Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 32 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>MỤC LỤC</b>
<b>A. MỞ ĐẦU...1</b>
1.Lý do chọn đề tài:...1
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:...1
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:...2
4.Cơ sơ lý luận và phương pháp nghiên cứu:...2
5.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận...3
6.Kết cấu của tiểu luận...3
<b>B. NỘI DUNG...4</b>
<b>CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ GIA ĐÌNH...4</b>
1.1.Khái niệm gia đình...4
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">1.2. Vị trí, vai trị quan hệ của gia đình trong xã hội...6
1.2.1. Vị trí của gia đình...6
1.2.2. Vai trị của gia đình...7
1.2.3. Quan hệ của gia đình trong xã hội...8
1.3. Chức năng của gia đình...9
1.4. Ý nghĩa đối với việc xây dựng gia đình hiện nay...14
<b>CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY...16</b>
2.1. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay...16
2.1.1. Thành tựu trong việc xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay...16
2.1.2. Hạn chế trong quá trình xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay.18 2.2. Một số nội dung chủ yếu của xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay...19
2.3. Chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay....21
2.4. Những định hướng cơ bản về xây dựng gia đình mới ở nước ta hiện nay...23
<b>C. KẾT LUẬN...26TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>A. MỞ ĐẦU1.Lý do chọn đề tài: </b>
Việt Nam hiện nay đã và đang có nhiều biến đổi về nhiều mặt. Tất nhiên, với ý nghĩa là “tế bào của xã hội”, hiện nay, đứng trước sự thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, vấn đề gia đình là một tiêu điểm trọng yếu được cả giới hàn lâm và giới chính trị quan tâm. Trong nhiều năm qua, đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về gia đình và việc xây dựng gia đình.
Gia đình là nơi thân thuộc với mọi người. Đây là nơi sinh ra và lớn lên, nơi ni dưỡng và hình thành tính cách cũng như nhân cách của mọi cơng dân. Vì gia đình là một tế bào của xã hội, khơng chỉ có chức năng duy trì nịi giống mà cịn nhiều chức năng quan trọng khác. Vậy nên vấn đề gia đình là vấn đề của dân tộc mang tính thời đại, nhất là trong thời kì quá độ lên Xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, thật khó để có được những khái niệm cũng như những nhận xét hoàn thiện về các vấn đề liên quan đế gia đình, bởi trong xu hướng luôn luôn biến động và thay đổi của gia đình, sẽ có rất nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong cả cá nhân, gia đình và xã hội.
Vậy thế nào là gia đình? Gia đình có những chức năng gì? Vị trí và quan hệ của gia đình đối với xã hội là như thế nào?Với mục đích tìm lời giải đáp cho câu hỏi trên, chúng em chọn đề tài: “Gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chế độ Xã hội chủ nghĩa”. Với những kiến thức của chúng em, cùng với một tinh thần ham học hỏi, tìm tịi, nghiên cứu; chúng em mong rằng, đề tài này sẽ giúp nhiều người có định hướng và hành vi đúng đắn trong nhận thức và có trách nhiện xây dựng gia đình, xây dựng mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội.
<b>2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:</b>
<b>v Mục đích nghiên cứu:</b>
- Tìm hiểu và góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về vị trí và chức năng của gia đình.
1
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những chính sách của Đảng và Nhà nước về gia đình và định hướng xây dựng gia đình văn hóa tiến bộ.
<b>v Nhiệm vụ nghiên cứu:</b>
Để đạt được những mục tiêu trên, bài tiểu luận cần thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Trình bày được những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về gia đình.
- Trình bày vị trí, vai trị, chức năng, quan hệ của gia đình và xã hội dưới chế độ Chủ nghĩa Xã hội hiện nay.
- Trình bày chính sách của Đảng và Nhà nước về gia đình, những định hướng về việc xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
- Định hướng và có hành vi đúng đắn trong nhận thức và có trách nhiện xây dựng gia đình, xây dựng mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội.
<b>3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:</b>
<b>v Đối tượng nghiên cứu:</b>
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản về vấn đề gia đình trong thời kì qua độ lên Chủ nghĩa Xã hội, tiểu luận đi sâu nghiên cứu và những chính sách cùng những định hướng xây dựng gia đình văn hóa tiến bộ của Đảng và Nhà nước.
<b>v Phạm vi nghiên cứu:</b>
Tiểu luận tập trung nghiên cứu về vấn đề mang tính dân tộc, thời đại của đất nước hiện nay là vấn đề dân tộc và những chính sách định hướng của Đảng và Nhà nước trong thời kì quá dộ lên Xã hội chủ nghĩa.
<b>4.Cơ sơ lý luận và phương pháp nghiên cứu:</b>
<b>v Cơ sở lý luận:</b>
Tiểu luận được nghiên cứu dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề gia đình; các quan điểm, chủ trương, chính sách cảu Đảng và Nhà nước.
<b>v Phương pháp nghiên cứu:</b>
2
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Trong q trình thực hiện đề tài, nhóm tác gỉa đã sử dụng phương pháp lôgic kết hợp phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh… từ các vấn đề liên quan để làm rõ vấn đề cần tìm hiểu.
<b>5.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận</b>
<b>v Ý nghĩa khoa hoc:</b>
Bài tiểu luận là hệ thống các vấn đề về quan điểm của chủ nghĩa Mác Leenin về vị trí và chức năng của gia đình từ đó vận dụng và xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay. Do đó, có những đóng góp về mặt khoa học như sau:
<b>- Làm rõ vấn đề lý luận về vị trí và chức năng của gia đình theo quan điểm Mác</b>
<b>- Làm rõ những nội dung liên quan đến gia đình việc xây dựng gia đình văn hóa</b>
hiện nay.
<b>- Đưa ra các chính sách, định hướng về việc xây dựng gia đình văn hóa ở Việt</b>
Nam hiện nay.
<b>v Ý nghĩa thực tiễn:</b>
<b>- Với những kết quả phân tích, đánh giá đối với những quan điểm mà chủ nghĩa</b>
Mác Leenin và thực tiễn về gia đình, tất cả đã góp phần hồn thiện và phát triển gia đình văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
<b>6.Kết cấu của tiểu luận</b>
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm có 2 chương:
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình .
Chương 2: Sự vận dụng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
3
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>B. NỘI DUNG.</b>
<b>CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ GIAĐÌNH.</b>
<b>1.1. Khái niệm gia đình.</b>
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sơi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. Cơ sở hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con cái...). Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người, được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.
Quan hệ hơn nhân là cơ sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng một dòng máu, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối quan hệ tự nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau.
Trong gia đình, ngoài hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con cái, cịn có các mối quan hệ khác, quan hệ giữa ông bà với
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cô, dì, chú bác với cháu ... Ngày nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn thừa nhận quan hệ cha mẹ nuôi (người đỡ đầu) với con nuôi (được công nhận bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ gia đình. Dù hình thành từ hình thức nào, trong gia đình tất yếu nảy sinh quan hệ ni dưỡng, đó là sự quan tâm chăm sóc ni dưỡng giữa các thành viên trong gia đình cả về vật chất và tinh thần. Nó vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là một quyền lợi thiêng liêng giữa các thành viên trong gia đình. Trong xã hội hiện đại, hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc của gia đình được xã hội quan tâm chia sẻ, xong khơng thể thay thế hồn tồn sự chăm sóc, ni dưỡng của gia đình.
Các quan hệ này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và biến đổi, phát triển phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và thể chế chính trị-xã hội.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về gia đình và vai trị của gia đình là sự kế thừa có bổ sung những tư tưởng trước đó, vì vậy cái nhìn về vai trị của gia đình ở đây trở nên khách quan, toàn diện hơn, phản ánh chân thực về sự vận động, biến đổi cũng như vai trị của gia đình trong xã hội.
Khi phân tích tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, C.Mác khẳng định gia đình là một trong ba mối quan hệ của con người đã được hình thành trong lịch sử nhân loại: quan hệ thứ nhất là giữa con người với tự nhiên; quan hệ thứ hai là giữa con người với con người trong quá trình sản xuất; và quan hệ thứ ba là gia đình. Ba quan hệ này tồn tại đan xen với nhau, hòa quyện vào nhau, cùng tồn tại bên nhau.
Từ nhiều góc độ khác nhau, có thể hiểu: Gia đình là tế bào của xã hội, một thiết chế xã hội tồn tại bền vững, gắn bó với nhau trên cơ sở kết hợp những thành viên khác giới của bố mẹ, thông qua hôn nhân không cùng huyết thống để tái sản xuất nịi giống; hoặc thơng qua quan hệ nuôi dưỡng (con nuôi...) cùng làm kinh tế, nuôi dạy con cái trưởng thành, hiếu thảo, biết thương yêu mọi người, có trách nhiệm; trở thành người cơng dân có đạo đức, học vấn, nghề nghiệp, văn hóa và tạo dựng cuộc sống gia đình no ấm, hịa thuận, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
Một gia đình theo truyền thống Việt Nam sẽ bao gồm các thành viên: vợ, chồng, cha, mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, anh, chị em ruột, hoặc anh chị em ni, cơ, dì, chú, bác…
5
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Như vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.
Tùy thuộc vào việc tổ chức sinh sống của gia đình, gia đình có thể chia thành nhiều các cách gọi như sau:
+ Một gia đình nhỏ bao gồm khoảng hai thế hệ như cha, mẹ và con cái. + Đại gia đình bao gồm rất nhiều thế hệ cùng sinh sống với nhau: ông cụ, bà cụ, ông, bà, cha mẹ, con cái, cháu, chắt.
Có rất nhiều cách hiểu về gia đình khác nhau nhưng nhìn chung đây là một nơi mà những con người liên kết với nhau, sinh sống với nhau tạo nên mối quan hệ mật thiết, gia đình là hình ảnh phản ảnh của một xã hội thu nhỏ.
<b>1.2. Vị trí, vai trị quan hệ của gia đình trong xã hội.1.2.1. Vị trí của gia đình.</b>
Vị trí đối với sự tồn tại và phát triển loài người: gia đình có vai trị, vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển xã hội lồi người. Điều đó có thể được thực hiện tại các điểm cơ bản sau đây:
<b>a) Gia đình là tế bào của xã hội </b>
Có thể ví xã hội là một cơ thể sống hoàn chỉnh và không ngừng biến đổi được "sắp xếp, tổ chức" theo nhiều mối quan hệ trong đó gia đình được xem là một tế bào, một thiết chế cơ sở đầu tiên. Mỗi một chế độ xã hội được sinh thành, vận động và biến đổi trên cơ sở một phương thức sản xuất xác định và có vai trị quy định đối với gia đình. Nhưng xã hội ấy lại tồn tại thơng qua các hình thức kết cấu và quy mơ gia đình. Mỗi gia đình hạnh phúc, hồ thuận thì cả cộng đồng và xã hội tồn tại và vận động một cách êm thấm. Mục đích chung của sự vận động biến đổi của xã hội trước hết vì lợi ích của mỗi công dân, mỗi thành viên xã hội và mỗi gia đình - tổ chức và thiết chế xã hội đầu tiên, cơ sở nơi quần tụ của mỗi công dân và thành viên của xã hội. Nhưng lợi ích của mỗi cơng dân, mỗi thành viên xã hội lại chịu sự chi phối của lợi ích các tập đoàn giai cấp thống trị trong xã hội, trong điều kiện xã hội phân chia thành giai cấp.
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>b) Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hoà trong đời sống cá nhân của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội</b>
Từ thuở lọt lòng cho đến suốt cuộc đời, mỗi thành viên được nuôi dưỡng, chăm sóc để trở thành cơng dân của xã hội, lao động cống hiến và hưởng thụ, đóng góp cho xã hội trước hết và chủ yếu là thông qua gia đình và với gia đình. Sự yên ổn, hạnh phúc mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách, bảo đảm đạt hiệu quả cho các hoạt động lao động của xã hội. Rõ ràng là, muốn xây dựng xã hội phải chú ý xây dựng gia đình. Xây dựng gia đình là trách nhiệm, là một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể các mục tiêu phấn đấu của xã hội, vì sự ổn định và phát triển của chính xã hội.
<b>c) Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội </b>
Trong hệ thống cơ cấu tổ chức của xã hội, gia đình được coi là thiết chế cơ sở, đầu tiên, nhỏ nhất. Sự vận động biến đổi của thiết chế tuân theo những quy luật chung của cả hệ thống. Nhưng thiết chế ấy vận động biến đổi còn trên cơ sở kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống của mỗi nền văn hoá, mỗi vùng và địa phương khác nhau và còn được bộc lộ, thể hiện ở mỗi thành viên và thế hệ thành viên trong sự "giao thoa" của mỗi cá nhân và mỗi gia đình. Thơng qua các hoạt động tổ chức đời sống trong gia đình và của gia đình, mỗi cá nhân, mỗi gia đình tiếp nhận, chịu sự tác động và "phản ứng " lại đối với những tác động của xã hội, thông qua các tổ chức, các thiết chế, chính sách... của xã hội. Sự đồng thuận hay không đồng thuận của những tác động từ xã hội, nhà nước với những hình thức tổ chức, sinh hoạt trong thiết chế gia đình sẽ tạo ra kết quả tốt hay xấu của mỗi chế độ xã hội, mỗi thời đại.
<b>1.2.2. Vai trị của gia đình.</b>
Vai trị của gia đình là một trong những nội dung then chốt của việc nghiên cứu về gia đình. Gia đình là cách thức cơ bản thỏa mãn các nhu cầu sống, sinh hoạt và phát triển của gia đình trong quan hệ với xã hội. Các nghiên cứu về gia đình dù xét trên cấp độ vĩ mô, hay xét ở cấp độ vi mơ thì gia đình có những vai trị cụ thể. Gia đình được tạo lập, tồn tại và phát triển chính là do nó có sứ mệnh đảm đương những vai trò đặc biệt mà xã hội và tự nhiên đã trao cho, không một thiết chế xã hội nào thay
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">thế được. Quan hệ giữa gia đình và xã hội cũng như quan hệ giữa các thành viên và các thế hệ trong gia đình thơng qua việc thực hiện các chức năng gia đình.
Mặt khác, gia đình là một phạm trù lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình tương ứng, xây dựng một kiểu gia đình lý tưởng phù hợp với những vai trị lịch sử của xã hội của đó. ở thời tiền sử Mác và Ăngghen đã khẳng định: Gia đình "là quan hệ xã hội duy nhất". Khi đó, gia đình có vai trị vừa là cộng đồng lao động, vừa là cộng đồng sinh hoạt, là khn khổ tồn tại của xã hội, vai trị và chức năng của gia đình cũng đồng thời là vai trò và chức năng của xã hội (gia đình - xã hội sơ khai), thực hiện chức năng gia đình cũng là thực hiện chức năng xã hội và ngược lại. Khi xã hội ngày càng phát triển gắn liền với q trình phân cơng lao động xã hội dẫn đến có sự độc lập tương đối của gia đình đối với xã hội, thậm chí có sự đối lập giữa gia đình và xã hội tuy trong các xã hội thị tộc, bộ lạc, sự đối lập giữa gia đình và xã hội cịn rất mờ nhạt nhưng đến khi có sự hình thành phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì sự đối lập đó chỉ có thể trở thành phổ biến. Với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự biến đổi thì vai trị, chức năng của gia đình như là kết quả của q trình đơ thị hóa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
<b>1.2.3. Quan hệ của gia đình trong xã hội.</b>
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác đã đưa ra quan niệm về gia đình: “Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình con người cịn tạo ra những người khác, sinh sơi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình… Sự sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ra là một quan hệ song trùng; một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là hoạt động kết hợp của nhiều cá nhân, không kể là trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì”.
Quan niệm này đã chỉ rõ: thứ nhất, gia đình ra đời cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người, cùng với q trình tái tạo ra chính bản thân con người; thứ hai, gia đình được tạo ra bởi hai quan hệ cơ bản (quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống); thứ ba, gia đình có hai nhiệm vụ chính (sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng
8
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">nhu cầu cho cá nhân, gia đình, đóng góp vào sự phát triển xã hội, đồng thời tái sản xuất con người để duy trì nịi giống - đảm bảo cho sự trường tồn của xã hội).
Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử khi nghiên cứu sự phát triển của gia đình ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã làm sáng tỏ vai trò quan trọng của gia đình trong mối quan hệ biện chứng với xã hội: “Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, suy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”.
Nhấn mạnh vai trị to lớn của gia đình đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác cho rằng, gia đình chính là “quan hệ xã hội duy nhất” trong buổi đầu của lịch sử xã hội loài người. Nhờ quan hệ này, với chức năng sinh con đẻ cái, quan hệ gia đình đã sản sinh ra và duy trì các quan hệ xã hội khác. Với nghĩa đó, gia đình là một xã hội thu nhỏ: gia đình sản sinh ra các cá thể người, gắn kết các cá thể người thành xã hội.
Về sau, khi dân số tăng lên, nhiều nhu cầu mới xuất hiện. Khi nhu cầu của con người phát triển lại xuất hiện những quan hệ xã hội mới làm cho gia đình từ chỗ “là quan hệ duy nhất” trở thành “quan hệ phụ thuộc”. Sự chuyển biến này gắn liền với q trình phân cơng lao động xã hội, với q trình phát triển xã hội, dẫn đến có sự độc lập tương đối của gia đình đối với xã hội, thậm chí có sự đối lập giữa gia đình và xã hội.
<b>1.3. Chức năng của gia đình.</b>
Chức năng tái sản xuất ra con người (sinh đẻ): Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống chung của xã hội lồi người mà trong đó diễn ra q trình tái sản xuất sinh học nhằm duy trì và phát triển nòi giống. Các quốc gia đều quan tâm đến việc điều tiết chức năng sinh đẻ của gia đình. Việc khuyến khích hay hạn chế chức năng
9
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">sinh đẻ của gia đình phụ thuộc vào yếu tố dân số, vào nguồn nhân lực và các điều kiện kinh tế-xã hội khác. Ở Việt Nam, để hoạch định chính sách hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Nhà nước đã có chính sách kế hoạch hóa gĩa đình: “Mỗi gia đình chỉ nên có từ một đến hai con”.
Chức năng giáo dục: Gia đình thực hiện chức năng giáo dục đối với các thế hệ kế tiếp bắt đầu từ khi mỗi thành viên được sinh ra cho đến khi trưởng thành và thậm chí cho đến suốt đời. Giáo dục trong gia đình có vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cá nhân, cần kết họp giữa giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường và giáo dục ngoài cộng đồng trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ.
<b>Các yếu tố tác động tới thực hiện chức năng giáo dục của gia đình</b>
Gia đình là một trong những thiết chế xã hội quan trọng. Sự thay đổi của gia đình ở các thời kỳ khác nhau chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật…
Sự phát triển của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử ln có những tác động tới các yếu tố xã hội khác. Đối với việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình, có thể thấy sự khác biệt rõ rệt giữa giai đoạn hiện nay và giai đoạn phong kiến khi trình độ kinh tế-xã hội có sự khác biệt đáng kể. Nền kinh tế thị trường đã tạo cơ hội cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình có điều kiện tích lũy, làm giàu và tự do đầu tư vào các hoạt động theo nhu cầu. Nhờ đó chức năng giáo dục của gia đình được cải thiện đáng kể. Trong gia đình con trai và con gái đều được tới trường học tập và được chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết cho việc thực hiện giáo dục tại gia đình.
Sự phát triển của khoa học, cơng nghệ tạo điều kiện để con người có cơ hội tiếp xúc với các ứng dụng mới. Sự phổ biển internet, điện thoại di động… đã có những tác động khơng nhỏ tới việc giáo dục nói chung và giáo dục tại gia đình nói riêng. Tuy nhiên, việc lạm dụng các ứng dụng công nghệ ảnh hưởng tới sức khỏe, tâm lý của cá nhân. Điều này gây những khó khăn khơng nhỏ cho việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình bởi thời gian các thành viên bên nhau ngày càng thu hẹp, sự gắn bó giữa các cá nhân bị suy giảm đáng kể.
10
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Về mặt chính trị, sự ổn định của mơi trường chính trị là một yếu tố góp phần phát triển mọi mặt của xã hội. Khi mơi trường sống có trật tự, ổn định thì việc thực hiện các chức năng của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục sẽ được đầu tư hơn về mặt thời gian, công sức, qua đó sẽ thu được những hiệu quả như mong đợi. Ngược lại, khi tình hình chính trị bất ổn, mơi trường sinh hoạt khơng ổn định thì tâm lý, thời gian đều bị chi phối và việc tập trung cho bất cứ một hoạt động cụ thể nào là điều không dễ dàng.
Về ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, sự tác động của phong tục, tập quán có những ảnh hưởng nhất định đối với đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội cũng như của mỗi thành viên trong gia đình. Trong thời kỳ phong kiến, do ảnh hưởng sâu đậm của tư tưởng Nho giáo nên trong gia đình, sự giáo dục thường được thực hiện bởi người đàn ông – người giữ vai trò gia trưởng. Điều này đã hạn chế sự hiểu biết của mỗi cá nhân đối với các vấn đề xã hội bên ngồi gia đình. Ngày nay, với việc tăng cường quyền bình đẳng giới, trong gia đình và ngồi xã hội người phụ nữ được tơn trọng và được trao quyền nhiều hơn, cả trong giáo dục con cái. Nội dung giáo dục đối với các con không chỉ dừng ở các quy tắc, chuẩn mực trong quan hệ gia đình mà cịn bao gồm cả cách ứng xử ngoài xã hội, các kiến thức chung về xã hội, khoa học…
Việc pháp luật ghi nhận trách nhiệm giáo dục con cái là của cha mẹ và quyền lợi của trẻ em trong gia đình là cơ sở pháp lý đảm bảo việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình. Các quy định trong Hiến pháp, Luật Hơn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Giáo dục…cho thấy mối quan hệ giữa gia đình và pháp luật về việc giáo dục mỗi cá nhân – cơng dân. Nói cách khác, việc thực hiện các quy định của pháp luật về giáo dục trong gia đình cũng chính là một trong các cách nhằm thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.
Sự ảnh hưởng của các yếu tố trên không diễn ra một cách riêng lẻ và một chiều mà có sự tác động đồng bộ, qua lại giữa các yếu tố. Khi một trong các yếu tố có sự thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của một hoặc một số yếu tố khác. Như khi nền kinh tế xã hội có những thay đổi sẽ kéo theo những biến đổi trong đời sống chính trị, trong lối sống, trong phong tục…khi đó, yếu tố pháp luật cũng có những thay đổi và tách động tới thói quen, đời sống của mỗi công dân. Sự thay đổi của pháp luật có thể theo chiều
11
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">hướng tích cực hoặc ngược lại, trong phạm vi giáo dục tại gia đình, điều đó có thể dẫn tới việc mở rộng hoặc thu hẹp các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, con cái trong việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình.
Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng:
Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác khơng có được, là ở chỗ, gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội.
Gia đình khơng chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất và sực slao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo ra một mơi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời để duy trỉ sở thích, sắc thái riêng của mỗi người.
Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau và ngay cả một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất và cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trị của kinh tế gia đình và mối quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng khơng hồn tồn giống nhau.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế của gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên gia đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào q trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải, sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động, tăng nguồn của cải vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này, không những tạo cho gia
12
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, ni dạy con cái, mà cịn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội.
<b>Một gia đình hạnh phúc theo quan điểm cá nhân được thể hiện qua:</b>
+ Khả năng kinh tế của gia đình, gia đình phải có ít nhất đảm bảo được khả năng về kinh tế mới có thể thực hiện các nghĩa vụ, hoạt động giữa các thành viên trong gia đình một cách thuận lợi được.
+ Yếu tố gắn kết tình cảm gia đình, một gia đình quá trú trọng phát triển kinh tế, mà các thực hiện việc nuôi dưỡng gắn kết giữa các thành viên trong gia đình, khơng có phát sinh tình cảm u thương, thì đó khơng thể coi là một gia đình hạnh phúc.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình
Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người.Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
Ngồi những chức năng trên, gia đình cịn có chức năng văn hóa, chức năng chính trị... Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng được thực hiện trong gia đình. Gia đình khơng chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội. Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ hệ thống pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.
13
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Như vậy, gia đình là thiết chế đa chức năng. Thơng qua việc thực hiện các vai trò, chức năng trên đây mà gia đình tồn tại và phát triển, đồng thời tác động đến tiến độ chung của cộng đồng (làng, xã, khu phố...) và xã hội. Các chức năng thực hiện trong sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau. Dĩ nhiên, việc phân chia các chức năng của gia đình chỉ là tương đối. ở các giai đoạn lịch sử khác nhau, những nội dung của mỗi chức năng được biến đổi phù hợp với những điều kiện cụ thể, với quá trình phát triển xã hội. Do đó, trong q trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm sớm đưa nước ta trở thành một nước phát triển thì việc xây dựng gia đình có vai trò hết sức quan trọng và cần được các cấp, các ngành và các địa phương quan tâm, cũng như có chính sách phù hợp cho sự phát triển tiến bộ, công bằng và thịnh vượng của gia đình.
<b>1.4. Ý nghĩa đối với việc xây dựng gia đình hiện nay.</b>
Xây dựng Gia đình văn hóa có ý nghĩa rất quan trọng trong chiến lược xây dựng con người, xây dựng xã hội văn minh hiện đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Khi mặt trái của cơ chế thị trường cùng những ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài tràn vào tác động đến con người, việc xây dựng gia đình văn hóa bền vững, hạnh phúc càng trở nên cấp bách.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan: phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về gia đình, gia đình Việt Nam đã có sự biến đổi tương đối tồn diện, về quy mơ, kết cấu, các chức năng cũng như quan hệ gia đình. Ngược lại, sự biến đổi của gia đình cũng tạo ra động lực mới thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Kế thừa và phát triển những quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề gia đình và xây dựng gia đình trong xã hội mới, coi gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt”.
14
</div>