm có rõ ràng,
11


chính xác, bài văn mới có phương hướng, có nội dung đủ và sâu sắc. Luận điểm
phải phản ánh đúng bản chất vấn đề, phù hợp với đối tượng bàn luận; luận điểm
phải sáng rõ, nổi bật, nhờ luận điểm mà người đọc nhận thức vấn đề sâu sắc; luận
điểm cần đưa ra những ý mới, ý hay, đem đến cho người đọc nhận thức mới.
Muốn vậy, trong quá trình làm bài, học sinh phải luôn có ý thức bám sát yêu
cầu đề. Các luận điểm được triển khai theo hướng tập trung và làm sáng rõ luận đề.
Luôn tự đặt ra câu hỏi: Là gì? Như thế nào? Vì sao? Cần làm gì? Nhận thức và hành
động như thế nào? Cần lật đi lật lại vấn đề, bên cạnh chính đề cần tìm ý phản đề hay
đặt ra những giả định. Điều đó khiến vấn đề được nhìn nhận, đánh giá ở nhiều góc
độ, giúp luận điểm thêm sâu sắc và thuyết phục.
3. Kĩ năng diễn đạt
Theo từ điển, diễn đạt là làm rõ ý nghĩ, tình cảm bằng hình thức nào đó. Diễn
đạt trong văn nghị luận có thể hiểu là trình bày ý nghĩ, tình cảm bằng lời văn trong
sáng, mạch lạc, giàu hình ảnh, lô - gic, chặt chẽ, có giọng điệu phù hợp...
Rèn kĩ năng diễn đạt trong văn nghị luận bao gồm: rèn kĩ năng vận dụng phối
hợp linh hoạt các thao tác lập luận để giải thích, phân tích, bình luận vấn đề, làm
cho vấn đề được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau; Kĩ năng sử dụng từ ngữ
chính xác, đúng phong cách, giàu hình tượng, biểu cảm. Kĩ năng sử dụng kết hợp
các kiểu câu, các biện pháp tu từ cú pháp để lời văn hấp dẫn, chặt chẽ, phong phú
về sắc thái biểu cảm; Tạo giọng điệu phù hợp với nội dung nghị luận; Kĩ năng trình

bày văn bản khoa học, mạch lạc.
Rèn luyện kĩ năng viết bài là khâu công phu đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ, phải
qua rèn luyện, trau dồi mới dần hoàn thiện. Từ cách lập luận, trình bày các ý chính,
đến ý nhỏ; sự kết hợp giữa lí lẽ và dẫn chứng; đến cách sử dụng dẫn chứng sao cho
hiệu quả và "nghệ thuật"; cách diễn đạt sao cho vừa khoa học, logic mà vẫn phải
đượm "chất văn".
Cách tốt nhất, học sinh cần luyện viết những đoạn văn ngắn, rồi phát triển
dần dần đến khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Nên viết đoạn văn có câu chủ đề.
Đoạn văn cần được thể hiện bằng cách nêu rõ ý chính cần viết là gì, triển khai cho
luận điểm nào, được phân tích, làm sáng rõ bằng lí lẽ, dẫn chứng nào?
12


Bên cạnh đó cần luyện cánh trình bày cho khoa học: viết đúng chính tả,
chuyển ý phải xuống dòng và triển khai thành đoạn khác một cách rõ ràng để người
đọc dễ theo dõi, thể thức trình văn bản.
4. Kĩ năng lựa chọn và sử dụng dẫn chứng
Là việc huy động dẫn chứng, chọn dẫn chứng cho phong phú, đa dạng và sử
dụng hiệu quả. Bao gồm những việc sau:
4.1. Ghi chép, tích lũy kiến thức xã hội:
Các lĩnh vực xã hội làm đề tài cho bài văn nghị luận xã hội rất đa dạng, nên
kiến thức phục vụ cho bài làm của học sinh là rất phong phú. Vì vậy học sinh phải
có ý thức quan sát, tìm hiểu, ghi chép, để vận dụng vào bài viết. Kiến thức có thể
được huy động từ các nguồn:
Kiến thức từ sách vở: Chủ yếu từ báo chí, sách tham khảo về các lĩnh vực của
cuộc sống, từ văn học, lịch sử, khoa học, tôn giáo, sách về gương người tốt việc tốt
…" Hạt giống tâm hồn", "Hạt giống hạnh phúc", "Suy nghĩ của những người trẻ",…
Điều quan trọng cùng các em tìm và lựa chọn sách cần thiết để học, biết cách đọc,
hệ thống hóa kiến thức.
Kiến thức từ đời sống: Hiểu biết, tích lũy hoặc từ đời sống hàng ngày của bản

thân người viết, yêu cầu học sinh có thói quen quan sát cuộc sống, những hoạt
động, sự việc, những vấn đề từ cuộc sống xung quanh quan trọng hơn là biết suy
nghĩ, suy xét những gì mình nghe được, quan sát được. Trên cơ sở đó, biết lựa
chọn, nắm bắt lấy bản chất vấn đề.
Kiến thức từ trải nghiệm bản thân, đây sẽ là ví dụ minh họa sống đúng, có
sức thuyết phục nếu nó được vận dụng vào bài văn một cách tự nhiên, chân thành.
Cần tạo thói quen quan tâm, theo dõi những vấn đề nóng, gây nhiều tranh
luận, những sự kiện lớn, trào lưu trong đời sống xã hội, chuyện về những người nổi
tiếng, tấm gương tốt ... diễn ra hàng ngày.
Ghi chép và phân loại dẫn chứng theo chủ đề, nên ghi chép dẫn chứng theo
hai ý: khái quát ngắn gọn nội dung dẫn chứng, và ý nghĩa, bài học rút ra từ dẫn
chứng.
Ví dụ: Bill Gates sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hoa Kì. Từ nhỏ ông đã
say mê toán học, từng đậu vào nghành luật của trường đại học Harvad nhưng với
13


niềm say mê máy tính ông đã nghỉ học và cùng với một người bạn mở công ty
Microsoft. Vượt qua nhiều khó khăn ông đã trở thành người giàu nhất hành tinh và
hiện nay ông giành 95% tài sản của mình để làm từ thiện. Thành công nhờ sự tự
học và niềm đam mê công việc.
Thuở thiếu thời Picaso là một hoạ sĩ vô danh, nghèo túng ở Pa ris. Đến lúc
chỉ còn 15 đồng bạc, ông quyết định đánh canh bạc cuối cùng. Ông thuê sinh viên
dạo các cửa hàng tranh và hỏi " Ở đây có bán tranh của Picaso không?". Chưa đầy
một tháng tên tuổi của ông đã nổi tiếng khắp Paris, tranh của ông bán đước và nổi
tiếng từ đó. Nếu không tự tạo cơ hội cho chính mình thì chẳng bao giờ ta có cơ
hội cả...
4.2 Kĩ năng trích dẫn dẫn chứng
Yêu cầu dẫn chứng phải chính xác; dẫn chứng phải đủ trong phạm vi yêu
càu của đề về tư tiệu; dẫn chứng phải tiêu biểu, xác đáng, có tính mới. Khi lấy dẫn

chứng cần chú ý đến tính hệ thống, sắp xếp theo trục thời gian tuyến tính, không
gian từ xa đến gần ...
Trong bài nghị luận xã hội, cần hạn chế dùng dẫn chứng văn học (nhiều nhất
một dẫn chứng văn học), nên ưu tiên dùng dẫn chứng thực tế. Nêu dẫn chứng cần
ngắn gọn, chính xác tránh kể lể, tối kị kể thành câu chuyện dài dòng. Dẫn chứng
phong phú, mõi dẫn chứng phải giúp làm sáng luận điểm. Cần phân tích dẫn chứng
để làm rõ lí lẽ cần chứng minh. Nên sử dụng nhiều loại dẫn chứng: dẫn chứng lấy từ
thực tế đời sống, dẫn chứng là một câu chuyện ngụ ngôn, có ẩn ý (khái quát ngắn
gọn), dẫn chứng là một danh ngôn, tục ngữ ...
III. Một số đề luyện tập , rèn kĩ năng làm bài nghị luận vấn đề xã hội từ
một tác phẩm văn học
1. Đề số 1: Từ truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu,
anh/chị hãy phát biểu suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình.
1.1 Phân tích đề
- Kiểu đề: + Nghị luận vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn học đã học.
+ Vấn đề nghị luận là một hiện tượng đời sống
14


- Yêu cầu
+ Nội dung: Từ vấn đề người chồng đánh vợ trong truyện ngắn Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu bàn luận về nạn bạo hành gia đình.
+ Thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận
+ Phạm vi tư liệu: Thực tế xã hội
1.2. Tìm ý, lập dàn ý
* Mở bài
- Khái quát thực trạng nạn bạo hành gia đình trong xã hội hiện nay.
- Dẫn dắt vào tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
* Thân bài
** Nêu hoàn cảnh xuất hiện vấn đề có ý nghĩa xã hội

- Sau khi chụp được bức ảnh “đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” phóng viên
Phùng lại chứng kiến cảnh người đàn ông hàng chài đánh vợ một cách dã man, độc
ác. Từ hành động vũ phu đó của người đàn ông hàng chài, Nguyễn Minh Châu đã
cho chúng ta suy nghĩ nhiều về hiện tượng bạo hành gia đình.
- Tóm tắt cảnh bạo hành trong gia đình hàng chài trong tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa:
+ Người đàn bà sau một đêm kéo lưới mệt mỏi, quần áo ướt sũng, hai con
mắt như đang buồn ngủ thì lại bị người chồng lôi lên bờ đánh tới tấp, lăng nhục đau
khổ
+ Trước hành động vũ phu của chồng người đàn bà vẫn cam chịu, không van
xin, luôn sống trong cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” từ người
chồng thô bạo, vũ phu.
+ Nhìn thấy mẹ bị đánh, thằng Phác - đứa con trai đã lao thẳng vào đánh bố.
Hành động thô bạo của hai cha con, người mẹ vô cùng thất vọng. Đó chính là hành
động bạo lực.
** Thực hiện các thao tác nghị luận
– Giải thích vấn đề bạo hành gia đình: Bạo hành gia đình là hiện tượng hành
15


động trấn áp người khác bằng lời nói, hành động, là sự khống chế, đàn áp về cả tinh
thần và thể xác để xúc phạm tinh thần nhau của những thành viên trong gia đình.
- Thực trạng
+ Thực trạng của hiện tượng bạo hành gia đình: Là vấn đề xã hội bức thiết
của một quốc gia nhất là ở những nước kém phát triển và đang phát triển tình trạng
này diễn ra thường xuyên.
++ Theo số liệu điều tra dân số tỉ lệ bạo hành xảy ra ở cả thành thị lẫn nông
thôn, trong đó bạo hành gia đình xảy ra ở thành thị nhiều hơn ở nông thôn và miền
núi (dẫn chứng cụ thể: số liệu thống kê, vụ việc đau lòng...)
++ Bạo hành xảy ra dưới nhiều hình thức: vợ chồng đánh đập nhau, cháu,

con chửi rủa ông bà, dùng những lời lẽ không tốt đẹp để nói về nhau…
+ Hậu quả của bạo hành gia đình: Bạo hành gia đình xảy ra để lại hậu quả
đáng thương, con mất mẹ, cháu mất ông bà, cha mẹ con cái từ nhau… gây ra biết
bao tệ nạn xã hội.
- Nguyên nhân:
+ Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa anh hàng chài vì phải lo toan, bươn
chải gánh nặng gia đình, vì đói vì nghèo mà đánh đập vợ con để giải tỏa tâm hồn.
+ Thực tế xã hội phức tạp hơn: Đó là do cái nghèo, cái khổ của cuộc sống xô
bồ của xã hội, do ý thức, đạo đức biến chất tha hóa của một bộ phận người trong xã
hội.
- Giải pháp:
+ Để giải quyết vấn đề bạo lực gia đình cần có sự kết hợp của các cơ quan
đoàn thể, các tổ chức trong xã hội…Đảng và nhà nước cần có biện pháp tích cực
như tuyền truyên vận động mọi người giáo dục mỗi công dân về hạnh phúc gia
đình.
+ Phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ có hành vi bạo lực gia đình.
+ Đưa ra những chính sách bảo vệ cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân.
16


* * Rút ra bài học cho bản thân
- Nhận thức: Một gia đình hạnh phúc, một xã hội nhân văn khi giá trị con
người được đặt lên hàng cao nhất.
Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thảo mãn
lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ người khác trên vai mình. (Đời thừa - nam
Cao)
- Hành động: Lên án đấu tranh chống bạo hành trong gia đình; Tu dưỡng, rèn
luyện bản thân để biết chung sống, yêu thương, trân trọng con người ....
* Kết bài: Đánh giá ý nghĩa của vấn đề xã hội trong tác phẩm

2. Đề số 2
Khả năng sáng tạo
Khi sắp hoàn thành việc tạo lập loài người, Thượng Đế họp mặt tất cả muôn
loài và nói: “ Ta còn một món quà tặng đặc biệt dành cho tất cả loài người nhưng
ta muốn giấu họ, ta muốn ban cho họ chỉ khi họ đã sẵn sằng. Đó chính là khả năng
sáng tạo ”.
Đại bàng nói: “ Hãy trao nó cho ta, ta sẽ đem nó lên mặt trăng”.
Thượng đế đáp: “ Không được, sẽ có một ngày loài người cũng lên đến đó và
tìm thấy nó thôi !”.
Cá hồi nói: “Ta sẽ chôn nó ở đáy đại dương”.
Ngài lắc đầu: “ Không đâu, họ cũng sẽ tìm đến đó dễ dàng”.
Trâu nói: “ Ta sẽ chôn nó trong đồng bằng mênh mông”.
Thượng đế vẫn chưa bằng lòng: “ Họ sẽ khoan sâu vào lòng đất, dù là ở đâu họ
cũng nhanh chóng tìm ra nó!”.
Mẹ Đất lúc đó mới nhẹ nhàng chỉ ra một chỗ: “ Hãy đem khả năng sáng tạo
giấu vào bên trong mỗi con người.”
Và thượng đế đồng ý.
Thụy Khanh – ( từ intenet)
Suy nghĩ của anh (chị) khi đọc mẩu chuyện trên.
2.1.Phân tích đề
- Kiểu đề: + Nghị luận vấn đề xã hội từ một văn bản văn học chưa học.
17


+ Vấn đề nghị luận là một tư tưởng đạo lí, chưa được nêu trong đề
- Yêu cầu
+ Nội dung: Khả năng sáng tạo của con người.
+ Thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận
+ Phạm vi tư liệu: Thực tế xã hội
2.2. Tìm ý, lập dàn ý

* Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu văn bản và vấn đề cần nghị luận
* Thân bài:
** Khái quát nội dung và ý nghĩa câu chuyện
- Truyện kể về cuộc đối thoại giữa Thượng đế và muôn loài. Người muốn
tặng cho loài người một món quà là khả năng sáng tạo nhưng phân vân không biết
đặt nó vào chỗ nào. Sau vài lời đề nghị, Thượng đế quyết định giấu khả năng sáng
tạo vào bên trong mỗi con người.
- Câu chuyện ngắn gọn, giản dị nhưng lại đặt ra vấn đề rất lớn đối với con
người: ẩn trong mỗi chúng ta đều có khả năng sáng tạo. Đó là một món quà vô giá,
phải biết trân trọng và khơi dậy nó.
** Nghị luận về khả năng sáng tạo của con người
- Giải thích: Sáng tạo là năng lực trong con người đưa ra những ý tưởng,
phát kiến mới.
- Phân tích, chứng minh: khả năng sáng tạo trong con người trong suốt
chiều dài lịch sử tồn tại và phát triển của mình. (lấy dẫn chứng cụ thể để phân tích)
- Bàn luận
+ Khả năng sáng tạo có vai trò rất quan trong trọng sự tồn tại, phát triển của
con người. Nó có trong mỗi con người nhưng không phải ai cũng biết cách khơi dậy
để phục vụ cho cuộc sống của mình.
+ Làm thế nào để khơi dậy sáng tạo? Cần không ngừng học hỏi để có tiền đề
cho sự sáng tạo, luôn lao động chăm chỉ và tích cực ngẫm nghĩ, dành thời gian cho
sự sáng tạo, tìm đến những không gian sáng tạo và người giàu tính sáng tạo…
+ Chỉ ra một số quan điểm sai lầm về khả năng sáng tạo: sáng tạo là chuyện
dễ dàng, sáng tạo chỉ có ở tuổi trẻ, chỉ cần sáng tạo là có thể thành công, phê phán
những người sống ỷ lại, máy móc, trì trệ, hay viển vông, sáo rỗng…
18


* Kết bài: Khẳng định ý nghĩa vấn đề, liên hệ bản thân.
3. Đề số 3

Cho văn bản
“ Mỗi sáng, ở châu Phi có một con linh dương thức dậy. Nó biết rằng nó
phảỉ chạy nhanh hơn con sư tử nhanh nhất, nếu không nó sẽ bị chết.
Mỗi sáng, ở châu Phi có một con sư tử thức dậy. Nó biết rằng nó phảỉ chạy
nhanh hơn con linh dương chậm nhất, nếu không nó sẽ bị chết đói.
Điều quan trọng không phải việc bạn là sư tử hay linh dương. Khi mặt trời
mọc, bạn nên bắt đầu chạy.”
(Theo Frederman – Thế giới phẳng)
Đặt nhan đề và trình bày suy nghĩ của anh/ chị về văn bản trên.
3.1.Phân tích đề
- Kiểu đề: + Nghị luận vấn đề xã hội từ một văn bản văn học chưa học.
+ Vấn đề nghị luận là một tư tưởng đạo lí, chưa được nêu trên đề bài
- Yêu cầu
+ Nội dung: Khả năng sáng tạo của con người.
+ Thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận
+ Phạm vi tư liệu: Thực tế xã hội
3.2. Tìm ý, lập dàn ý
* Mở bài: Dẫn dắt, nêu văn bản được vấn đề cần nghị luận.
* Thân bài:
** Khái quát nội dung và ý nghĩa câu chuyện
- Có thể đặt nhan đề cho văn bản trên là Chạy.
- Con linh dương – con mồi, sư tử - săn mồi phải chạy vì bản năng sinh tồn
của loài, nếu không chạy chúng sẽ bị ăn thịt hoặc bị chết đói.
- Con người cũng phải “chạy” - tích cực vận động: học tập mở mang tri thức,
phát triển năng lực, rèn luyện nâng cao bản thân, để theo kịp thời đại.
- Vấn đề nghị luận: Con người phải luôn nỗ lực vận động, phấn đấu vươn lên
để bắt kịp và thích ứng với cuộc sống. Đó là vấn đề sống còn trong thời đại ngày
nay.

19



** Nghị luận về sự nỗ lực vận động, phấn đấu vươn lên để bắt kịp và thích ứng
với cuộc sống
- Giải thích: Chạỵ là hoạt động dời chỗ với tốc độ cao, đòi hỏi sự cố gắng
nỗ lực hết sức. Người ta thường chạy khi có sự hối thúc gấp gáp nào đó: thời gian,
hoàn cảnh; sức khỏe, sự sống còn …
- Bình luận:
+ Văn bản trên nêu lên một vấn đề sống còn với con người hiện đại nếu
muốn tồn tại và phát triển. Xã hội không ngừng phát triển, cuộc sống thay đổi từng
giờ, con người không thể đứng yên mà phải chạy – mở mang tri thức, học tập
thường xuyên để không ngừng nâng cao, hoàn thiện bản thân đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao, theo kịp thời đại. Nếu không con người sẽ bị tụt hậu, bị đào thải khỏi xã
hội.
+ Việc chạy diễn ra thường xuyên "mỗi ngày"; với tất cả mọi người: mạnh yếu, giàu – nghèo; sang – hèn… tùy theo hoàn cảnh, điều kiện, lí tưởng sống, mỗi
người có điểm đến khác nhau " không phải bạn là linh dương hay sư tử"; hơn nữa
phải chạy một cách nỗ lực, quyết tâm cao ngay từ đầu " khi mặt trời mọc".
+ Để sống, linh dương, sư tử phải chạy; sư tử phải ăn thịt linh dương - bản
năng sinh tồn của loài. Con người chạy, trước hết để sống, tồn tại nhưng không thể
vì hạnh phúc, quyền lợi bản thân mà giẫm đạp lên sự sống, hạnh phúc của người
khác. Con người chạy còn để theo đuổi mục tiêu cao đẹp: phát triển năng lực, hoàn
thiện bản thân; thực hiện mơ ước, hoài bão cao cả, xây dựng cuộc sống tươi đẹp,
thúc đẩy sự phát triển của xã hội …
+ Dù chạy để theo kịp thời đại, song đôi khi con người cũng phải biết “dừng
lại”, để lắng nghe bản thân; cảm nhận và hưởng thụ hạnh phúc mình đang có. Chạy
chính là để sống tốt hơn.
- Bài học liên hệ
+ Định hướng mục đích sống cao đẹp, đích đến rõ ràng, đúng mong muốn,
phù hợp với năng lực bản thân; chuẩn mực đạo đức; lí tưởng chung của cộng đồng.
+ Chuẩn bị hành trang: tri thức, sức khỏe, bản lĩnh, quyết tâm để sẵn sàng

chạy đua trong thế giới phẳng. Biết chạy và cùng chạy với mọi người.
* Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa quan trọng vấn đề.
20


Phần ba: KẾT LUẬN
Văn nghị luận nói chung, nghị luận xã hội nói riêng là loại văn bản tiêu biểu,
thể hiện rõ nét nhất năng lực học văn của học sinh trong nhà trường học sinh. Bài
văn nghị luận là kết quả cụ thể, thuyết phục nhất của quá trình dạy - học văn, thể
hiện tư tưởng, nhận thức, năng lực tư duy; năng lực đọc hiểu, năng lực diễn đạt của
người học. Vì vậy, bên cạnh trau dồi kiến thức văn học, Tiếng Việt, việc dạy - rèn
kĩ năng làm văn nghị luận cho học sinh là điều vô cùng quan trọng, cũng là việc
khó nhất, đòi hỏi nhiều tâm huyết nhất của người dạy văn.
Nói riêng về kiểu bài nghị luận vấn đề xã hội từ tác một tác phẩm văn học một dạng bài khó, đòi hỏi những kĩ năng tổng hợp tổng hợp giữa làm văn và đọc
văn, đòi hỏi học sinh phải có kiến thức về cả hai mảng văn học và đời sống. Chúng
tôi nhận thấy tâm lí chung của người dạy và người học là ngại khó, ngại khổ;
chương trình học chính khóa không có tiết dạy riêng, lại thêm kiểu bài này thường
chỉ xuất hiện trong đề thi chọn học sinh giỏi các cấp nên rèn kĩ năng làm bài nghị
luận vấn đề xã hội từ một tác phẩm văn học ít được đầu tư, quan tâm tương xứng
với vai trò, tầm quan trọng của nó.
Với chủ trương đổi mới phương pháp dạy văn, hướng đến mục đích rút ngắn
khoảng cách văn học với cuộc sống, biến kiến thức sách vở thành kĩ năng sống,
hình thành và nâng cao năng lực nhận thức, năng lực tư duy, năng lực diễn đạt cho
học sinh, chúng ta càng cần chú ý trang bị kiến thức và kĩ năng làm kiểu bài này cho
mọi đối tượng học sinh, không nên coi đây là kiểu bài dành riêng cho học sinh
chuyên Văn, học sinh giỏi; bó hẹp phạm vi dạy trong tiết ôn luyện đội tuyển.
Kĩ năng làm bài nghị luận vấn đề xã hội từ tác một tác phẩm văn học không
nằm ngoài kĩ năng làm văn nghị nói chung, nghị luận xã hội nói riêng. Ngoài ra do
đặc điểm của kiểu bài, giáo viên cần chú trọng hướng dẫn, nâng cao năng lực đọc
hiểu văn bản, cảm thụ văn học, khả năng tư duy sáng tạo cuả người viết. Kĩ năng

diễn đạt cho học sinh. Luôn nhớ lựa chọn phương pháp, đặt yêu cầu phải phù hợp
với đối tượng học sinh, có kế hoạch dài hơi trong việc rèn kĩ năng viết văn cho học
sinh.
21


Xuất phát từ kinh nghiệm tích lũy trong quá trình giảng dạy, chúng tôi mạnh
dạn đưa ra một số phương pháp hướng dẫn kĩ năng viết bài nghị luận vấn đề xã hội
từ tác một tác phẩm văn học cho học sinh. Do hạn chế thời gian, chuyên đề không
tránh khỏi có chỗ sai sót, chưa thấu đáo. Kính mong nhận được sự đóng góp của các
đồng nghiệp.

22



×