Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Đề tài: Cấu trúc nhân cách và các yếu tố cần tạo lập để hình thành nhân cách của con người tiến bộ trong chế độ xã hội chủ nghĩa potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.24 KB, 25 trang )

1
BỘ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ SPACE

TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI
CẤU TRÚC NHÂN CÁCH VÀ CÁC YẾU TỐ CẦN TẠO LẬP ĐỂ
HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CỦA CON NGƯỜI TIẾN BỘ
TRONG CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Giáo viên hướng dẫn :Nguyễn Công Bá Đạt
Người thực hiện :Nguyễn Thế Tài
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 05 NĂM 2013
A. MỞ ĐẦU
Trong quá trình nghiên cứu về phản ánh tâm lý thông qua hoạt động và
giao tiếp, các nhà khoa học thường không chỉ quan tâm đến bản thân của
quá trình đó mà còn quan tâm đến cả chủ thể của nó nữa, chủ thể đó
chính là nhân cách. Nhân cách là đối tượng được nhiều ngành khoa học
khác nhaunghiên cứu như triết học, xã hội học, kinh tế - chính trị học,
luật học, tâm lý học, y học, giáo dục học, v.v Nhân cách trong tâm lý
học là một phạm trù nền tảng. Việc làm sáng tỏ những vấn đề về bản chất
nhân cách, cấu trúc nhân cách, con đường hình thành nhân cách… có ý
nghĩa lý luận thực tiễn rất to lớn. Trong đó, các nhân tố như giáo dục,
hoạt động, giao tiếp… có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và
phát triển nhân cách. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường như
ngày hôm nay, việc nghiên cứu nhân cách con người lại mang tính cấp
thiết, có ý nghĩa cấp thiết nhiều hơn nữa khi mà xây dựng và phát triển
con người, nâng cao chất lượng nguồn lực con người đã trở thành nhân tố
quyết định sức mạnh của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Để
góp phần thực hiện thắng lợi công việc lớn lao này, em chọn đã chọn đề
tài “cấu trúc nhân cách và các yếu tố cần tạo lập để hình thành nhân


cách của con người tiến bộ trong chế độ xã hội chủ nghĩa” để nghiên
cứu và tìm hiểu.Bằng việc đóng góp một vài ý kiến cá nhân, em hy vọng
ý kiến của em sẽ phẩn nào giúp góp phần xây dựng hình ảnhcon người
mới – con người tiến bộ trong chế độ xã hội chủ nghĩa để đưa đất nước
Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ và phồn thịnh hơn.
Nội dung bài tiểu luận của em được trình bày theo các phần như sau:
2
Mục lục
Trang
A. MỞ ĐẦU 2
B. NỘI DUNG CHÍNH 4
I. NHÂN CÁCH VÀ CẤU TRÚC NHÂN CÁCH 4
1. Khái niệm nhân cách 4
2. Cấu trúc nhân cách 5
II. XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CON NGƯỜI TIẾN BỘ CHO XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA 6
1. Tạo lập các tiền đề 6
a) Tiền đề vật chất 6
b) Tiền đề văn hóa, giáo dục, tư tưởng (thế giới quan) 10
c) Một số nhân tố mang tính tiền đề khác 12
2. Vấn đề nhân cách con người Việt Nam hiện nay so với các dân
tộc văn minh và những yêu cầu xây dựng con người MỚI 17
a) Các giá trị đã có 17
b) Các khiếm khuyết, biểu hiện lạc hậu cần khắc phục 18
c) Một số kiến nghị 19
C. KẾT LUẬN 21
Và bây giờ chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu kỹ các yếu tố cấu thành cũng
như ảnh hưởng của nó tới nhân cách con người.
3
B. NỘI DUNG CHÍNH

I. NHÂN CÁCH VÀ CẤU TRÚC NHÂN CÁCH
1. Khái niệm nhân cách
Nói đến nhân cách thì nhân cách được xem là một trong những vấn đề
phức tạp trong các vấn đề phức tạp khác của con người. Trên thế giới, do
có nhiều trường phái nghiên cứu khác nhau nên cũng có nhiều quan niệm
khác nhau về nhân cách. Vậy nhân cách là gì?
Theo chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo quan niệmcó “tính người bẩm
sinh”; “nhân cách là yếu tố tinh tinh thần đầu tiên của tồn tại người và
chúa là nhân cách tối cao nhất có trước và chi phối nhân cách con
người”…
Còn chủ nghĩa duy vật và các khoa học cụ thể thông thường thì lại có
xu hướng tuyệt đối hoá mặt tâm lý, sinh lý, xem nhẹ mặt xã hội hay tách
rời mặt xã hội với mặt tự nhiên của nhân cách.
Ngày nay,nhờ những thành tựu có được của nhiều ngành khoa học
nghiên cứu về nhân cách, người ta đã đưa ra một quan niệm tổng hợp và
đúng đắn hơn về nhân cách như sau: nhân cách là toàn bộ những năng
lực và phẩm chất xã hội – sinh lý – tâm lý tạo thành một chỉnh thể mà
nhờ nó mỗi cá nhân có thể đóng vai trò chủ thể, tự ý thức, tự đánh giá, tự
khẳng định, tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình.
Trên cơ sở những quan điểm đó, ta có thể nêu lên một khái niệm tổng
quát về nhân cách như sau: nhân cách là tổ hợp thái độ, thuộc tính riêng
trong quan hệ hành động của từng người với giới tự nhiên, với xã hội và
bản thân.
4
Khái niệm trên nhấn mạnh vấn đề “hành động”, có nghĩa là nhân cách
của một con người chỉ bộc lộ trong hành động thông qua các mối quan hệ
ứng xử của người đó với tự nhiên, với xã hộivà với bản thân. Vì lẽ đó mà
Platôn đã rất có lý khi ông nói rằng: “Người đang ngủ thì kẻ cướp cũng
như thiên thần”.
2. Cấu trúc nhân cách

Trên thế giới, có rất nhiều quan điểm về cách xác định cấu trúc của
nhân cách:
Theo các sách giáo khoa tâm lý học của Liên Xô và Việt Nam thì cấu
trúc của nhân cách được xác định gồm 4 yếu tố như sau: xu hướng phát
triển cá nhân, năng lực cá nhân, tính cách cá nhân và tính khí của cá
nhân. Quan điểm giáo dục học quy cấu trúc của nhân cách vào ba lĩnh
vực: nhận thức, rung cảm và ý chí.Gần đây một số nhà tâm lý học Việt
Nam lại cho rằng nhân cách gồm 3 thành phần: Một là,những thuộc tính
tâm lý ổn định bao gồm không gian bên trong của nhân cách; Hai là,mối
quan hệ giữa các cá nhân với xã hội, với người khác thông qua giao
tiếp;Ba là,mối quan hệ giữa cá nhân với công việc.
Những quan điểm được nêu ra ở trên tuy có khác nhau nhưng cũng có
những điểm chung. Trên cơ sở những điểm chung đó, ta có thể hình dung
một cách khái quát cấu trúc của nhân cách bao gồm:
Hạt nhân của nhân cách là thế giới quan của cá nhân, đó là toàn bộ
những quan điểm, lý tưởng, niềm tin, định hướng giá trị chung của cá
nhân.
Không gian bên trong của nhân cách là những năng lực và phẩm chất
xã hội của cá nhân như thể chất, năng lực, trí tuệ, trình độ chuyên môn,
các phẩm chất chính trị, pháp luật, đạo đức, thẩm mỹ,…
5
Bộ phận sâu kín và nhạy cảm nhất của nhân cách là tâm hồn con
người, nó là tầng sau nhất, là tập mờ của nhân cách, là nơi lắng đọng và
tiềm ẩn của mỗi cá nhân. Đó là thế giới nội tâm, có chức năng làm tăng
thêm hay giảm nhẹ, kiềm chế hay thúc đẩy hành vi của mỗi con người.
II. XÂY DỰNG NHÂN CÁCH CON NGƯỜI TIẾN BỘ CHO XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
1. Tạo lập các tiền đề
Để giải quyết vấn đề nhân cách và xây dựng nhân cách con người tiến
bộ cho xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần xem xét mối quan hệ giữa cái sinh

học và cái xã hội trong con người, bởi như C.Mác đã nói: “con người là
một thực thể sinh học - xã hội”. Trong quá trình phát triển của mình, con
người đã bỏ xa giới động vật trong sự tiến hoá, nhưng điều đó không thể
khẳng định rằng con người đã lột bỏ được tất cả những cái tự nhiên, cái
sinh học trong mình. Do đó, nhân cách của con người cũng không ngoại
lệ. Nó phải chịu sự chi phối của nhiều yếu tố mang tính tiền đề như vật
chất, văn hoá, giáo dục, tư tưởng, v.v…Chúng ta hãy cùng nghiên cứu về
yếu tố mang tính tiền đề đầu tiên.
a) Tiền đề về vật chất
Trước hết, muốn tìm hiểu về nhân cách, ta phải dựa trên cơ sở sinh
học. Khi nói tới những yếu tố sinh học trong con người, có thể hiểu đó là
những yếu tố hữu sinh, hữu cơ, những cái mà về mặt phát sinh, luôn gắn
bó với tổ tông động vật của con người, những cái làm cho con người hình
thành và hoạt động như một cá thể, một hệ thống phục tùng các quy luật
sinh học hoặc cũng có thể coi đó là toàn bộ tiền đềsinh học của con
người. Một con người phát triển đầy đủ, không khiếm khuyết về cơ thể,
giác quan và tư duy thì mới có thể có một nhân cách tốt. Để có được điều
6
đó, trước tiên, con người phải được sống trong một xã hội ổn địnhvà có
nền kinh tế phát triển. Khi được sống trong một nền kinh tế phát triển,
một xã hội ổn định thì nhu cầu ăn, mặc, ở của con người sẽ được đáp ứng
đầy đủ. Đồng thời, con người cũng sẽ được chăm sóc đầy đủ và tốt nhất
về giáo dục, y tế, văn hóa, tư tưởng. Đó là bước đệm để hình thành một
con người phát triển toàn diện, từ đó nhân cách con người cũng được phát
triển theo hướng tích cực hơn. Song đây chỉ là “điều kiện cần” bởi vì
nhân cách không hẳn là những yếu tố có sẵn có trong cấu trúc cơ thể
(không phải từ khi sinh ra đã có bẩm sinh) rồi lớn dần lên về lượng theo
thời gian và không gian mà nó được hình thành dần dần cùng với sự phát
triển của cá nhân và sự quy định của môi trường xã hội. Cũng như
A.N.Leonchiev đã chỉ ra rằng: “nhân cách con người không phải được đẻ

ra mà được hình thành”.
Tiền đề vật chất đóng vai trò “điều kiện đủ” chính là môi trường xã
hội.Môi trường xã hội cụ thể là các nhóm mà các cá nhân là thành viên,
đó là: gia đình, làng xóm, khu phố, cộng đồng, tập thể.
Gia đình là nhóm cơ sở, là cái nôi đầu tiên mà cá nhân con người hình
thành từ ấu thơ. Đây cũng là hình thức nhóm có sớm nhất trong lịch sử
loài người. Gia đình là khái niệm có nhiều cách tiếp cận khác nhau, vì
vậy, cách hiểu về gia đình cũng rất đa dạng. Năm 1994 - Năm Quốc tế
Gia đình, Liên Hợp Quốc có bàn đến khái niệm "gia đình" trong cuốn tài
liệu "Sự tiến triển của cấu trúc gia đình" như sau: "Gia đình là một thể
chế có tính chất toàn cầu". Mặc dù không đưa ra một khái niệm cụ thể về
gia đình nhưng kết luận của Liên Hợp Quốc đã khẳng định tính toàn cầu,
phổ biến và đa dạng của gia đình. Khi đã coi gia đình là một thể chế thì
có nghĩa là ở mỗi quốc gia(hoặc vùng lãnh thổ), gia đình lại có những
"biến thể" khác nhau tuỳ thuộc vào lối sống, nền văn hoá cụ thể. Ở Việt
7
Nam cũng tương tự, hiện vẫn chưa có một khái niệm gia đình mang tính
"chuẩn mực" nào được thừa nhận. Tuy nhiên, theo cách hiểu thông
thường vẫn được chấp nhận trong các nghiên cứu cũng như trong các văn
bản, tài liệu, v.v… thì gia đình là "tế bào của xã hội", "một thiết chế xã
hội", "một đơn vị kinh tế - xã hội cơ sở", đồng thời là "một nhóm tâm lý -
xã hội đặc thù".
Từ những quan niệm như trên ta có thể thấy gia đình có vai trò vô
cùng to lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội thông qua các vài trò và
chức năng của nó. Gia đình có rất nhiều chức năng khác nhau, nhưng
theo nghiên cứu thì có bốn chức năng được chú ý và thừa nhận rộng rãi
nhất là: chức năng tái sản xuất con người nhằm duy trì nòi giống;chức
năng kinh tế để nuôi sống và đảm bảo các nhu cầu vật chất của các thành
viên;chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái và chức năng làm cân
bằnglàm cân bằng tâm lý, thoả mãn các nhu cầu tình cảm của các thành

viên trong gia đình.
Trong các chức năng nêu trên, chức năng nuôi dưỡng và giáo dục con
cái có tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi cá nhân từ khi sinh ra đến khi
giã từ cuộc đời mà các thiết chế khác như giáo dục, pháp luật, tôn
giáo.v.v. không thể thay thế được. Đây là chức năng xã hội hoá và giáo
dục nhân cách con người của gia đình.
Tiếp theo đó, con người là thành viên của các nhóm theo tên gọi khác
nhau: nhóm chính thức, nhóm không chính thức, nhóm lớn, nhóm nhỏ,
nhóm chuẩn mực, nhóm quy chiếu, Các nhóm có thể đạt tới trình độ
phát triển cao nhất được gọi là tập thể. Tập thể là một nhóm người, một
bộ phận của xã hội được thống nhất lại theo những mục đích chung phục
vụ từng các mục đích của xã hội.Tập thể có vai trò rất lớn trong việc hình
8
thành và phát triển nhân cách.Trước hết, tập thể giúp con người tìm thấy
chỗ đứng của nhu cầu hoạt động, giao tiếp vốn là những nhu cầu cơ bản
và xuất hiện rất sớm của con người. Vì vậy, hoạt động tập thể là điều
kiện, đồng thời là phương thức thể hiện và hình thành những năng khiếu,
năng lực và các phẩm chất trong nhân cách. Tập thể tác động đến nhân
cách thông qua hoạt động cùng nhau, qua dư luận tập thể, truyền thống
tập thể, bầu không khí tâm lý tập thể. Nhờ vậy nhân cách mỗi thành viên
liên tục được đều chỉnh, điều khiển cũng như phải thay đổi để phù hợp
với quan hệ xã hội mà nó tham gia. Ngược lại, mỗi cá nhân tác động tới
cộng đồng, xã hội, tới cá nhân khác thông qua tập thể của mình. Chính vì
thế, trong giáo dục người ta thường vận động nguyên tắc giáo dục trong
tập thể và bằng tập thể. Trong các buổi sinh hoạt lớp, ta được quyền nói
lên ý kiến của mình cũng như tiếp thu ý kiến nhận xét của các bạn để sửa
đổi những cái chưa tốt, phát huy nhửng cái tốt, hướng nhân cách đến sự
chẩn mực.
Ví dụ: là một thành viên của Đoàn xã (phường), thông qua quá trình
cùng học tập, tham gia các thành viên khác trong Đoàn, ta thấy rằng cần

phải học tập những đức tính tốt như chăm chỉ, cần cù, tham học hỏi, tích
cực tham gia các hoạt động Đoàn, Đội, các công tác xã hội…, tránh xa
những thói quen xấu như: vô lễ, ăn chơi, đua đòi…Đồng thời, ta phải biết
rèn luyện theo những truyền thống, giữ gìn những giá trị văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần. Về mặt này thì mỗi cá nhân có một môi trường
riêng, độc đáo,(mỗi gia đình là một “tế bào” của xã hội) từ đó quy định
sự khác nhau về sắc thái nhân cách cá nhân. Từ đó có thể thấy rằng sự
phong phú của các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia quy định sự
phong phú của nhân cách.
9
Tuy nhiên mối quan hệ giữa nhân cách và môi trường xã hội không
phải là một chiều mà là quan hệ biện chứng có tính hai chiều: mỗi cá
nhân, một mặt, tiếp nhận sự tác động của môi trường xã hội một cách có
tích cách, có chọn lọc, kế thừa, cải biến và chuyển hóa để biến thành cái
bên trong của mình; mặt khác, thông qua sự hoạt động tích cực của mỗi
cá nhân, sự hoạt động tích cực đó lại tác động trở lại môi trường xã hội.
Sự hình thành nhân cách của con người mới xã hội chủ nghĩa cũng
không nằm ngoài những tiền đề trên, nhưng trên mỗi yếu tố đó có sự khác
nhau về chất so với các xã hội có giai cấp trong lịch sử. Chẳng hạn, yếu
tố “con người sinh học”, đó là con người được cả xã hội chăm lo, tôn
trọng, giúp đỡ từ trong bào thai đến tuổi trưởng thành. Yếu tố “môi
trường xã hội” là nền tảng của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa
hình thành nền giáo dục mới, các mối quan hệ xã hội mới, các chuẩn mực
giá trị mới cho sự ra đời một nhân cách mới.
b) Tiền đề về văn hoá, giáo dục, tư tưởng (thế giới quan)
Sự hình thành nhân cách nói chung và nhân cách xã hội chủ nghĩa nói
riêng diễn ra trong cả một đời người, trong đó giáo dục và tự giáo dục có
vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là lứa tuổi trẻ. Vì giáo dục theo nghĩa
chung nhất là hoạt động có định hướng của con người nhằm hình thành
và phát triển nhân cách nhanh hơn. Ý thức được vị trí đó của giáo dục,

Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này, đặc biệt trong nghị quyết
VIII: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài” và sau đó có một nghị quyết riêng (nghị quyết Trung Ương 2 khóa
VIII) chuyên bàn về giáo dục. Điều đó tiếp tục được khẳng định trong
Đại hội Đảng khóa IX với tinh thần: “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu
10
nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí
tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn”.
Qua những nhận thức của Đảng và những nghị quyết được Đảng đưa
ra, ta thấy rằng giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách, điều đó được thể hiện ở những mặt sau đây:
- Giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực
hiện có hiệu quả các mục đích đã đề ra.
- Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm
sinh- di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được.
- Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật,
nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người.
- Giáo dục còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó
phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Đó chính là hiệu quả
của công tác giáo dục lại đối với trẻ em hư và những người phạm pháp.
- Không giống với những nhân tố khác, giáo dục không chỉ thích ứng mà
còn có thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Điều đó có giá trị
định hướng cho việc xây dựng mô hình nhân cách của con người việt
nam với tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Thực tế giáo dục cũng chứng minh rằng: sự phát triển tâm lý cảu trẻ em
chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của giáo dục và
dạy học tiên tiến. Điều đó càng chứng tỏ được tầm quan trọng của nền
giáo dụctiên tiến. Nền giáo dục, dạy họctiên tiến sẽ tạo nên sự phát triển

nhân cách khi trong quá trình ấy, những sức mạnh của bản thân trẻ được
thúc đẩy, khi nhu cầu, động cơ, hứng thú của trẻ được chú ý, khi giáo dục
11
và dạy học phù hợp với những quy luật bên trong của sự phát triển cá
nhân.
Yếu tố mang tính tiền đề ảnh hưởng đến nhân cách tiếp theo chính là
tư tưởng chính trị. Nòng cốt của tiền đề này chính là chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là những lý luận và tư tưởng vừa có
tính chất khoa học, vừa có tính cách mạng, vừa thấm đẫm chủ nghĩa nhân
văn cao cả: “Tất cả do con người, tất cả vì con người” với lý tưởng tối
cao là con người giải phóng, con người tự do, phát triển toàn diện.Vì vậy,
người dân phải được giáo dục một cách đầy đủ về chủ nghĩa Mác – Lenin
và tư tưởng Hồ Chí Minh để nhân cách được phát triển toàn diện.
c) Một số nhân tố mang tính tiền đề khác
Bên cạnh các yếu tố mang tính tiền đề như vật chất, văn hóa, giáo
dục, tư tưởng còn có yếu tố hoàn cảnh sống, di truyền, hoạt động, giao
tiếp cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và phát triển nhân cách.
Ảnh hưởng của nhân tố môi trường sống đến nhân cách
Hoàn cảnh tự nhiên: nhân cách như là một thành viên của xã hội,
chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên thông qua những giá trị vật chất và
tinh thần, qua phong tục tập quá của dân tộc, của địa phương, của nghề
nghiệp – những cái vốn có liên hệ với điều kiện tự nhiên ấy qua phương
thức sống của chính bản thân nó. Ví dụ như: một người sống lâutrong
rừng, quen với thói chạy nhảy, săn bắt, khi được về thành phố họ cũng
mamg theo sự hoang dã đó. Khi đó, muốn thay đổi được bản tính là một
điều khó khăn và phải mất thời gian khá dài.
Hoàn cảnh xã hội: có vai trò lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình
thành và phát triển nhân cách. Nếu như không có sự tiếp xúc với con
người thì cá thể lớn lên và phát triển trong trạng thái động vật, nó không
12

thể trở thành một con người, một nhân cách. Nhân cách đó là sản phẩm
của xã hội.Quan hệ sản xuất là một thuộc tính của xã hội, quy định nội
dung của nhiều nét tâm lý cơ bản của nhân cách. Tâm lý nhân cách phụ
thuộc vào quan hệ chính trị và pháp luật. vị trí giai cấp cá nhân sẽ kích
thích của nó ở mức độ này, mức độ khác trong vai trò xã hội. nhu cầu,
hứng thú,…phụ thuộc không ít vào vai trò ấy. Trong những mối quan hệ
được nêu trên, nhân cách không chỉ là một khách thể mà còn là một cụ
thể. Cá nhân là một tồn tại có ý thức, nó có thể lựa chọn phương thức
sống của mình và do đó nó lựa chọn những phản ứng khác nhau trước tác
động của hoàn cảnh xã hội. Ngoài ra, ta còn thấy những hiện tượng tâm
lý nhân cách. Dư luận và tâm trạng chung. Đó là sự phán xét đánh giá của
đông người về sự kiện đời sống xã hội của hoạt động tập thể của hành vi
cá nhân, đóng vai trò tích cực hoặc tiêu cực trong đời sống.
• Tâm trạng chung bao trùm bầu không khí lạc quan hay bi quan, sức phấn
đấu chung của cả nhóm hay cá nhân đều chịu ảnh hưởng của tâm trạng
chung đó.
• Thi đua là phương thức tác động qua lại giữa cá nhân, nhóm và tập thể
làm tăng kết quả hoạt động của nhau, nhiều phẩm chất nhân cách, tập thể
được phát triên qua thi đua.
• Bắt chước thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống (vui chơi, học
tập….). Bắt chước diễn ra một cách có ý thức hay không ý thức, bắt
chước trong giao tiếp, ngôn ngữ,v.v…
Ví dụ minh họa: khi bạn tham gia giao thông chẳng may vượt đèn đỏ,
cảnh sát giao thông tuýt còi và phạt hành chính bạn. Để không bị giữ xe,
bạn đã dúi cho anh ta ít tiền. Sau khi được cho đi, bạn phàn nàn rằng cảnh
sát dạo này xuống cấp quá. Tốt nghiệp đại học xong, bạn cũng được vào
13
làm trong ngành cảnh sát. Mặc dù những ngày đầu bạn giữ phẩm chất của
người cảnh sát khá tốt, nhưng khi về nhà bị vợ phàn nàn, bạn bè khích
bác nên cuối cùng bạn cũng nhận tiền của người dân. Đây là một sự tác

động tiêu cực của hoàn cảnh xã hội đến nhân cách.
14
Ảnh hưởng của nhân tố hoạt động
Mọi hoạt động của giáo dục đều là vô nghĩa nếu thiếu hoạt đông của
cá nhân. Vì vậy hoạt động của cá nhân là nhân tố quyết định trực tiếp sự
hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người luôn có tính
mục đích, tính xã hội, được thực hiện bằng những thao tác và công cụ
nhất định. Vì vậy, mỗi loại hoạt động đều có những yêu cầu ở con người
những phẩm chất và năng lực nhất định. Quá trình tham gia hoạt động
làm cho con người hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực
đó.
Ví dụ như khi ta tham gia giao thông trên đường, gặp đèn đỏ ta dừng
lại. Tuy nhiên,có một số người vẫn cố tình vượt và họ đã bị cảnh sát giao
thông phạt vi phạm hoặc họ đã vô tình gây ra những tai nạn thương tâm.
Từ đó, ta ý thức được rằng phải tuân thủ pháp luật.
Thông qua hai quá trình xuất tâm (đối tượng hóa) và nhập tâm (chủ
thể hóa) trong hoạt động, con người, một mặt lĩnh hội được những kinh
nghiệm xã hội lịch sử để hình thành nhân cách, một mặt xuất tâm lực
lượng bản chất vào xã hội, “tạo nên sự đại diện nhân cách” của mình ở
người khác và trong xã hội. Sự hình thành và phát triển nhân cách của
mỗi người phụ thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kì nhất định.
Muốn hình thành nhân cách con người phải tham gia vào các dạng hoạt
động khác, nhất là vai trò của hoạt động chủ đạo.
Tóm lại, hoạt động có vai trò quyết định trực tiếp sự hình thành và
phát triển nhân cách,vì vậy trong công tác giáo dục cần chú ý việc tổ chức
hoạt động sao cho phong phú, hấp dẫn cả nội dung lẫn hình thức để lôi
cuốn cá nhân tham gia tích cực, tự giác. Đặc biệt, cần chú ý tổ chức tốt
15
các hoạt động chủ đạo ở mọi lứa tuổi, vì hoạt động ấy quyết định sự hình
thảnh các cấu trúc tâm lý – nhân cách đặc trưng của lứa tuổi đó.

Ảnh hưởng của nhân tố giao tiếp
Cùng với hoạt động, giao tiếp là một con đường quan trọng trong
công việc hình thành và phát triển nhân cách.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của xã hội loài người. Không thể có xã
hội nếu không có giao tiếp vì xã hội là một cộng đồng người. Đối với cá
nhân, giao tiếp là điều kiện tồn tại và là một nhân tố phát triển tâm lý,
nhân cách họ. C.Mác đã chỉ ra rằng: “sự phát triển của một cá nhân được
qui định bởi sự phát triển của tất cả các cá nhân khác mà nó giao tiếp một
các trực tiếp hay gián tiếp với họ” (C.Mác, Anghen, toàn tập – tập 3). Bởi
lẽ ở mỗi người đều chứa đựng những kinh nghiệm xã hội – lịch sử. Trong
quá trình giao tiếp, mỗi cá nhân sẽ được lĩnh hội những kinh nghiệm ấy
để tồn tại và phát triển.
Không chỉ là điều kiện cho sự phát triển, giao tiếp còn là con đường
hình thành nhân cách con người. Bằng giao tiếp, con người gia nhập vào
các quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, các chuẩn mực xã hội và
“tổng hòa các mối quan hệ xã hội” thành bản chất con người, đồng thời
thông qua giao tiếp, con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng
chung của nhân loại, của xã hội.
Trong giao tiếp con người không chỉ nhận thức được người khác,
nhận thức các quan hệ xã hội, mà còn nhận thức được chính bản thân
mình, tự đối chiếu, so sánh mình với người khác, với chuẩn mực xã hội,
tự đánh giá bản thân mình để hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc đối
với bản thân. Hay nói khác đi, qua giao tiếp con người hình thành năng
lực tự ý thức – một thành phần quan trọng trong nhân cách. Qua giao tiếp,
16
chúng ta học hỏi những người xung quanh, vì vậy mà trưởng thành nhanh
chóng.
Ví dụ chứng minh: Khi còn học phổ thông, ta có thói quen xấu như:
cẩu thả, luộm nhuộm….vì ta vẫn sống cùng bố mẹ, phụ thuộc vào bố mẹ.
Nhưng khi vào đại học, sống xa gia đình, phải tự lập, ở cùng bạn bè mới,

được tiếp xúc với con người mới, nền giáo dục mới, ta nhận ra những thói
quen trước kia của mình là không tốt. Chính vì vậy ta ý thức được rằng
cần phải thay đổi những thói hư tật xấu trước kia, từ đó góp phần hoàn
thiện nhân cách bản thân.
Tóm lại giao tiếp là hình tức đặc trưng cho mối quan hệ người –
người, là một yếu tố cơ bản của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức,
nhân cách. Song mọi hoạt động và giao tiếp của con người chỉ có thể diễn
ra trong cộng đồng, trong nhóm và tập thề.
Ảnh hưởng của nhân tố bẩm sinh – di truyền
Hiểu một cách đơn giản, bẩm sinh là những đặc điểm sinh lý mà khi
sinh ra đã sẵn có. Di truyền là được truyền từ đời này sang đời khác bằng
con đường sinh học. Để nhận thức đúng vai trò của bẩm sinh – di truyền
trong sự phát triển tâm lý nhân cách, ta cần phải thừa nhận một thực tế là
mọi cơ thể bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần
của mình. Hơn thế, hoạt động tâm sinh lý của con người lại có khả năng
bù trừ: sự thiếu hụt của giác quan này có thể làm tăng tính nhạy cảm của
giác quan khác, một chức năng tâm lý bị phá hủy có thể được khôi phục
bằng cách luyện tập để thiết lập chức năng mới trên võ não ứng với chức
năng tâm lý đó. Ngoài ra, sự tác động của yếu tố di truyền đối với từng
giai đoạn phát triển lứa tuổi và đối với từng hoạt động cụ thể khác nhau.
17
Ví dụ: khả năng tiềm tàng của bộ máy phân tích âm thanh cần phải
được phát triển từ thời thơ ấu. Nó lá đặc điểm duy truyền khác của cơ thể.
Qua đó, ta nhận ra rằng bẩm sinh – di truyền là nền tảng tự nhiên cho sự
hình thành và phát triển nhân cách.
Tóm lại, các yếu tố trên tác động đan xen vào nhau, bổ sung hỗ trợ
cho nhau trong việc hình thành và phát triển nhân cách.
2. Vấn đề nhân cách con người Việt Nam hiện nay so với các dân tộc
văn minh và những yêu cầu xây dựng con người MỚI
Nhân cách của mỗi cá nhân không phải hình thành một lúc, một lần là

xong mà phải diễn ra theo một quá trình dài suốt cả một đời người.
Đương nhiên trong quá trình đó có những thời kỳ quan trọng hơn (theo
quan điểm của các nhà tâm lý – nhân cách thì thời kỳ đó là trước tuổi 30).
Quá trình hình thành nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa nói
chung và ởViệt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
a) Các giá trị đã có
Những giá trị đã đạt được thể hiện ở việc từng bước tạo lập những
tiền đề cho sự hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lấy nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa làm tiền đề vật chất,
tiền đề tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM, và tiền đề
giáo dục là cải cách hệ thống giáo dục quốc dân nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Mô hình nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “mô
hình động”. Trong thời kỳ quá độ hiện nay, về đại thể, mô hình đó là:
- Tự giác nâng cao trình độ lý luận Mác – Lênin để hình thành thế giới
quan khoa học và phương pháp luận biện chứng.
18
- Hăng say học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn để có năng lực
thật sự trong công việc, để có sáng kiến, cải tiến công tác đưa đến năng
suất, hiệu quả cao.
- Không ngừng nâng cao đạo đức, lối sống trên cơ sở những chuẩn mực giá
trị mới đã và đang hình thành trong xã hội.
b) Các khiếm khuyết, biểu hiện lạc hậu cần khắc phục
• Tiền đề vật chất
- Mức sống người dân còn chưa được nâng cao;
- Việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng đặc biệt là sức khỏe bà
mẹ và trẻ em chưa được tốt lắm và còn chưa được quan
tâm đúng mực;
- Con người đang phải sống trong một môi trường tự nhiên
ngày càng bị ô nhiễm;

- Gia đình, nhà trường và xã hội còn mắc phải một số khiếm
khuyết trong giáo dục, đào tạo, điều chỉnh, hoàn thiện
nhân cách con người.
- Thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa đang trên đà phát triển nên cũng còn khá nhiều bất
cập, tình trạng lạm phát còn cao.
• Tiền đề tư tưởng, giáo dục
Trong lĩnh vực giáo dục:
- Giáo dục và dạy họccòn khá khô khan, chưa kích thích được sự phát triển
trí tuệ của trẻ
19
- Giáo dục tâm - sinh lý và nhận thức thế giới xung quanh còn chưa được
chú trọng.
Trong lĩnh vực t ư tưởng:
- Tiền đề tư tưởng giáo dục của xã hội ta là chủ nghĩa Mac -
Lênin và tư tưởng Hô Chí Minh chưa được tuyên truyền
rộng rãi cho mọi tầng lớp nhân dân.
- Tình trạng tham nhũng còn khá phổ biến trong bộ máy
của Đảng và Nhà nước.
- Một bộ phận nhỏ cán bộ Đảng – Nhà nước bị suy thoái về
mặt đạo đức cách mạng.
Tham nhũng (Ảnh minh họa) Thực trạng trong sạch trong
bộ máy Nhà nước (Tranh biếm họa)
c) Một số kiến nghị khác
Dựa trên tiền đề vật chất
Cần bảo đảm về mặt sinh học với các yêu cầu sau:
- Nâng cao mức sống người dân;
- Chăm sóc tốt sức khỏe cộng đồng đặc biệt là sức khỏe bà
mẹ và trẻ em;
20

- Con người được sống trong một môi trường tự nhiên trong
lành;
- Gia đình, nhà trường và xă hội thực sự là môi trường tốt để
giáo dục, đào tạo, điều chỉnh, hoàn thiện nhân cách con
người.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Dựa trên tiền đề tư tưởng, giáo dục
Trong lĩnh vực giáo dục:
- Những yêu cầu của nhà trường, nhà giáo dục, của môi trường giáo dục
xung quanh đề ra cho trẻ phải không ngừng tăng dần mức độ phức tạp và
khó khăn. Như vậy mới kích thích được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
- Giáo dục và dạy học một mặt phải dựa trên sự phát triển đã đạt được của
học sinh, mặt khác phải đi trước sự phát triển trí tuệ, kéo sự phát triển ấy
tiến lên theo hướng tiến bộ.
- Chú ý kích thích hoạt động học tập của học sinh, thường xuyên tổ chức
các hoạt động phong phú cho học sinh tham gia. Chính vì nhờ thông qua
hoạt động và giao tiếp ấy mà trẻ ngày càng phát triển về tâm lý, càng
nhận thức thế giới một cách sâu sắc hơn.
- Đánh giá đúng mức vai trò của giáo dục trong mối quan hệ với các yếu tố
khác.
- Xây dựng một nền giáo dục tiến bộ nhằm nâng cao dân trí
đào tạo nguồn nhân lực bồi dưỡng nhân tài. Hoàn thiện
nhân cách cả về đức, trí, thể, mỹ. Từng bước nâng cao
21
chất lượng, hiệu quả giáo dục – đào tạo, khoa học – công
nghệ.
Trong lĩnh vực t ư tưởng:
- Lấy nòng cốt của tiền đề tư tưởng giáo dục của xã hội ta là

chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hô Chí Minh, đó là
những lý luận và tư tưởng khoa học, cách mạng, thấm
đẫm chủ nghĩa nhân văn cao cả.
- Từng bước hoàn thiện và mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
- Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, làm trong
sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước.
22
Tuyên truyền lối sống, học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh(Ảnh minh họa)
23
C. KẾT LUẬN
Như vậy, có thể nói, sự hình thành và phát triển nhân cách là một quá
trình lâu dài và phức tạp. Trong quá trình đó, giữa các yếu tố bên trong và
bên ngoài, giữa cái sinh học và cái xã hội thường xuyên tác động lẫn nhau
một cách không ngừng và vai trò của mỗi yếu tố đó thay đổi trong từng
giai đoạn phát triển của mỗi người. Trong quá trình sống, con người có
được kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen,… và ngược lại, khi tiếp
nhận bất cứ việc gì cũng dựa trên chuẩn mực xã hội để điều chỉnh hành vi
của mình cho phù hợp. Không chỉ thế, họ còn dựa vào những cái bên
trong, những kinh nghiệm của mình để đánh giá, tiếp nhận hay gạt bỏ cái
bên ngoài. Như thế, quá trình này luôn gắn với năng lực tự đánh giá, tự ý
thức của mỗi người và do vậy, gắn với quá trình tự giáo dục, tự hoàn
thiện mình của nhân cách. Nhân cách không phải là một cái gì đó mang
tính hoàn tất, mà nó luôn là một quá trình đòi hỏi trau dồi thường xuyên
và không ngừng.
24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Giáo trình chính trị,Nxb Giáo Dục, năm 2009.
2. GS. Lê Thi, Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người

Việt Nam, Nxb Phụ Nữ.
3. Bài tập tâm lí học đại cương,website:
4. Giáo dục và sự phát triển nhân cách, website:

Và một số tài liệu có liên quan khác.
25

×